Lý, Lưu và Caliban cùng với Lavater là những người duy nhất được biết và theo dõi những sự chuẩn bị của cái mà tôi gọi là một đòn trấn lột. Caliban thường hay đi theo tôi khi tôi đi San Francisco, trước hết bởi vì Miranda đã ra lệnh cho anh ta không được rời tôi ra nửa bước, và sau nữa là vì anh ta đã kết bạn với Lý và Lưu và muốn làm vài công việc làm ăn với họ, mà sau này có thực hiện thật.
Bởi vì giai đoạn từ tháng tư đến ngày 20 tháng sáu đối với tôi là thời gian chuẩn bị. Một cuộc chuẩn bị chậm rãi, có hệ thống và nhất là rất lén lút. Những cơ cấu phải hoàn chỉnh là rất nhiều và cực kỳ phức tạp. Và tất nhiên là đòi hỏi một sự bí mật tuyệt đối.
Cho nên có hai loại đi lại: Thứ nhất là những loại ai cũng có thể biết được kể cả Olliphan và bọn Caltani, và những loại đi khác. Về những loại sau này, tôi không dùng những phương tiện chuyên chở bình thường, để người ta có thể dễ dàng theo dõi dấu vết của tôi được. Tôi đã nhờ đến anh bạn cũ Flint của tôi, anh phi công tỷ phú ở Palin Beach, tỷ phú nhờ một phần lớn ở tôi đã tạo nên một vùng đi săn Safari trên một miếng đất trước đây là đầm lầy của anh ta ở Florida, và từ đó anh đã hốt được nhiều tiền như điên. Anh ta đã đưa chiếc phi cơ riêng và cả bản thân anh nữa cho tôi sử dụng.
Các buổi đi thăm Con Voi Trắng, những ngày ở San Francisco và chuẩn bị. Và để cho kín hết thời gian trong giai đoạn này: Những cuộc gặp gỡ.
Sau khi ký các giấy tờ ngày 30 tháng ba, có một thời gian, mười, mười hai ngày, không có gì khác xảy ra. Công việc xây dựng Con Voi Trắng lại được tiếp tục một cách nhộn nhịp. Dự kiến tối mùng 3 tháng sáu sẽ xong hoàn toàn để ngày hôm sau mở cửa chính thức. Vậy là mọi việc chạy tốt. Trừ ra đối với Henry Chance. Tối ngày 30 tháng ba, tôi có báo cho ông ta biết sự thay đổi người hợp tác. Ông phản ứng ngay tức khắc:
— Weisman à? Tôi có biết một tên Alie Weisman ở Vegas: Kính đen, năm mươi lăm tuổi, môi mỏng, không mở miệng nói bao giờ.
— Đúng hắn đấy.
— Trong trường hợp này, ông Cimballi, ông có thể coi như ông không có người quản lý sòng nữa... Tôi đi đây.
— Không có vấn đề ấy đâu.
— Weisman chỉ là một người cho mượn tên thôi.
— Tôi biết. Cũng như tôi biết ai đứng đằng sau hắn. Nhưng tôi cần có ông ở lại, ông Henry. Tôi cần một cách bức thiết.
— Rất tiếc.
Tôi phải biện luận thao thao bất tuyệt, nói để ông ta thấy rằng sẽ có một sự cải thiện nhanh chóng tình hình. Tôi không nói rõ là cải thiện như thế nào, và tất nhiên không nói một tý gì về những kế hoạch của tôi. Tôi nằn nì ông ta. Bởi vì thật ra, sự sống còn của tôi là trông vào việc Con Voi Trắng phải là một sự thành công, và về mặt này, thì Chance là cần thiết không thể thiếu được. Cuối cùng ông ta có nhượng bộ một chút.
— Ba tháng, ông Cimballi. Ba tháng sau khi mở cửa. Sau đó, tôi sẽ rời khỏi Atlantic City và trở về Vegas hay về Monte Carlo.
Tôi không đòi hỏi ông nhiều hơn thế. Ba tháng sau khi mở cửa là đến tháng chín rồi, à đến cái tháng chín ấy thì sẽ có một trong hai việc này: Hoặc là tôi thắng được Con Rồng Caltani, hoặc tôi sẽ hoàn toàn bị nghiền nát thành tro bụi.
***
Một sự cố khó chịu nữa cũng xảy ra vào giai đoạn này. Dưới hình thức một bức thư đặc biệt chính thức, xuất phát từ không biết một bộ nào trong chính phủ Áo: Yêu cầu ông Franz Cimballi phải đưa trình diện thiếu niên Heidi Moser và trong thời hạn ngắn nhất. Tôi cười gằn thầm trong bụng: "Kệ cha nó!" và tôi quăng cái thư vào sọt rác. Tôi có những lo lắng khác trong đầu và lập trường của tôi đối với con bé xứ Tyrol vẫn không thay đổi, hay nói đúng hơn là đã thay đổi nhưng theo một hướng hoàn toàn trái ngược với những nhà đương sự ở Vienne: Tôi không muốn rời nó ra nữa. Và bởi vì Anna Moser, là người đỡ đầu, đã đồng ý trên mọi điểm.
