rất nhiêu, còn lại một trăm kỵ (là quân cỡi ngựa) bọn Chương Hàng liều mình ra sức
đánh phá trùng vây chạy khỏi. Tôn Tẫn cả được trọn thắng, kéo binh về thì thấy
Khoái Văn Thông đã bày tiệc sẵn mà ăn uống.
Nói về bọn Chương Hàng thua chạy về dinhm tra điểm quân sĩ, chết hơn hai
ngàn, kéo nhau vào trước Thủy Hoàng mà xin tội, Thủy Hoàng giận nói: "Trẫm
thường khuyên bọn ngươi không nên khinh động, mà chẳng chịu vâng lời lành, lại
đến cao sơn thỉnh ba vị đạo nhân phụ giúp, trẫm ngỡ là có phép lực gì giỏi, ai dè
không hơn được Tôn Tẫn mà trái lại còn bị nó đánh giết cả thua, hao tổn bao nhiêu
người ngựa, còn mặt mũi nào vào đây thấy trẫm". Tử Lăng cúi đầu chịu tội chẳng
dám nói chi, kế ba vị đạo nhân vào trướng ra mắt. Nguyên mấy lần trước, hễ khi nào
Thủy Hoàng thấy ba vi đạo nhân đến thì vội vàng quỳ xuống ngai nghinh tiếp, nắm
tay dắt vào, hôm nay thấy ba người bị thua chạy về, thì có ý khi dễ, gật đầu mời
ngồi. Ba vị đạo nhân mặt mày hổ thẹn, túng thế phải bước tới làm lễ ra mắt, rồi ngồi
xuống. Thủy Hoàng chẳng thèm mời uống trà cũng không truyền dọn tiệc, bèn hỏi
rằng: "Chân nhân ra trận thắng bại thế nào". Ba vị đạo nhân mặt mày sượng trân,
gượng gạo đáp rằng: "Bệ hạ đã rõ biết rồi, còn hỏi mà làm chi, khi nãy trước trận bị
thua mà về, lẽ nào quan lược trận lại không thông báo, vì Tôn Tẫn thần thông quảng
đại, tôi không hơn đặng, phải thua mà về, còn đang toàn mưu định kế trả thù rửa
hận". Thủy Hoàng cười gằn rồi nói rằng: "Ối thôi, toan mưu gì định kế chi, số mình
biết người, và Tôn Tẫn ngụy kế rất nhiều. Chân nhân đâu hơn cùng nó đối thủ làm
gì, mà làm cho hao binh tổn tướng của ta, chi bằng nghe theo lời trẫm, Chân nhân
xin về cổ động đặng cố tu chân luyện tánh, còn trẫm thì rút binh về nước, ấy là
chước vẹn toan đó". Thúc Đương nghe nói đỏ mặt tía tai, thẹn thùa chẳng xiết, tâu
rằng: "Bệ hạ! Xin chớ ưu phiền, tôi cùng Tôn Tẫn gây nên cứu sâu như biển, tuy tài
tôi không bằng nó, nậy để tôi thỉnh một vị đạo nhân, đặng cùng nó định bề cao
thấp". Nói rồi hối quân dọn bày hương án, Thúc Đương quỳ xuống đốt hương, nhắm
núi Vạn Huê sơn cúi lạy, khói hương nghi ngút, bay bổng trên không, thẳng tới núi
Vạn Huê Sơn.
