Dặm Xanh

Chương 4

Docsach24.com
ăm trước khi tất cả những sự việc này xảy ra và sẽ không bao giờ lên ngôi nữa, nhưng trong những năm của thập niên ba mươi nó có được chút hồi sinh. Không còn đồn điền trồng bông vải, nhưng có năm mươi trang trại bông vải thịnh vượng ở phía Nam tiểu bang chúng tôi. Klaus Detterick làm chủ một trong những trang trại đó. Theo tiêu chuẩn của những năm 1950, ông ta chỉ được xem là trên bọn khố rách áo ôm một bậc, nhưng với tiêu chuẩn của thập niên 1930 lại được đánh giá là sung túc, vì ông ta thực sự thanh toán chi phiếu cửa hàng bằng tiền mặt vào cuối tháng, và dám nhìn thẳng vào mắt ông chủ tịch ngân hàng nếu tình cờ họ đi qua mặt nhau ngoài phố. Trang trại của ông ta sạch sẽ và thênh thang. Ngoài bông vải còn có hai thứ khác: gà và một ít bò. Ông ta và bà vợ có ba con: Howard, mười hai tuổi cùng hai con gái song sinh: Cora và Kathe.

 

Một đêm ấm áp tháng sáu năm ấy, hai cô bé gái hỏi xin và được phép ngủ ngoài hiên bên hông nhà có tấm sáo che, chạy dọc theo chiều dài ngôi nhà. Đây là một biệt đãi dành cho chúng. Mẹ chúng hôn chúng và chúc ngủ ngon lúc chín giờ, khi tia sáng cuối cùng đã tắt trên nền trời. Đấy là lần cuối cùng bà ta gặp con trước khi chúng nằm trong quan tài và nhà đoàn đã sửa chữa những hư hỏng tồi tệ nhất.

Vào những ngày đó, các gia đình ở vùng quê đi ngủ sớm và ngủ rất ngon. Chắc chắn Klaus, Marjorie và Howard Detterick ngủ ngon vào đêm đôi bé gái song sinh bị bắt cóc. Lẽ ra Klaus bị đánh thức bởi Bowser, con chó già nòi collielai to xác của gia đình nếu nó sủa, nhưng Bowser đã không sủa. Đêm đó và không bao giờ nó sủa nữa.

Klaus thức dậy cùng tia nắng đầu tiên để vắt sữa. Mái hiên ở bên hông nhà, cách xa vựa thóc và Klaus không nghĩ đến chuyện tạt qua chỗ các con gái. Việc Bowser không đi theo ông ta cũng không gây xáo động. Con chó chăn đàn bò và lũ gà như nhau với thái độ khinh miệt, thường xuyên trốn trong cũi phía sau vựa thóc khi công việc đang được tiến hành, trừ khi bị gọi thật tích cực.

Mười lăm phút sau, Marjorie xuống dưới nhà sau khi chồng đã mang ủng trong phòng để giày và nặng nề đi ra vựa thóc. Bà ta bắt đầu pha cà phê, rồi rán thịt lợn muối. Các mùi vị kết hợp đã kéo Howard từ căn phòng ở đầu hồi xuống dưới nhưng bọn con gái ở hiên nhà thì không. Bà ta sai Howard đi tìm chúng về trong lúc bà đập trứng cho vào mỡ thịt lợn muối. Klaus muốn hai đứa con gái ra ngoài nhặt trứng mới mỗi khi ăn sáng xong. Có điều sáng hôm ấy trong nhà Detterick không có bữa ăn sáng. Howard từ hiên nhà trở lại, mặt trắng bệch, cặp mắt vốn sưng húp có vẻ buồn ngủ thì giờ đây mở trao tráo.

- Các em mất tích rồi! - Thằng bé thốt lên.

Marjorie đi ra hàng hiên, lúc đầu chỉ thấy bực tức hơn là hoảng hốt. Sau này bà ta nói bà ta giả định, nếu quả thật bà ta có giả định điều gì, rằng bọn con gái đã quyết định đi dạo và hái hoa trong ánh sáng sớm của bình minh. Là thế hoặc trò dại dột gì đó của bé gái thôi. Một cái nhìn, và bà ta hiểu tại sao mặt Howard trắng bệch.