Nhưng tôi đã không tính đến sự bướng bỉnh đáng kính của Chính Quyền. Mười ngày sau khi tôi nhận được bức thư, một người cảnh sát Mỹ đến khách sạn Pierre. Anh ta mặc một chiếc áo đi mưa cũ, đi một đôi giày của người đi cày, và luôn mồm mút mát một nửa điếu xì gà đã tắt:
— Về vấn đề con nhỏ người Áo. Ông phải, như người ta nói, là trả lại nó.
— Nó không ở đây.
— Thế nó ở đâu?
Như người ta nói: Vắng mặt. Nhưng nếu anh ta muốn khám các ngăn kéo... Anh ta đi một tua quanh trong nhà, nhìn cả xuống dưới gầm giường, trong các tủ áo, và các buồng tắm:
— Không có nó đây, hử?.
— Thì tôi vừa mới nói với ông như thế.
Lại mút cái mõm cụt xì gà, và một chút nicotine quyện vào với nước dãi chảy nhễ nhại ra ở hai phía mép. Buồn nôn lên được.
— Tôi, - anh ta nói - tôi hoàn toàn cóc cần đến cái con người Úc này...
— Người Áo...
— Thì như người ta nói cũng thế thôi. Nhưng luật pháp là luật pháp, ông đưa trả nó, cái con bé ấy, và ông không bị phiền toái. Như người ta nói, tôi được giao đi điều tra. Ông có thể vui lòng cho biết nó ở đâu không?
Nếu anh ta lịch sự như Robert Redfor thì tôi cũng đã từ chối rồi, Nhưng cái mã của anh cớm hạng tư này không thu xếp được việc gì cả. Tất cả câu chuyện này, tôi chỉ thấy nó lố bịch thôi. Vả lại cũng phải giải quyết một lần cho nó xong đi. Ngày hôm đó tôi đã có một quyết định xuất phát từ tình cảm của tôi đối với con bé.
— Jimmy, tôi muốn nhận Heidi làm con nuôi. Một cách chính thức. Anh lên đường ngay đi, xem có những thủ tục gì phải làm: Và “Xin Đừng Trả Lời Tôi" là: Không Phải Đơn Giản Thế Đâu.
— Lẽ ra anh không nên tống ra cửa những người của tổng lãnh sự quán. Hồ sơ của họ về anh không được ngon lành lắm đâu: Anh không có chỗ ở cố định, anh chưa lấy vợ, và anh quản lý một cái sòng bạc...
— Thế còn về việc buôn lậu ma túy của tôi, không thấy nói gì cả? Tôi là một tên mafia có phải không?
— Đối với một ông thẩm phán ở tận cuối cái xứ Tyrol, thì những tư liệu về anh, do những người mà anh đã tống cổ ra cửa cung cấp thì...
— Jimmy, tôi muốn nhận Heidi làm con nuôi. Từ lâu lắm tôi đã nghĩ đến việc này. Chúng ta lao vào thôi. Anna Moser chắc chắn sẽ đồng ý. Cả Heidi và Marc Andréa nữa. Tiến lên tấn công thôi.
Thôi cúp máy. Tôi đã mất quá nhiều thời gian về những thủ tục này rồi. Người Anglais đang đợi tôi. Ngày 16 tháng tư.
***
Để cho những cuộc gặp gỡ của chúng tôi hoàn toàn kín đáo, anh ta đã làm cái việc đơn giản nhất là cũng đến ở ngay trong khách sạn Pierre, và chúng tôi cùng làm bộ như không quen biết nhau bao giờ. Quá cẩn thận, mà tôi thấy hơi lố lăng, nhưng anh ta nhất định muốn thế.
— Về vấn đề Walcher. Walcher là một bạn cũ của Karl Gustav Baumer....
— Tôi biết Walcher là ai rồi. Tôi chỉ muốn biết là liệu lão ta có đồng lõa trong việc bắt cóc Baumer không: Có hay không?
Anh ta do dự. Tôi cảm thấy là anh ta cũng lại sắp trả lời cho tôi: Không phải đơn giản thế đâu.
— Không đơn giản thế đâu - Anh trả lời - Chúng tôi đã theo dõi ông ta từng bước một đến nay là hai tháng rồi. Ông ta đi Hassan hai lần. Mỗi lần đều gặp một chủ ngân hàng, cùng một người ấy cả hai lần, và tên tay này là...
— Tôi cóc cần.
— Một trong những cuộc gặp ấy là ở trong một buồng khách sạn. Và có ai đấy đã có cái ý kiến rất tốt là đặt ở đó một hệ thống nghe trộm. Ghi lại toàn bộ câu chuyện...
— Đại khái nói gì?
— Walcher có hai triệu dolars trong một trương mục đánh số.
— Có thể là lão vừa nhận một gia tài hoặc đánh carrasta của người Rumani mà được bạc.