DNói về núi Vạn Huê, động Đại thạch, có một vị lão tổ, họ Ngụy hiệu Thiên Dân,
ngày kia đang ở trên Tam thanh đại điện đọc kinh, lão tổ tiếp lấy đầu khói, kê nơi
mũi hửi, rồi rõ biết sự tình, bèn tưởng lại rằng: "Huỳnh Thúc Đương đã khai sát giới
thì chớ, sao lại kêu ta xuống hồng trần làm chi, nếu mình đóng cửa chẳng quản được
việc người, lại e trái tình ngày trước giao kết với nhau, chi bằng xuống núi cho trọn
niềm bằng hữu". Nghĩ rồi trở vào sau động lấy ít vật bửu bối, đem theo liệu dụng, rồi
thót lên Mai huê lộc, dặn dò đồng nhi gìn giữ cửa động, ta xuống núi ít ngày sẽ trở
về, dặn rồi bay bổng trên mây nhắm Dịch Châu thẳng tới, giây phút bay tới dinh
Tần, xuống mây thẳng tới cửa dinh. Quân giữ cửa xem thấy một đạo nhân thì hỏi
rằng: "Người đạo kia ở đâu mà đến?". Ngụy Thiên Dân đáp rằng: "Phiền người vào
báo giùm, tôi ở núi Vạn huê, tên Ngụy đạo nhơn đến xin ra mắt". Quân nhơn lật đật
chạy vào thông báo. Thủy Hoàng nói: "Ngụy đạo nhơn ấy là người thế nào?". Thúc
Đương cả mừng nói rằng: "Người đạo huynh của tôi đó, vốn là một vị thiên la đại
tiên, nay khứng lòng phụ giúp thì có lo gì Tôn Tẫn chẳng chết". Thủy Hoàng nói:
"Quả nhiên tiên đến đây, hãy truyền mở cửa dinh, trẫm phải bổn thân nghinh tiếp".
Rồi thúc Đương cùng Châu, Tần hai vị đạo nhơn theo Thủy Hoàng ra đến cửa dinh
rước Ngụy Thiên Dân vào trong đại trướng mời ngồi. Thủy Hoàng xem kỹ tên đạo
nhơn ấy thiệt là mặt mày xinh đẹp, đạo cốt tiên phong, có ý mừng thầm, Ngụy Thiên
Dân hỏi Thúc Đương: "Chẳng hay hiền đệ xuống núi cùng Tôn Tẫn đối trận thắng
bại thế nào?". Thúc Đương buồn bực đáp rằng: "Nhắc tới thằng cụt chân, thiệt khiến
cho người thêm giận, tưởng lại lúc trước anh tôi nơi Hồng Từ cốc bị nó làm hại, ngày
nay em xuống đây mà trả thù, may chút nữa thì đã chết nơi gậy nó, cực chẳng em
phải đốt hương thỉnh cầu huynh trưởng đến giúp sức cùng em, xin anh có ra tài phép
gì giúp em trả thù, ơn ấy dầu chết chẳng quên". Thiên Dân nghe rồi nổi giận lắm nói
rằng: "Tôn Tẫn buông lung như thế thiệt khiến cho người rất nên giận dữ. Hiền đệ!
Em hãy an lòng có sợ chi nó thần thông quảng đại, để anh làm cho nó phải chết liền
trước mắt". Chúng đạo nhơn nghe nói, vui mừng chẳng xiết. Thủy Hoàng lên trướng,
có quân thám thính vào báo rằng: "Mông tướng quân về Trướng An điều binh này đã
đến, binh hùng sâu chục muôn, chiến tướng ngàn viên, đem hết binh mã trong nước
đến đây, còn ở ngoài cửa chờ lệnh cho vào. Mộng Điềm vào trướng lạy tạ ra mắt
xong rồi tâu rằng: "Tôi vâng chỉ về Trường An, điều thủ binh mã sáu mươi muôn,
chiến tướng tám viên, phó tướng ngàn viên". Thủy Hoàng cả mừng nói: "Tốt lắm,
trẫm nay bị Tôn Tẫn giết binh mã chết hơn phân nửa, đang lúc binh vi tướng quả,
nay có cứu binh đã đến, thì trẫm nào có lo chi".
Bèn truyền chỉ tám tướng vào ra mắt. Chúng tướng vâng chỉ vào trướng, tung hô
xong rồi, Thủy Hoàng xem khắp, đều là tôi lương đống, bọn anh hùng, bèn truyền
chỉ đứng dậy xưng tên ta rõ. Tám tướng cúi đầu tâu rằng: "Bọn tôi là Anh Bố, Bành
DViệt, Đổng bá, Tư Mã Hán, Đinh Công, Ung Kế, Ngụy Báo và Lý Thiệt". Thủy
Hoàng nghe nói, trong lòng cả đẹp truyền bày tiệc thết đãi, rồi lạy tám tướng vào
dinh an nghỉ.