Bà ta hét lên gọi Klaus và Klaus chạy đến, đôi giày ống bảo hộ trắng xóa do ông vấp phải xô sữa, đổ lên giày. Cái ông ta thấy trên hiên nhà sẽ làm bủn rủn chân tay hầu hết các bậc cha mẹ dũng cảm nhất. Những tấm chăn mà hai đứa bé gái sẽ chui vào khi rời đêm tàn dần và trở lạnh, bị ném vào một góc. Tấm sáo che bị giật tuột khỏi bản lề trên và treo ngả nghiêng, thò ra ngoài sân. Trên những tấm ván đóng hiên và bạc thềm bên kia tấm sáo là những giọt máu tung tóe.

Marjorie nài nỉ chồng đừng đi tìm mấy đứa con gái một mình, đừng đem theo con trai nếu ông cảm thấy phải đuổi theo, nhưng chỉ tốn hơi vô ích. Ông ta lấy khẩu súng săn dựng trên cao trong phòng để giày và đưa cho Howard khẩu súng hai mươi hai li mà họ để dành tặng sinh nhật thằng bé vào tháng bảy. Thế là họ lên đường, không ai đoái hoài đến tiếng kêu khóc của người phụ nữ đang muốn biết họ sẽ làm gì nếu chạm trán với một bọn lang thang vô gia cư, hoặc một đám nô lệ da đen xấu thối thoát ra từ nông trang của hạt ở Laduc. Trong chuyện này, tôi nghĩ những người đàn ông đã làm đúng, bạn biết đấy. Máu đã thôi không chảy nhưng vẫn còn hơi dính, gần với màu đỏ tươi hơn màu nâu sẫm của máu khô, chứng tỏ vụ bắt cóc xảy ra chưa lâu. Chắc chắn Klaus tin còn có cơ hội để cứu con gái và ông ta nhất quyết nắm lấy cơ hội đó.

Cả hai bố con không ai biết chút gì về kĩ thuật theo dõi dấu vết vì họ không phải thợ săn. Mảnh sân quanh nhà là một vạt đất khô héo, đầy những vết chân chồng lên nhau trong một mớ rối rắm vô nghĩa. Họ đi quanh vựa thóc và gần như tức thì hiểu ra tại sao Bowser, một gã cắn dở nhưng sủa giỏi lại không báo động. Con chó nằm nửa trong nửa ngoài cái cũi đóng bằng những tấm ván còn thừa sau khi đựng vựa thóc, đầu nó xoắn quanh cổ gần như hẳn một vòng. Phải là người có sức mạnh khủng khiếp mới hạ nổi một con vật cỡ lớn như thế - công tố viên tuyên bố trước hội thẩm đoàn xét xử John Coffey... rồi ném một cái nhìn lâu đầy hàm ý vào gã bị cáo đồ sộ đang ngồi sau bàn bào chữa, mắt nhìn xuống, trên người mặc một bộ áo liền quần có yếm mới toanh mua bằng tiền của tiểu bang, có vẻ như tội lỗi vừa ẩn trong bộ y phục vừa chính là nó. Bên cạnh con chó, Klaus và Howard tìm thấy một mẩu xúc xích luộc. Giả thuyết - một giả thuyết vững chắc, tôi không có gì nghi ngờ - là Coffey đã dụ con chó ăn, sau đó, khi Bowser bắt đầu ăn mẩu xúc xích cuối cùng, gã vươn tay ra và bẻ cổ nó bằng một cú xoay cổ tay đầy uy lực.

Phía bên kia nhà kho là đồng cỏ phía bắc của Detterick, hôm ấy không có con bò nào gặm. Cánh đồng ướt sũng sương mai, và xuyên qua nó, cắt thành một đường chéo đến hướng Tây - Bắc rõ như ban ngày, là dấu chân người đạp thành đường mòn.

Dù đang ở trạng thái sắp phát cuồng, Klas Detterick do dự, lúc đầu không muốn lần theo vết. Không phải vì sợ kẻ đã bắt cóc con gái mình; ông ta sợ sẽ đi ngược lại lối cũ của tên bắt cóc... sợ đi sai hướng vào thời điểm mỗi giây phút đều quý giá.

Howard giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan khi nhổ được một mảnh vải bông màu vàng vướng trên bụi cây mọc ngay bên kia ranh giới sân. Klaus cũng được đưa cho xem mảnh vải khi ngồi ở ghế nhân chứng, và ông ta bắt đầu khóc khi nhận ra mảnh quần ngủ của Kathe, con gái mình. Xa hơn 20 yard, lủng lẳng trên một cành bách xù nhô ra, họ thấy một mảnh vải xanh bạc, khớp màu với vải áo ngủ mà Cora đã mặc khi nó hôn bố mẹ và chúc ngủ ngon.