— Hoặc chôm chỉa trong những két sắt của ngân hàng lão. Nhưng lão không làm tất cả những chuyện ấy. Nếu ông chịu khó đọc lại bản ghi cuộc nói chuyện của hắn với tay chủ ngân hàng, thì ông sẽ thấy có lúc Walcher nói rằng: "Cái số tiền này nằm ngủ đã hai năm rưỡi rồi...". Và lão có ý định cho tiền của lão làm việc. Hai năm rưỡi, ông Cimballi. Ông cứ tính mà xem: Nó đưa ta trở lại thời điểm tháng 10 năm 74.
— Đúng điều đó có nhắc nhở cho tôi một cái gì đó.
Người Anglais cười.
— Cũng vào cái tháng 10 năm 74 này, Baumer biến mất và tái xuất hiện ở Hassan. Ngày 14 tháng 10 năm 74, Walcher đi Hassan, để theo lời lão, cố gắng kéo bồ Baumer của lão về một cuộc sống biết điều hơn. Tôi cho rằng lão đã lợi dụng chuyến đi này để mở một trương mục có đánh số. Walcher là một người làm ngân hàng. Không có một người làm ngân hàng nào lại để cho hai triệu dolars ngủ yên, mà không tìm cách làm cho nó sinh hoa kết trái. Trừ phi là có những lý do không thể cưỡng lại được.
— Cuộc nói chuyện giữa Walcher và tay chủ ngân hàng mà ông đã ghi lại được ấy là vào thời điểm nào?
— Mùng 2 tháng tư.
Nghĩa là ngày thứ bảy, ngày hôm sau khi tôi ký giấy nhượng bốn mươi chín phần trăm. Các sự trùng hợp bắt đầu trở nên quá lớn.
— Còn chuyện khác nữa - Người Anglais nói - Nhờ một sự ngẫu nhiên, điện thoại của Walcher đã được nối với một bàn nghe trộm. Tối hôm 30 tháng ba, Walcher đã nhận được một cú điện thoại hay hay. Ngắn thôi, nguyên văn thế này: "Ermie hả? Abie đây. Chỉ để nói cho bồ biết là mọi chuyện đã được giải quyết xong tất cả rồi. Sẽ sớm gặp lại nhau". Chúng tôi đã tìm xem cái tên Abie ít lời này là ai? Phải đi ngược lên hơn một tháng trước trong những phiếu theo dõi của chúng tôi: Ngày 12 tháng Hai, Walcher đã ăn tối với một tên Abie Weisman nào đó. Cái tên này có gợi cho ông một cái gì không, ông Cimballi?
Tôi gật đầu. Ồ, gợi quá đi chứ! Công việc của Người Anglais và êkíp của anh ta đã đem lại cho chúng tôi những suy đoán rất lớn. Đối với tôi bây giờ, mọi chuyện đã rõ ràng: Walcher là một đồng lõa của bọn Caltani trong vụ bắt cóc Karl Gustav Baumer. Và đấy không phải là kết luận duy nhất. Đang trả hai mươi nhăm triệu dolars cho bọn Caltani, tôi đã vô tình tước đoạt của những người thừa kế chính thức của ông cậu Baumer, là chị em Moser. Và bây giờ họ có đủ quyền để đâm đơn kiện chúng tôi.
***
Quay phía nào thì tôi cũng ngồi trên một đống thuốc nổ. Thật rối như gà mắc tóc.
Sự vắng mặt của Lavater đã kéo dài tất cả hơn ba tuần lễ. Tất nhiên là anh có gọi điện cho tôi để giữ liên lạc. Trước hết là từ Luân Đôn, rồi từ Paris. Sau đó im lặng, như chúng tôi đã thỏa thuận với nhau vì thận trọng.
Anh trở về New York ngày 20 tháng tư. Chỉ cần nhìn nhau một cái là tôi đã hiểu: Anh đã thu được kết quả. Anh chờ đến khi chúng tôi ngồi một mình với nhau trong chiếc xe đưa chúng tôi từ phi trường Kennedy về nhà mới bắt đầu nói. Điều anh cần nói với tôi chỉ tóm gọn trong vài câu. Nhưng chính là tôi đang chờ những câu đó.
— Olliphan đã chuyển tiền sang Nam Phi từ nhiều năm nay rồi. Tổng số: Gần mười bốn triệu dolars. Chuyển bằng một con đường rất phức tạp để giữ cho được tuyệt đối bí mật. Franz, cậu đã cho mình có dịp làm quen với những cuộc nhào lộn trong việc chuyển vốn, và vào cái thời mình còn bảo vệ một cách anh dũng những lợi ích của Ngân khố Pháp mình cũng đã thấy khá nhiều vụ việc. Nhưng chưa bao giờ như lần này. Và nếu bây giờ muốn phân biệt ra trong cái số mười bốn triệu ấy, cái gì là thực sự của Olliphan, và cái gì hắn đã chôm chỉa trên lưng bọn Caltani, thì phải mất hàng năm. Và phải cần cả sự cộng tác của bọn Caltani nữa.
— Cái chính là tôi có một phương tiện để gây sức ép lên Olliphan.