Lúc ấy Ngụy Thiên Dân, Huỳnh Thúc Đương, Châu Huệ Trân, Mãnh cùng Kim
Tử Lăng vào trướng ra mắt Thủy Hoàng mời ngồi, bèn quay lại nói với Thiên Dân
rằng: "Hôm nay trong nước trẫm mới đến binh hùng sáu chục muôn, chiến tướng
ngàn viên quyết đạp bằng đất Dịch Châu, thì cũng cậy nhờ chước mầu kế diệu chơn
nhơn, bắt cho được Tôn Tẫn, trẫm cảm ơn sâu". Thiên Dân nói: "Xin bệ hạ an lòng,
mặc chớ lo lường, chẳng phải tôi dám khoe khoang lỗ miệng, nếu muốn bắt Tôn
Tẫn, thì chẳng cần phải dụng binh mã làm chi, để tôi ra phép mọn, bày một trận nhỏ,
dẫu nó là người đại tiên đi nữa, cũng không thoát khỏi tay tôi". Thủy Hoàng cả
mừng nói: "Chẳng hay chơn nhơn muốn dùng vật chi yểm trấn, hãy xin sai người dự
bị cho sẵn".
Thiên Dân nói: "Xin bệ hạ sai người ra phía đông, cất một cái tòa cao đài, cao ba
trượng sáu thước, rộng hai trượng bốn thước, trước đài đào một cái hầm, mỗi phía
một trượng tám thước sâu một trượng hai thước, trước hầm ấy dựng một cây cờ đỏ,
trên vẽ hình Châu tước, phía sau hầm một cây cờ đen, vẽ thần Huyền võ, bên tả một
cây cờ xanh, họa tượng Thanh long, bên hữu một cây cờ trắng vẽ hình Bạch hổ, bên
tả pháp đài thì đựng một cây cờ trắng, bên hữu một cây cờ xanh, phía sau một cây cờ
vẽ thất tinh, trên pháp đài để một cái bàn sơn son đỏ, dọn hương đăng huê chúc,
châu sa, bạch cập, giấy vàng, và lấy đất nắn một cái hình Tôn Tẫn cầm gậy cỡi trâu,
mình mặc bào xanh, chân mang giày da cá, cũng làm ra hình dạng cụt chân, bề dài
bảy tấc, đến canh ba ứng dụng, và chọn bốn mươi chín người cao lớn mạnh dạn, mỗi
người thì cầm cây cờ, trên viết bốn chữ: "Tôn Tẫn chi hồn, phía đông pháp đài thì
làm một cái cửa, kêu là tru tiên môn, dùng bốn mươi chín con chó đen, bốn mươi
chín con gà đen, bốn mươi chín con trâu đen, bốn mươi chín con ngựa đen, một người
đàn bà chửa, cùng những thú ấy giết rồi chôn dưới đất, còn phía tây làm một tòa cửa,
kêu là trảm tiên môn, dùng chó đen, ngựa đen, gà đen y số như trước và một người
con trai, giết rồi chôn ở cửa phía tây, phía nam lập một tòa cửa kêu là triệt tiên môn,
dùng chó, gà, trâu, ngựa đen như trước và môt đứa con gái, cũng giết chôn nơi cửa
phía nam, bên bắc làm một tòa cửa, kêu là hãm tiêu môn, dùng chó, trâu, gà, ngựa
đen như trước và một người mồ côi, giết chôn ở cửa ấy, lấy tám đấu huỳnh sa (cát
vàng) để trên pháp đài ứng dụng, không đặng thiếu trễ". Thủy Hoàng nói rằng:
"Trận ấy kêu là trận chi?". Thiên Dân nói: "Ấy là ngũ hành kim sa tru tiên trận, hễ
người phàm vào trận, giây phút chết liền, còn đại la thiên tiê, chẳng qua năm đêm
năm ngày, luyện đủ mười tám hột kim sa, liền tiêu ra máu mủ mà chết, dẫu có phép
ngũ độ (là độn trong đất, nước, cây, vàng, lửa) cũng không ra khỏi đặng". Thủy
DHoàng nghe nói cả mừng, truyền chỉ cụ bị những đồ ứng dụng sẵn sàng, và lập pháp
đài cho chóng, rồi dạy Vương Tiễn dẫn ba ngàn binh ra cửa đông đóng binh, Chương
Hàng dẫn ba ngàn binh ra cửa tây đóng đinh, Anh Bố thì lãnh ba ngàn binh ra cửa
bắc đóng đinh. Yên Dịch lãnh ba ngàn binh ra cửa bắc đóng đinh; điều khiển xong