Hai bố con nhà Detterick xông lên, súng chĩa ra trước mặt như binh sĩ vượt qua vùng tranh chấp dưới làn hỏa lực mạnh. Nếu tôi có ngạc nhiên trước bất cứ điều gì xảy ra ngày hôm ấy, là chuyện thằng bé chạy thục mạng theo bố mà không ngã và trút một viên đạn vào lưng Klaus Detterick.

Hôm ấy tại trang trại của họ diễn ra cuộc trao đổi hàng hóa - lại một dấu hiệu cho thấy nhà Detterick đang phát đạt, ít nhất cũng là khá giả trong giai đoạn tồi tệ - và Marjorie sử dụng Trung tâm để gọi nhiều người hàng xóm của bà ta, kể cho họ nghe về tai họa từ trời cao giáng xuống đầu, trong lòng biết rằng mỗi cú gọi sẽ tạo ra sư lan truyền, giống như ném nhanh những viên sỏi xuống một cái ao tĩnh mịch. Rồi bà ta nhấc ống nghe lên lần cuối, nói những lời gần như là biểu tượng của hệ thống điện thoại sơ khai thời bấy giờ ở miền Nam thôn dã:

- Alô, Trung tâm, bạn có trên đường dây không?

Trung tâm có trên đường dây thật, nhưng trong một khoảnh khắc không thốt nên lời - cô điện thoại viên đáng kính đó đang bị kích động. Sau cùng, cô ta cũng xoay xở được.

- Vâng, thưa bà, bà Detterick, ôi trời ơi, lạy Chúa lòng lành, tôi đang cầu nguyện cho các con của bà được bình yên.

- Dạ, cảm ơn cô. - Marjorie đáp lại. - Nhưng cô làm ơn nối đường dây cho tôi liên lạc với văn phòng cảnh sát trưởng ở Tefton được chứ?

Cảnh sát trưởng của hạt Trapingus là một ông già mũi đỏ ửng vì rượu whisky, bụng to bằng thùng giặt quần áo và mái tóc trắng phau, mịn đến mức trông như loại xơ dùng để lau tẩu hút thuốc. Tôi biết rõ ông ta; ông ta từng nhiều lần đến Cold Mountain để chứng kiến cái ông ta gọi là “những chàng trai của tôi” khởi hành đi vào chốn hư vô. Nhân chứng đến chứng kiến thi hành án ngồi trên loại ghế xếp mà có lẽ chính bạn đã từng ngồi một hai lần gì đó, trong các đám tang hoặc bữa ăn tối từ thiện nhà thờ, hoặc sòng bạc ở Grange. Mỗi khi cảnh sát trưởng Homer Cribus ngồi lên một chiếc ghế, tôi lại chờ đợi tiếng gãy khô khốc; báo hiệu sự sụp đổ. Cùng một lúc tôi sợ ngày xảy ra chuyện đó vừa mong nó xảy ra, nhưng ngày đó không bao giờ đến. Không lâu, không hơn một mùa hè sau ngày những bé gái nhà Detterick bị bắt cóc - ông ta lên cơn đau tim tại văn phòng của mình, dường như trong lúc ngủ với cô gái da đen mười bảy tuổi tên là Daphne Shurtleff. Có nhiều lời xầm xì về vụ đó, cùng với việc lúc nào cũng khoe khoang bà vợ và sáu thằng con trai khắp nơi rất lộ liễu, là thời kì bầu cử - đấy là thời kì nếu bạn muốn đua tranh điều gì đó thì đã có câu châm ngôn “Hoặc là người ngoan đạo hoặc cút đi.” Nhưng con người vốn ưa thích kẻ đạo đức giả, bạn biết đấy - người ta nhận ngay ra một kẻ đạo đức giả giữa họ, và luôn luôn cảm thấy vui sướng khi ai đó bị bắt quả tang phạm tội và không phải là mình.

Ngoài bản chất đạo đức giả, ông ta còn bất tài, một loại người thích chụp ảnh chính mình đang vỗ về con mèo của một quý bà khi có người nào khác - phụ tá cảnh sát trưởng Rob McGee chẳng hạn - đã thực sự liều mạng chịu gãy xương đòn gánh bằng cách trèo lên cây để đưa cô mèo xuống.