— Thì cậu có rồi đấy. Tôi có mang về một vài tài liệu hoàn toàn không thể cãi được. Baltazar đã phải khạc ra tất cả những gì mà hắn biết. Từ nay trở đi, hắn căm thù tất cả chúng ta, anh, Người Thổ Nhĩ Kỳ và tôi.
— Thế còn vai trò của Korber?
— Chính hắn quản lý những lợi ích của Olliphan. Cả hai người hùn hạp với nhau trong khá nhiều kinh đoanh dưới cái tên chính thức của Korber. Franz, nếu cậu tiết lộ cho bọn Caltani chỉ một phần mười những gì mà tôi biết được, thì Olliphan sẽ là một người chết. Cậu nắm được gáy nó rồi đấy.
Tôi run người lên vì kích động đến mức là phải hãm xe lại và đánh xe vào lề đường. Trong trạng thái của tôi lúc đó, tôi có thể gây ra một tai nạn xe tông nhau. Mà tôi thì đã có quá đủ mọi thứ phiền toái rồi. Nhưng đây là một sự việc hiển nhiên. Một trong những cơ cấu quan trọng nhất trong cái bẫy của tôi vừa được lắp đặt xong.
— Thế còn cậu, về phía cậu thì đến đâu rồi, trong những cuộc chạy chọt của cậu?
Cái mà Lavater gọi là những cuộc chạy chọt. Còn tôi thì mệnh danh nó là một sự chuẩn bị. Hiện đang được tiến hành tốt. Tôi báo cáo lại cho anh rõ. Chúng tôi nhìn nhau, trong một chiếc xe bị rung lên bởi những chiếc khác vượt qua và tạo nên những luồng không khí quá mạnh.
Kỷ niệm về cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Lavater còn in rõ nét trong ký ức tôi. Lúc đó là vào giữa mùa hè, tháng 7 năm 70 thì phải, chưa thấy anh ta bao giờ nhưng tôi gọi điện hẹn gặp nhau tại quảng trường Trocadero ở Paris. Tôi thì vừa ở Kenya về, còn là một thằng nhóc hết sức kiêu hãnh về những thành công đầu tiên. Từ đó đến nay, Lavater đã tham dự vào tất cả những trận chiến đấu của tôi. Anh cười với tôi:
— Chúng ta đừng bắt đầu bằng cách chơi trò cựu chiến binh. Nếu tôi hiểu đúng, thì tất cả mọi người đã sẵn sàng rồi phải không. Nói ngay đi, trước đây mình không tin đâu. Nhưng bây giờ thì rồi. Bao giờ thì cậu tiếp xúc với Olliphan để giáng cho hắn cái đòn chí tử này.
— Tôi chờ đến phút cuối cùng. Tôi không muốn để cho hắn có thì giờ quay trở gì được nữa.
***
Ngày 4 tháng sáu, Con Voi Trắng mở cửa khai trương. Ngay những ngày đầu, đã thành công như sấm vang. Thực ra tất cả mọi cái đều tham gia vào việc tạo ra sự thành công này: Từ vụ cháy, đến những tiết mục xuất hiện của tôi trên các màn ảnh truyền hình để kể lại những giây phút bi hùng mà tôi đã sống với Marc Andréa và Heidi.
Ngay từ ngày 15 tháng sáu, chính bản thân Henry Chance cũng phải công nhận rằng cái sòng mà ông quản lý đang trên đà đánh đổ hết các kỷ lục. Tổ chức mà ông đã dựng lên hoạt động một cách tuyệt vời: Chỉ riêng cái thành phố New York ông đã mở tới ba chân rết, mà thực sự vừa là những chi nhánh ngân hàng vừa là những hãng du lịch: Bất cứ người nào chỉ cần đóng vào đó một nghìn dolars (tức khắc được một đầu tận cùng của máy tính chuyển đi ngay) là người khách tương lai ấy đã có một số thẻ chơi tương đương ở Con Voi Trắng, có thể sẵn sàng đem vào sử dụng được ở Atlantic City. Lúc đó, tiền đi lại, ăn uống được sòng đài thọ hết. Đóng từ mười ngàn dolars trở lên, thì còn được ở khách sạn miễn phí nữa. Những chân rết như vậy đã được mở ra trong tất cả các thành phố lớn ở Mỹ, và cả ở Montreal, Canada, với dự kiến là sẽ được mở rộng bố trí trong tất cả các thủ đô trên thế giới.
Còn cái đống phiếu trứ danh của Chance, trong ấy ông đã ghi, có thể là từ hai mươi lăm năm nay, tên của những tay chơi lớn trong hai bán cầu của quả đất: "Ông Cimballi, tôi sẽ bảo đảm với ông sự thành công quyết định, khi nào tôi thấy những tay chơi lớn này bước vào sòng bạc của tôi". Đối với những khách chơi ngoại lệ này, ông đã dựng lên cả một kế hoạch đặc biệt: Họ có thể hoặc chiếm hẳn một trong những dãy buồng của Con Voi Trắng, hoặc ở New York trong bất cứ đại khách sạn năm sao nào của Manhattan, và trong trường hợp sau này, sẽ có những máy bay lên thẳng trang trí rất lộng lẫy làm con thoi đưa đón giữa Đại lộ 5 và Boardwalk. Ngon hơn nữa, một chiếc Boeing 747 của sòng thuê riêng và mang huy hiệu Con Voi Trắng sẽ để phục vụ những khách chơi của bờ biển Phía Tây, khởi hành từ Los Angeles.... có đỗ lại ở Vegas. Thật quá trời!