rồi, đến tối có quan Đương Thực tâu rằng: "Pháp đài làm rồi, các việc đều đủ, nên
tôi phải vào mà thỉnh lệnh". Thủy Hoàng vòng tay nói với Ngụy Thiên Dân rằng:
"Pháp đài cùng các vật sẵn rồi, xin chơn nhơn hãy làm phép". Thiên Dân dạy đem
nước tới trước án tiền, mời Thủy Hoàng rửa mặt, thành tâm đối hương, chúc cao trời
đất, còn tôi thì trước cáo thượng thiên, lạy rồi đứng dậy. Ngụy Thiên Dân cùng mấy
vị đạo nhơn, khẩn vái một hồi, chờ đến canh ba sẽ làm phép, Thủy Hoàng nghe nói,
vội vã truyền bày hương án, kiền thành vái lạy, chúc cáo thượng thiên, lạy rồi đứng
dậy. Ngụy Thiên Dân cùng mấy vị đạo nhơn, khẩn vái một hồi, chờ đến canh ba,
Ngụy Thiên Dân từ biệt Thủy Hoàng, dẫn Huỳnh Thúc Đương, Tần Mãnh, Châu
Huệ Trân, bốn mươi chín tên quân dưới đài, tay cầm cờ, nhắm trên đài mà phất, hễ
nghe trên đài Kêu Tôn Tẫn, thì mọi người đều nói Tôn Tẫn đến rồi, phép ấy kêu là
kiến hồn, chẳng đặng trái lệnh. Ngụy Thiên Dân dạy Huỳnh Thúc Đương, Châu Huệ
Trân, Kim Tử Lăng, Tần Mãnh ở dưới pháp đài, niệm chú cầu hồn, còn mình thò tay
trong túi lấy ra một cái hộp nhỏ, tên là trang tiên hạp, rồi lấy hình Tôn Tẫn bằng đất
để trên bàn tay, dùng châu sa, vẽ một đạo linh phù nơi bụng Tôn Tẫn bằng đất rồi
đểvào hộp trên vẽ ít đại linh phù, đốt hương bắt ấn, đạp la bộ đầu, còn bốn vị đạo
chơn kia, niệm chú cầu hồn miệng kêu Tôn Tẫn. Tức thì quân nhơn dưới đài đều ứng
tiếng đáp rằng: "Tôn Tẫn tới rồi". Ngụy Thiên Dân đốt một đạo linh phù miệng
niệm thần chú, bỗng nghe giữa trời, tiếng nổ liên thinh, xem thấy một vầng sao, bay
dật dờ khi lên khi xuống. Thiên Dân rút gươm chỉ lên nạt rằng: "Xuống cho mau".
Tức thì vì sao liền rớt trong hộp, nhập vào thây đất ấy. Thiên Dân đậy nắp hộp,
niệm phong ba đạo linh phù, rồi miệng niệm thần chú đốt bùa, xảy thấy trên mây
bay xuống một vị Thái Bạch tinh quân. Thiên Dân nói: "Xin phiền tinh quân ở giữa
trung ương pháp đài, gìn giữ cái trang tiên hạp, trong ấy có vì sao bổn mạng của Tôn
Tẫn, phải cho hết lòng giữ chắc, nếu mà Tôn Tẫn thoát khỏi thì cứ theo thiên thơ
biếm truất". Thiên Dân đốt một đạo quân nữa, bắt ấn đạp la bộ đầu, bỗng thấy kim
pháp, tay hữu nắm cây phương thiên kích, sa xuống trước đài, hỏi rằng: "Chơn nhơn
có việc chi khiến". Thiên Dân nói: "Xin phiền tôn thần, hễ gặp Tôn Tẫn vào trận bị
kim sa chôn lấp, thì tôn thần dùng huỳnh kim pháp đè lên, chẳng nên để cho nó chạy
thoát". Lý Thiên Vương đáp rằng: "Xin vâng pháp chỉ". Thiên Dân bèn đối bùa niệm
chú, tức thì bay xuống một vị linh tiên điện Cao nguyên soái, tóc bới hai chòm, tay
cầm phong kiếm. Thiên Dân nói: "Phiền tôn thần, nếu gặp Tôn Tẫn trận, bị kim sa
rồi thì tôn thần qua phía đông, hầm tru tiên trấn giữ, chớ để cho nó chạy thoát". Cao
nguyên soái, lãnh lệnh lui ra, Thiên Dân miệng niệm chơn ngôn, đổi đao linh phủ,
bay xuống một vị linh tiêu điện, Vương nguyên soái, mình ngồi sài cang, tay cầm
Dcôn ngô kiếm, đến trước pháp đài, cúi mình ra mắt, Thiên Dân nói: "Xin phiền
Nguyên soái qua phía tây, hầm tru tiên trấn giữ chẳng nên cho Tôn Tẫn chạy thoát.