McGee lắng nghe Marjorie Detterick lải nhải trong khoảng hai phút, rồi ngắt lời bà ta bằng bốn hay năm câu hỏi ngắn ngủi và cộc lốc, giống như một chiến binh dày dạn tung ra những cú đánh nhẹ vào mặt, một loạt cú đấm nhẹ và rắn đến nỗi máu bật ra trước khi đau. Khi đã có những câu trả lời, ông ta bảo:

- Tôi sẽ gọi Bobo Marchant. Hắn có chó. Bà ở yên đây, thưa bà Detterick. Nếu chồng và con trai bà về, hãy giữ họ cùng ở lại. Dù sao cũng phải cố thôi.

Trong lúc đó, chồng và con trai bà ta đi theo dấu chân tên bắt cóc ba dặm về hướng Tây Bắc, nhưng khi ra đến những cánh đồng rồi vào trong rừng thông thì họ mất dấu. Như tôi đã nói, họ là nông dân, không phải thợ săn, và đến lúc ấy họ biết là đang truy đuổi một con ác thú. Trên đường truy đuổi, họ phát hiện loại vải vàng khớp với vải quần của Kathe, và một mẩu vải ngủ khác của Cora. Cả hai mẩu đều đẫm máu, và cả Klaus lẫn Howard không còn hăng máu như lúc đầu nữa; một sự khẳng định lạnh lùng hẳn đã chen vào niềm hi vọng nóng bỏng của họ, lan xuống dưới như kiểu nước lạnh chìm xuống dưới vì nặng hơn.

 

Họ hướng ánh mắt vào trong rừng, tìm kiếm những dấu hiệu nhưng không phát hiện, nhìn vào một nơi thứ hai cũng không có kết quả, rồi nơi thứ ba. Lần này họ khám phá vết máu tung tóe trên những chiếc lá hình kim của một cây thông đỏ. Họ đi theo hướng có vẻ như đúng lối, rồi lại bắt đầu quá trình nhìn ngó. Lúc ấy đã là chín giờ sáng, từ sau lưng, họ bắt đầu nghe tiếng người la lối và tiếng chó sủa. Rob McGee đã thành lập một đội dân quân trong khoảng thời gian mà cảnh sát trưởng Cribus dùng để kết thúc tách cà phê pha rượu mùi đầu tiên trong ngày, và mười lăm phút sau họ đã theo kịp Klaus và Howard Detterick, lúc ấy đang loạng choạng một cách tuyệt vọng quanh bìa rừng. Chẳng bao lâu mọi người lại tiến lên, dẫn đầu là những con chó của Bobo. McGee cho Klaus và Howard tiếp tục đi với họ - họ sẽ không quay về dù anh ta có ra lệnh, bất kể nỗi khiếp sợ biết bao trước kết quả phát hiện, và McGee hẳn phải hiểu điều đó - nhưng anh ta buộc họ tháo đạn ra khỏi súng. Những người khác cũng đã làm thế, McGee nói như vậy an toàn hơn. Điều anh ta không nói với họ là chỉ có gia đình nhà Detterick bị yêu cầu giao nộp đạn cho cảnh sát. Nửa bị rối trí và nửa chỉ muốn đi đến tận cùng cơn ác mộng và giải quyết cho xong, họ làm theo lời anh ta yêu cầu. Khi Rob McGee thuyết phục được bố con nhà Detterick tháo băng đạn giao cho mình, có lẽ anh ta đã cứu John Coffey thoát khỏi cuộc kết liễu đau khổ.

Lũ chó sủa vang vừa lôi kéo họ băng qua hai dặm đường đầy bụi thông, theo mãi hướng Tây Bắc đầy khó khăn. Thế rồi họ ra khỏi rừng đến bên bờ sông Trapigus, rộng và chậm chạp ở điểm này, chảy theo hướng Đông Nam qua những ngọn đồi thấp có rừng, nơi những gia đình họ Cray, Robinette và Duplissey vẫn còn tự làm lấy đàn mandolin và thường xuyên khạc ra những cái răng sâu trong khi cày ruộng; một vùng quê sâu, nơi đàn ông có khả năng kiềm chế rắn độc vào sáng chủ nhật rồi tận hưởng thú nhục dục với con gái họ trong đêm chủ nhật. Tôi biết gia đình họ; hầu hết đều thỉnh thoảng cung cấp một bữa ăn cho Già Sparky. Ở xa bên kia bờ sông, những người trong toán dân quân có thể thấy mặt trời tháng sáu lấp lánh trên đường ray của tuyến đường xe hỏa Great Southern. Khoảng một dặm xuôi dòng sông về phía tay phải, là một cây cầu bắc ngang, hướng về những bãi than vùng West Green.