Tôi hoàn toàn tin tưởng vào khả năng chuyên môn nghiệp vụ của Henry Chance, nhưng trái ngược với Caliban là ủng hộ ông hết mình, tôi đang tự hỏi không biết ông có phạm sai lầm là áp dụng cho City những kỹ thuật chỉ mới được thử thách ở Vegas thôi. Nhưng tôi sai. Tôi đã được chứng minh trong những ngày đầu của tháng Bảy. Máy bay của Flint đưa tôi từ một "Chuyến đi kín đáo để chuẩn bị lén lút" trở về, đã hạ cánh ở sân bay Newark trong sự bí mật gần như hoàn toàn. Sự vắng mặt của tôi lần này đã kéo dài hơn một tuần lễ (nhưng tôi đã xiết được chiếc đinh ốc cuối cùng của bộ máy trấn lột của tôi). Việc thứ nhất của tôi là gọi điện cho Chance hỏi xem tình hình làm ăn thế nào. Ông ta trả lời câu hỏi của tôi bằng một câu hỏi khác.
— Ông ước lượng tiền lãi đồng niên sau này của Con Voi Trắng là bao nhiêu?
— Vào khoảng tám mươi triệu dolars.
— Thế thì hãy tính thêm năm mươi phần trăm nữa đi. Họ đã đến đấy.
Họ, nghĩa là những tay chơi lớn. Lần đầu tiên từ khi đưa vào sử dụng chiếc 747 thuê, trong hai tuần lễ liền đã chở đầy nhóc khách đi ngang qua bầu trời nước Mỹ. Đã có cả những người Nhật. Những người Tầu Hong Kong, có thể để lại trên bàn bạc một triệu dolars trong ba ngày. Đó là chưa kể đến một vài vị hoàng thân của Trung Đông nữa.
Tôi quyết định tự cấp cho mình tám ngày nghỉ ở San Francisco, Tôi về đấy vì đã nhận được những tin tức của Jimmy Roser. Anh ta đã làm ngưng được vụ kiện của chính quyền Áo chống tôi, và xin được của một vị thẩm phán một án quyết cho tôi tạm thời được giữ Heidi. Thành thử ra tôi đã ở lại California nhiều thời gian hơn là định trước. Tôi trở về New York ngày 22 tháng bẩy. Chỉ còn cách có 13 ngày nữa thì sẽ đến cuộc họp của tôi với bọn Caltani, quyết định vào ngày 4 tháng tám. Trong cuộc họp này tôi phải giữ lời hứa là bán nốt cho chúng hai phần trăm bổ sung. Người Anglais đợi tôi ở khách sạn Pierre: Anh ta đã cho canh chừng Olliphan từ ba tháng nay, và xác nhận với tôi là tôi có thể tiếp xúc với hắn bất cứ lúc nào. Nhưng tôi chọn lựa là hãy đợi đã. Tôi nói với Người Anglais:
— Tốt nhất là tôi có thể gặp được Olliphan trong một nơi công cộng, để cuộc gặp hoàn toàn không ai để ý tới. Tôi không muốn cho tính mạng hắn bị đe dọa.
Nụ cười Oxford:
— Không có gì dễ hơn, ông Cimballi. Một sự ngẫu nhiên may mắn nữa của chúng tôi làm cho chúng tôi biết được thời khóa biểu của đối tượng khi hắn báo cho cô thư ký của hắn. Ông cần đặc biệt ngày nào?
— Ngày thứ hai mùng 1, thứ ba mùng 2, thứ tư mùng 3.
Nghĩa là ba, hai, một ngày trước khi tôi trở lại mặt đối mặt với bọn Caltani. Và vì chuyển biến của sự việc, ba, hai, một ngày, trước sự khởi động của một cái mà thật ra người ta có thể gọi được bằng nhiều tên: Hoặc gọi là sự kết thúc có tính cách rất cá nhân của tôi về một chiến dịch bắt đầu từ ngày 14 tháng sáu năm 1976, khi tôi tuyên bố với Philip Vandenberg là tôi muốn tặng cho tôi một sòng bạc hoặc gọi là cuộc tấn công của tôi, hoặc còn gọi là giai đoạn tối hậu của một vụ trấn lột mà tôi đã chuẩn bị đến nay là hai mươi lăm tuần lễ rồi.
14 tháng sáu năm 1976, mùng 4 tháng Tám 1977. Có thể lấy đó là những thời điểm ghi vào tấm bìa đặt trên mộ chí của tôi đắp theo hình một Con Voi Trắng, nếu có một sự trục trặc nhỏ nào trong kế hoạch phòng thủ của tôi. Tôi đã tính: Như thế là đến bốn trăm tám mươi sáu ngày. Sau khi đã xem lại sổ ghi chép, Người Anglais nói:
— Ngày thứ ba mùng 2 có vẻ hợp hơn cả. Olliphan, như ông đã biết, là một người say mê âm nhạc, nhưng anh ta cũng là một nhà sưu tầm hội họa Mỹ hiện đại. Ngày thứ hai mùng 1 tháng tám thì ở Bảo Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại có khai trương một cuộc triển lãm, và theo “cuốn lịch ghi chép" của anh ta, thì anh ta dự định sẽ đến đó vào ngày hôm sau. Vào lối năm giờ chiều.
— Tôi cũng sẽ có mặt ở đó.
— Ông cần đứng một mình với hắn trong bao nhiêu lâu?
— Mười lăm phút là nhiều lắm.
***
Nhưng việc ấy không kéo dài lâu đến thế. Lúc đó là vào gần năm giờ rưỡi chiều hôm thứ ba mùng 2 tháng Tám, khi được một phụ tá của Người Anglais dẫn đường, Olliphan đến gặp tôi ở tầng gác thứ tư của bảo tàng Moma. Khi thấy tôi, anh ta chỉ khẽ nhướn lông mày lên một cách thích thú. Đó là dấu hiệu duy nhất về sự ngạc nhiên của anh ta:
— Nhưng tôi không ngạc nhiên lắm, ông Cimballi. Tôi đã chờ đợi một cái gì vào loại này.
Hắn nghe tôi nói với cái nụ cười nửa miệng kỳ lạ của hắn, không ngắt lời tôi một lần nào. Trong bốn hay năm phút sau đó, tôi giải thích cho hắn nghe tất cả những gì tôi biết về hắn, và những gì tôi chờ đợi ở hắn để đổi lấy sự im lặng của tôi. Hắn vẫn tiếp tục im re ngay cả sau khi tôi đã nói xong. Cuối cùng hắn mới lắc lắc đầu:
— Tôi không biết ông đã chuẩn bị những gì cho bọn Caltani, nhưng chắc chắn là ông đã phải mạo hiểm rất dữ.
— Đó là việc của tôi.
Hắn hơi lưỡng lự một chút, hỏi:
— Và ông cũng muốn thanh toán cả với Ermie Walcher nữa chứ?
— Trong khi tôi còn tại trận. Và ông chỉ còn năm mươi giây đồng hồ nữa để quyết định.
Hắn bật lên cười, dường như đôi mắt quay vào nhìn bên trong nội tâm, dường như tự cười chính bản thân hắn và nực cười cho sự ngu xuẩn của nhân loại nói chung.
— Nhưng tôi đã quyết định rồi, ông Cimballi. Ông tưởng thế nào? Tôi đã báo cho ông biết là phải coi chừng ngay từ ngày 18 tháng 9, khi ông đến nhà tôi. Và cũng chính tôi đã nói với ông về Korber. Tôi đã đưa cho ông cái thừng treo cổ tôi và chờ đợi xem ông có đủ khôn ngoan để nắm lấy nó không. Có cần phải nói thêm gì nữa với ông không? Tôi không biết ông đã đến một mức căm thù bọn Caltani như thế nào, nhưng về mặt này ông không thể nào chấm gót tôi được đâu. Được, tôi chấp nhận hết các điều kiện của ông. Còn đối với Walcher thì sẽ rất đơn giản thôi: Tôi có thể cung cấp cho ông những chứng cớ mà ông còn thiếu. Về chuyện này cũng vậy, tôi không biết ông sẽ ăn thịt nó trong một thứ nước sốt nào, nhưng dù ông có làm gì đi nữa, thì cũng xứng đáng đối với nó thôi: Cái ý kiến bắt cóc Baumer là của nó đấy.
Bỗng nhiên hắn trở nên nói nhiều, và tôi cảm thấy là hắn sẵn sàng kể lại cho tôi nghe liên tục của toàn bộ câu chuyện. Nhưng đây không phải lúc và cũng không phải chỗ. Tôi ngắt lời hắn.. Chỉ chưa đầy bốn mươi tiếng đồng hồ nữa là đến cuộc họp quyết định của tôi với bọn Caltani, cái điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng biết được cuộc trao đổi vừa qua của tôi với Olliphan. Chính Olliphan cũng công nhận thế. Hắn hỏi:
— Thế ông có dự định gì về cái mà chúng ta tạm gọi là “lời thú tội" của tôi không?
Ngay tối nay, hắn sẽ ghi vào một băng Cassette, rồi sáng mai, bốn giờ sáng, một người do Người Anglais phái đến sẽ mang băng Cassette này rồi giao cho một đội quân đánh máy để ghi lại trên giấy, Rosen và Vandenberg chín giờ rưỡi sáng mai, sẽ ở trong văn phòng của hắn, mang theo những bản sao băng Cassette và những bản đã đánh máy.