Tại đây, họ tìm thấy một vạt cỏ rộng và bụi cây thấp bị giẫm nát, đẫm máu đến mức nhiều người trong số họ phải nhảy lui vào trong rừng và tự giải thoát khỏi bữa ăn sáng. Họ cũng đồng thời tìm được phần áo ngủ còn lại của Cora trong vạt đất đẫm máu và Howard, vẫn vững vàng đáng khen cho đến lúc ấy, đã lùi lại đụng vào người bố nó, suýt ngất xỉu.

Chính tại đây, đàn chó của Bobo Marchant đã có cuộc cãi vã đầu tiên và duy nhất trong ngày. Có sáu con tất cả, hai con chó săn nòi bloodhound, hai con bluetick, và một số chó lai dạng terrier mà dân biên giới miền Nam gọi là coon hound. Lũ coon hound muốn đi theo hướng Tây Bắc, ngược lên dòng Trapingus; bọn còn lại muốn đi theo hướng ngược lại - hướng Đông Nam. Chúng rối vào nhau trong mớ dây dắt chó, và mặc dù báo chí không đả động gì đến chuyện này, tôi có thể hình dung ra những lời chửi thề ghê rợn của Bobo giáng xuống đầu đàn chó, trong khi anh ta sử dụng đôi bàn tay - chắc chắn đấy là phần có giáo dục nhất của anh ta - để chỉnh đốn chúng. Vào thời của tôi, tôi có biết một số người nuôi chó săn và kinh nghiệm cho tôi biết, tính theo giai cấp thì họ quả thật là con nhà nòi đáng nể.

Bobo thâu ngắn dây dắt thành một gói, rồi gí manh áo ngủ rách nát của Cora vào mũi đàn chó, như thể nhắc nhở chúng về điều chúng đang làm ngoài trời vào một ngày mà nhiệt độ sẽ là 100 độ vào buổi trưa, và cơn buồn nôn đã luẩn quẩn trong đầu toán dân quân như những đám mây. Lũ coon hound ngửi một lần nữa, quyết định đúng đắn, rồi tất cả phóng xuôi theo dòng sông, sủa vang dậy.

Không đầy mười phút sau cả bọn dừng lại, nhận thấy họ không nghe được chỉ tiếng chó sủa. Đấy là một âm thanh giống tiếng tru hơn là tiếng sủa, và là thứ âm thanh mà chó không bao giờ phát ra, ngay cả trong cực điểm hấp hối. Đấy là một thứ âm thanh mà chưa ai trong số họ nghe, nhưng họ nhận ra ngay, rằng đấy là một con người. Họ kể lại như thế, và tôi tin họ. Tôi nghĩ mình cũng sẽ nhận ra. Tôi nghĩ đã từng nghe con người gào lên theo cách đó khi đi trên con đường dẫn đến ghế điện. Không nhiều - phần lớn câm nín và yên lặng đi, hoặc nói chuyện tếu, như thể đấy là một buổi picnic của lớp học - nhưng một số ít thì có. Thường thường là những kẻ tin rằng địa ngục có thật, và biết rằng nó đang chờ họ ở cuối Dặm Đường Xanh.

Bobo lại thâu ngắn dây dắt chó lần nữa. Chúng rất đáng giá và anh ta không có ý định để mất chúng cho tiếng tru điên loạn ở phía xa dưới kia. Những người khác thì nạp đạn và đóng cơ bẩm. Tiếng tru đó khiến tất cả bọn họ lạnh toát, mồ hôi tuôn ra dưới cánh tay và chảy xuống lưng như nước đá. Khi người ta sợ hãi đến lạnh toát như thế thì họ cần một người chỉ huy nếu phải tiếp tục, và phụ tá cảnh sát trưởng McGee đã chỉ huy họ. Anh ta tiến lên phía trước và mạnh dạn bước đến một hàng cây nhô ra khỏi cánh rừng bên tay phải, trong khi toán người còn lại lo sợ lê bước theo sau cách khoảng năm bước chân. Anh ta chỉ dừng lại một lần, để ra hiệu cho người to lớn nhất trong bọn - Sam Hollis - đi gần Klaus Detterick.