Cả ba sẽ nghe lại các băng, đọc lại các bản đánh máy, sửa chữa thêm bớt những gì mà các cố vấn của tôi thấy cần thiết. Hắn ta sẽ ký vào các bản đánh máy lấy lý do chính thức của sự có mặt của Rosen và Vandenberg trong văn phòng của hắn là: Hoàn chỉnh các tài liệu mà bọn Caltani và tôi sẽ ký ngày hôm sau mồng 4 tháng Tám...
Và ngay sau khi Rosen và Vandenberg, đã tiến hành mọi kiểm tra, nắm trong tay các bản tự thú có ký tên và báo cho tôi biết mọi việc đã hoàn thành, thì hắn, Olliphan, hắn sẽ được tự do rời khỏi Hoa Kỳ, muốn đi đâu thì đi, thí dụ sang Nam Phi để ở với ông bạn Korber của hắn chẳng hạn. Với hy vọng là bọn Caltani không tìm lại được hắn. Olliphan lại mỉm cười, gật gật đầu. Đúng là hắn có một cái gì Ireland trong mắt thật: Một thứ điên có vẻ thi vị và đầy một chất hài đến tận biên giới của sự man rợ.
— Thế tôi sẽ không dự cuộc họp ngày thứ năm này à? Không thể thế được. Trước hết bởi vì nếu Jos và Larry thấy tôi vắng mặt sẽ đâm nghi. Tôi đã lừa được họ từ mười lăm năm nay và hơn nữa, ông hãy tin ở kinh nghiệm của tôi. Và tôi có một lý do nữa để đến đấy: Tôi muốn biết ông đã chuẩn bị cho chúng những gì. Tôi bị tính tò mò cắn rứt. Trong một trò chơi hoàn toàn trí tuệ, tôi đã cố nghĩ xem có cách nào tôi có thể giúp được ông thoát ra khỏi cái bẫy không dung tha mà tôi cũng có tham gia nhốt ông vào. Tôi đã thử đứng vào địa vị của một Lavater, một Lupino, một Rosen hay một Vandenberg. Lúc đó tôi sẽ khuyên ông làm gì? Tôi không tìm được một giải pháp nào thỏa đáng. Thế mà, dường như ông đã phát minh ra được một cách nào đó. Thế mà tôi lại để lỡ mất một buổi biểu diễn như thế hay sao? Lỡ mất cái cảnh hiếm có: Hai tên đểu cáng bỉ ổi Jos và Larry, hai ông anh rể thân mến của tôi, ngã lộn cổ xuống à? Không thể nào, ông Cimballi. Thực ra, tôi cầu nguyện cho sự thành công của ông.
***
Hôm sau, thứ tư mùng 3, trước mười hai giờ một tý, Vandenberg và Rosen lại gặp tôi ở khách sạn Pierre. Tất cả mọi chuyện đều đã diễn ra theo như dự định. Hai người có mang theo bản "tự thú" của Olliphan, ghi vào băng, đánh máy và ký tên. Họ còn để bản gốc vào một nơi chắc chắn và chỉ mang đi một bản sao thôi. Không còn thiếu gì nữa. Trong bản tự thú này lần đầu tiên tất cả lịch sử Con Voi Trắng đã được trình bày một cách xác thực: Từ đề nghị mua đầu tiên với cái giá một triệu dolars, do Olliphan nói với Baumer và bị lão cự tuyệt mạnh mẽ, cho đến sự can thiệp của Walcher, tiếp theo là vụ bắt cóc Baumer do một trong những tên tay chân của bọn Caltani mà tôi gọi là Carbonari thực hiện, rồi đến cái chết của Baumer (do tai nạn nhưng đã được chương trình hóa để sau này thực hiện) rồi đến việc bọn Caltani tậu khách sạn dưới danh nghĩa của một hội làm bình phong, và sau cùng là việc bán lại khách sạn này cho một tên Cimballi...
Rồi những lo ngại đầu tiên của bộ lạc Caltani và cả của Walcher nữa khi thấy sự có mặt của con nhỏ Heidi Moser ở cạnh tôi. Bởi vì chính sự xuất hiện của Heidi đã làm khởi động tất cả. Rosen nói:
— Franz, chính cuộc điều tra đầu tiên của anh, do Lavater tiến hành ấy, đã báo động cho Walcher. Hắn hoảng sợ, nhất là khi hắn nhận thấy anh giữ Heidi lại với anh, và khi hắn biết rằng anh có sang Áo để gặp ba chị em Moser. Walcher không biết Anna biết những gì. Cô này đã gặp Baumer một thời gian ngắn trước khi lão bị bắt cóc. Walcher và bọn Caltani cho rằng anh sắp đứng ra bảo vệ Heidi và các chị nó bằng cách tố giác với cảnh sát tất cả vụ mánh mung. Phải làm cho anh im mồm đi, nhưng thủ tiêu anh thì không có ích gì, vì dường như có quá nhiều người chung quanh anh đã biết hết chuyện. Không, cần phải làm sao cho anh trở thành đồng lõa trong vụ lừa đảo.