Phía bên kia tàng cây có thêm nhiều vạt đất trống, trải ngược vào rừng bên tay phải. Bên trái là sườn dốc dài, thoai thoải của bờ sông. Tất cả đứng lại tại chỗ, chết sững. Tôi nghĩ họ sẽ vật vã rất nhiều để đừng thấy điều trước mắt họ, và sẽ không ai trong số họ quên nổi cảnh tượng đó - nó là một thứ ác mộng, lộ liễu và mơ hồ dưới ánh mặt trời, vượt xa những hình thức bề ngoài của cuộc sống tử tế và bình thường - bữa ăn từ thiện của nhà thờ, đi dạo trên những con đường làng quê, công việc lương thiện, nụ hôn tình ái trên giường. Trong mỗi con người có một cái sọ, và tôi nói bạn nghe, có một cái sọ trong cuộc đời của tất cả mọi người. Ngày hôm ấy, họ đã nhìn thấy điều đó, những con người đó - họ thấy cái nhe răng đôi khi ở đằng sau nụ cười.

Ngồi trên bờ sông, trong bộ áo liền quần màu bạc, vấy máu là gã đàn ông to lớn nhất mà chưa ai trong số họ từng gặp - John Coffey. Bàn chân khổng lồ, ngón cái loe ra không mang giày. Trên đầu gã quấn một cái khăn đỏ bạc màu, theo kiểu phụ nữ vùng quê quấn khăn khi vào nhà thờ. Ruồi nhặng bay quanh gã thành một đám mây đen. Cuộn tròn trong mỗi cánh tay gã là cái xác trần trụi của một bé gái. Mái tóc vàng của chúng, một thời xoăn tít và nhẹ như tơ, bây giờ bết vào đầu và vấy máu. Gã đàn ông ôm chúng đang ngồi rống lên trời cao như một con bê khờ dại, đôi má nâu sẫm của gã bóng nhẫy nước mắt, bộ mặt méo mó trong cơn co thắt ghê rợn vì đau khổ. Gã hít hơi từng hồi, ngực phồng lên đến khi những dây đeo yếm căng ra, rồi nhả số lượng không khí mênh mông đó bằng những tiếng tru. Các bạn thường đọc thấy trong báo rằng “kẻ sát nhân không tỏ ra hối hận”, nhưng trong trường hợp này thì sai. John Coffey bị xé tan nát vì điều gã gây ra... nhưng sẽ còn sống. Những bé gái thì không. Chúng đã bị phanh thây theo một cách căn bản hơn.

Dường như không ai ý thức được mình đã đứng nhìn gã đàn ông tru rống mất bao lâu, còn gã thì, qua mặt sông rộng phẳng lặng, nhìn chiếc xe hỏa phía bên kia đang lao trên đường ray hướng về chiếc cầu bắc qua sông. Dường như họ đã nhìn trong một giờ hay vĩnh viễn, thế nhưng chuyến xe hỏa vẫn không tiến được xa hơn, có vẻ như chỉ chạy tại chỗ, giống như một đứa trẻ giậm chân hờn dỗi, mặt trời không nép mình sau bóng mây và cảnh tượng không bị che mờ trước mắt. Nó ở đó ngay trước mặt họ, thật như một vết chó cắn. Gã da đen lắc lư tới lui; Cora và Kathe cùng lắc lư với gã như búp bê trong tay một gã khổng lồ. Các bắp thịt vấy máu trên đôi tay to tướng để trần của gã cứ co vào giãn ra, co vào giãn ra.

Chính Klaus Detterick là người phá vỡ cảnh tượng bất động. Ông ta gào lên, xông thẳng vào con quái vật đã hãm hiếp và giết chết con gái mình. Sam Hollis biết nhiệm vụ và cố gắng thi hành nhưng không được. Anh ta cao hơn Klaus 6 inch và nặng hơn ít nhất 70 pound, nhưng Klaus dường như chỉ lắc vai đã tuột ra khỏi vòng tay ôm của Sam. Klaus phóng qua vạt đất trống ở giữa, đá vào đầu Coffey. Chiếc giày ống có lớp sữa đổ bị đóng bánh, bốc mùi chua vì sức nóng, đập trúng vào thái dương bên trái của Coffey nhưng dường như gã không có cảm giác. Gã chỉ ngồi đó, than vãn ai oán, lắc lư và nhìn qua bên kia sông.

Phải cần đến bốn người để tách người nông dân điên loạn ra khỏi John Coffey, và ông ta đã tặng cho Coffey - tôi không biết là bao nhiêu - cú đá ác liệt trước khi họ lôi được ông ta ra. Có vẻ Coffey không hề hấn gì; gã tiếp tục nhìn sang bên kia sông và than vãn. Về phần Detterick, tất cả ý chí chiến đấu tắt lịm khi sau cùng ông ta bị kéo ra - như thể một dòng điện xi mạ kì dị đã chạy qua gã da đen khổng lồ và khi sự tiếp xúc của Detterick với nguồn điện đó sau cùng bị cắt đứt thì ông ta rũ xuống, như người bị văng ra khỏi dây điện. Ông ta dạng chân quỳ trên bờ sông, tay úp vào mặt, khóc nức nở. Howard đến với bố và họ ôm nhau, trán chạm vào trán.

Hai người trông chừng họ, trong khi những người còn lại lập thành một vòng súng ống, vây quanh gã da đen đang rên rỉ. Dường như gã vẫn không nhận thấy tất cả mọi người. McGee bước ra phía trước, thay đổi chân trụ từ chân này sang chân kia một chút, rồi ngồi xổm xuống đất.

- Ông ơi! - Anh ta nói bằng một giọng êm ả, và Coffey nín ngay. McGee nhìn vào đôi mắt đã vằn máu vì khóc. Thế mà chúng vẫn trào nước mắt, như thể ai đó để lại vòi nước trong người gã. Đôi mắt đó khóc lóc, thế nhưng vì lí do nào đó, chúng vô hồn... xa vắng và bình thản. Tôi nghĩ chúng là đôi mắt kì lạ nhất mà tôi từng thấy trong đời, và McGee cũng nghĩ thế.

- Giống mắt của một con vật chưa bao giờ nhìn thấy loài người. - Anh ta nói với một phóng viên tên Hammersmith ngay trước phiên tòa.

- Ông ơi, ông có nghe tôi nói không? - McGee hỏi.

Vẻ chậm chạp, Coffey gật đầu. Gã vẫn vòng tay ôm những con búp bê không nói được của gã, cằm của chúng đập vào ngực nên không thấy rõ mặt, một trong những ân huệ ít ỏi mà Chúa thấy thích hợp để ban bố vào hôm ấy.

- Ông có tên không? - McGee hỏi.

- John Coffey. - Gã trả lời bằng giọng khản đặc, đẫm nước mắt. - Coffey như thứ nước uống, có điều không viết giống.

McGee gạt đầu rồi lấy ngón cái chỉ vào túi áo ngực căng phồng của Coffey. Có lẽ McGee thấy giống như một khẩu súng - một gã to xác cỡ Coffey không cần đến súng để gây họa, nếu gã quyết định ra tay.

- Cái gì trong đó, John Coffey? Một khẩu súng lục?

- Không, thưa ngài. - Coffey nói giọng khản đặc, và đôi mắt kì lạ - bề ngoài đẫm nước mắt và đau đớn, bên trong xa vắng và bình thản khác thường, như thể con người thật của John Coffey ở nơi nào khác, đang nhìn ra một quang cảnh khác, nơi những bé gái bị sát hại không đáng để xét hỏi tỉ mỉ - không rời khỏi mắt phụ tá cảnh sát trưởng McGee. - Chỉ là một ít bữa ăn trưa của tôi.

- Ô, coi nào, một ít bữa ăn trưa, đúng không? - McGee hỏi và Coffey gật đầu rồi nói vâng thưa ngài với đôi mắt chảy nước và nước mũi thò lò bên ngoài. - Những loại người như ông ấy đâu ra một ít bữa ăn trưa, John Coffey? - Cố dằn lòng giữ bình tĩnh, mặc dù lúc ấy anh ta ngửi được mùi các cô bé, thấy được lũ ruồi nhặng loang loáng và thưởng thức những chỗ ướt trên người chúng. Sau này anh ta nói mái tóc của chúng là chuyện tệ hại nhất... chi tiết này không được đăng trên bất cứ tờ báo nào; nó được xem là quá rùng rợn để đọc trong gia đình. Không, tôi biết sự việc này từ tay phóng viên viết lại câu chuyện, ông Hammersmith. Sau này tôi đến thăm ông ta, bởi vì sau này John Coffey trở thành nỗi ám ảnh của tôi. McGee kể với Hammersmith rằng mái tóc vàng của chúng không còn là màu vàng nữa. Nó là màu nâu vàng. Máu từ tóc ứa ra, chảy xuống má như một thứ thuốc nhuộm tóc tồi tệ, và bạn không cần phải là bác sĩ để thấy rằng xương sọ mảnh mai của chúng đã bị đập vào nhau bằng sức mạnh của hai cánh tay đồ sộ ấy. Có lẽ chúng đã khóc. Có lẽ gã muốn làm cho chúng nín. Nếu những cô bé này gặp may mắn thì chuyện này xảy ra trước khi chúng bị hãm hiếp.