— Do đó có vụ cháy...
— Đã được chuẩn bị bởi một êkíp chuyên môn từ Chicago đến. Có hai người đàn ông mà chúng tôi chưa biết tên nhưng được Olliphan cho biết các tọa độ, thì cũng không phải khó khăn gì mà không tìm ra chúng. Vụ cháy đã được tính toán để không làm nguy hại đến thân thể anh. Người ta chỉ dồn anh vào một hoàn cảnh thế nào để anh không thể nói ra được sự thật mà chính bản thân anh không bị liên lụy nghiêm trọng. Và điều ấy cũng không ngăn cản người ta sẽ loại trừ anh, nếu anh tỏ ra cứng đầu.
Tôi đã nói: Có rất ít người biết được những thể thức của ”Vụ Trấn Lột Lớn" của tôi ngày mai mồng 4 tháng Tám. Rosen và Vandenberg cũng như Lupino đã không được biết bí mật này. Nếu biết chắc họ sẽ phản đối kịch liệt một chiến thuật điên khùng như vậy. Vả lại, tôi cũng không cần đến họ trong cuộc chuẩn bị của tôi.
Vì vậy, với danh nghĩa là những luật gia, và theo lôgích thuần túy, họ khăng khăng đòi phải đưa những lời thú tội của Olliphan cho cảnh sát. Trong khi họ vẫn công nhận là những lời nói dối to lớn của tôi và của Marc trước mặt những người đi điều tra của hãng bảo hiểm, có thể đặt ra một vài vấn đề khó dễ. Nhưng Vandenberg có một giải pháp.
— Hãng bảo hiểm mà có truy ép anh thì họ cũng chẳng được lợi gì. Tôi có thể đủ sức thuyết phục họ đi đến chỗ thương lượng. Họ và anh có thể khẳng định là đã cùng nhau thỏa thuận hành động như vậy, với mục đích duy nhất là để cài bẫy bọn Caltani. Với bản tự thú của Olliphan...
Và anh ta trình bày những lý lẽ của anh. Tôi chỉ nghe anh nửa tai thôi, gần như để cho khỏi vô lễ. Thực ra, cứ mỗi giờ qua đi, và sắp đến lúc gặp lại “Những Nhà Kinh Doanh Đáng Kính", tôi nóng ruột bồn chồn không thể tả được. Tôi chuẩn bị cuộc chiến đấu này đã hai mươi lăm tuẫn lễ rồi, không ai có thể làm tôi đi chệch hướng được nữa. Chậm quá mất rồi. Ngoài ra, tôi tin chắc rằng, giải pháp của tôi là hay hơn hẳn tất cả những gì mà người ta có thể đề nghị với tôi. Và sau cùng, mặc dù có vẻ là kỳ lạ, nhưng tôi không muốn ăn thịt tên Olliphan bất kể hắn đã đóng vai trò nào trong vụ này. Hắn đã tiếp tay cho tôi vì những lý do hoàn toàn cá nhân của hắn. Dù sao tôi vẫn có cảm tình với hắn, và lúc nào cũng có một cái gì như là sự thương hại. Tôi chỉ giữ trong tay bản tự thú của hắn, tôi sẽ chỉ dùng nó, nếu ngày mai, chuyện trở thành một thảm họa, thì tôi sẽ vô hiệu hóa để làm cho bọn Caltani mất một cố vấn xảo quyệt nhất và nguy hiểm nhất cho tôi.
Tôi trả lời đến lần thứ ba, thứ tư cho hai người cố vấn Mỹ của tôi là vẫn giữ quyết định ban đầu. Không có vấn đề đem bản tự thú của Olliphan ra sử dụng. Philip Vandenberg bỏ về trước nhất, che dấu sự giận dữ của anh dưới một thái độ lịch sự băng giá cố hữu. Jimmy Rosen cũng về nốt, và cho đến phút cuối cùng hai mắt anh vẫn không rời mắt tôi. Tuy anh không biết một tí gì về những dự định của tôi, nhưng anh biết rằng trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ đánh ván bài lớn nhất và chắc chắn là điên khùng nhất trong đời tôi. Anh không giận tôi là đã để anh đứng ngoài. Anh bắt tay tôi và cười:
— Chúc anh may mắn, Franz. Hay tốt hơn, như các anh thường nói bằng tiếng Pháp: Mẹc (merdè: cứt đái).
Sau đó là gần giống như một đêm thức trước một trận đánh trên chiến trường vậy. Chỉ có Lavater và Caliban ở lại với tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và chưa bao giờ cảm thấy mình xa lạ với New York như vậy. Chúng tôi đi xem chiếu bóng, nhưng ngay đến bây giờ cả Marc và tôi đều không ai nhớ cái tên phim là gì? Như thế để nói rằng, tinh thần cả hai chúng tôi căng thẳng đến mức nào.
Cuộc gặp mặt với bọn Caltani đã được quyết định vào lúc mười một giờ bốn mươi lăm, trong một dãy phòng của khách sạn Plaza.