Việc chứng kiến cảnh tượng đó làm cho một con người thật khó mà suy nghĩ, kể cả với người cương quyết thi hành nhiệm vụ như phụ tá cảnh sát trường McGee. Suy nghĩ không đúng có thể gây ra sai lầm, có thể gây thêm đổ máu. McGee hít một hơi sâu và tự trấn tĩnh. Dù sao cũng phải cố gắng.

- Thưa ngài, tôi không nhớ chính xác, nếu tôi nói sai thì tôi là đồ chó. - Coffey nói bằng giọng nghẹn ngào vì nước mắt. - Nhưng đó là một ít bữa ăn trưa, phải, sandwich và tôi nghĩ có món giấm ngọt.

- Có lẽ tôi phải chính mắt nhìn thấy, với anh thì cũng thế thôi. - McGee nói. - Liệu hồn chớ cử động, John Coffey. Đừng làm thế, trời ạ, bởi vì có đủ súng đang nhắm vào anh để làm cho anh biến mất từ thắt lưng trở lên, chỉ cần anh nhúc nhích một ngón tay thôi.

Coffey nhìn sang bên kia sông và không cử động, trong khi McGee nhẹ nhàng thọc tay vào túi áo ngực trên yếm và lôi ra thứ gì đó được gói bằng giấy báo và cột bằng một sợi dây của cửa hàng thịt. McGee tháo dây và mở gói giấy ra, mặc dù anh ta biết chắc đúng là thứ Coffey đã nói - một ít bữa ăn trưa. Có một bánh sandwich thịt lợn muối cà chua và một gói thạch. Có cả món ngâm dấm, gói bằng chính trang báo đố chữ mà John Coffey không bao giờ có khả năng giải đáp. Không có xúc xích. Bowser đã xơi hết số xúc xích trong bữa ăn trưa ít ỏi của John Coffey.

McGee đưa gói thức ăn trưa qua vai cho một trong những người kia, mắt không rời John Coffey. Ngồi xổm xuống như thế, anh ta đã ở quá gần để cho phép tự xao lãng, dù chỉ một giây. Bữa ăn trưa được gói lần nữa và cột lại cho an toàn, sau cùng đến tay Bobo Marchant, anh này bỏ nó vào balô, nơi anh ta để thức ăn cho đàn chó. Gói thức ăn đã không được đưa ra làm vật chứng tại phiên tòa - công lí tại phần đất này của thế giới vốn nhanh nhạy, nhưng không nhanh nhạy bằng bánh sandwich thịt lợn muối cà chua biến chất - mặc dù các ảnh chụp có được trưng ra.

- Chuyện gì xảy ra ở đây, John Coffey? - McGee thấp giọng hỏi, vẻ nghiêm chỉnh nhất. - Anh muốn kể tôi nghe không?

Và Coffey kể cho McGee và những người kia gần như chính xác điều gã đã kể cho tôi nghe; chúng cũng là những lời cuối cùng công tố viên tuyên bố với hội thẩm tại phiên xử án John Coffey.

- Tôi không thể làm gì. - John Coffey nói, ôm những cô bé bị giết, bị cưỡng hiếp trần trụi trong tay. Nước mắt lại bắt đầu trào xuống má gã. - Tôi cố gắng rút lại, nhưng đã quá muộn.

- Này, mày đã bị bắt vì tội giết người. - McGee tuyên bố, rồi anh ta nhổ nước bọt vào mặt John Coffey.

Hội thẩm ra ngoài trong bốn mươi lăm phút. Chỉ vừa đủ thời gian để ăn một ít bữa trưa của chính họ. Tôi tự hỏi họ còn lòng dạ nào mà ăn uống.