Vươngnguyên soái lãnh lệnh lui ra, Thiên Dân đốt một đạo linh phủ, thấy bay
xuống một vị Lý Nguyên soái, hình dung cổ quái, mặt mày dữ tợn, đứng trước pháp
đài chờ lệnh. Thiên Dân nói: "Xin phiền nguyên soái qua phía nam, hầm trụ tiên
trấn giữ". Và đốt một đạo linh phù, thỉnh một vị Dương nguyên soái, mình ngồi đảo
thố, tam cầm tay tiêm đao, tới trước pháp đài nghe lệnh. Thiên Dân nói: "Xin phiền
Nguyên soái qua phía bắc, hầm trụ tiên trấn giữ". Dương nguyên soái vâng lệnh lui
ra, Thiên Dân điều khiển xong rồi, bèn lấy bốn đạo linh phù cầm nơi tay, miệng
niệm chơn ngôn đốt hết một lượt, xảy thấy giữa thinh không, mây đencuồn cuộn, sát
khí đằng đằng, khôi giáp rỡ ràng, gươm đao chớp nháng, có bốn vị đại thiên vương
rần rộ bay xuống, vị thứ nhứt mình cao hai trượng bốn thước, mặt như cua biển, tóc
cứng tợ kim, mắt như lục lạc, tay cầm thanh vân kiếm: Vị thứ hai, mình cao hai
trượng tóc đỏ, râu hồng, bốn răng cửa đều lộ, tay cầm hỗn ngươn toán; vị thứ ba,
mình cao hai trượng sáu, mặt trắng giáp bạch, tay cầm tỳ bà; vị thứ tư mình cao hai
trượng bốn thước, giáp bào đen, mặt như da sắt, đều rập lên hỏi rằng: "Chẳng hay
chơn nhơn có việc chi sai khiến?". Thiên Dân thấy bốn vị thần đến, rất nên hung ác
liền vội vàng cúi mình làm lễ, nói rằng: "Xin phiền bốn vị đại vương, trấn giữ bốn
cửa nơi trận tru tiên, nếu Tôn Tẫn đến đánh, thì cho vào chớ chẳng cho ra, xong việc
rồi tôi sẽ đưa về, các thần quý vị". Bốn vị thiên vương vâng chỉ lui ra, Thiên Dân lấy
ra bốn bửu bối, nói với Thúc Đương rằng: "Đạo huynh hãy đem cây tru tiên kiếm và
đạo phu này qua cửa tru tiên, đến khi Tôn Tẫn vào trận rồi, ắt có người đến phá trận,
đạo huynh hãy đốt linh phù, tự nhiên cây gươm ấy bay bổng trên không, xa trăm
bước, chém đặng đầu người, rồi người ra tài phép của ngươi, dàn binh tướng nơi dinh
phía đông rượt giết binh mã Lâm Tri, chẳng đặng trái lệnh.
Thúc Đương tiếp lấy phù kiếm, qua phía trấn giữ, Thiên Dân nói với tử Lăng
rằng: "Đạo huynh hãy cầm kim chung này, treo nơi cửa trảm tiên môn, và lãnh một
đạo búa, hễ Tôn Tẫn vào trận rồi thì ắt có người đến phá trận, khi ấy ngươi sẽ đốt
phù, gõ luôn ba tiếng kim chung, thì những tướng vào trận đều bắt xây xẩm mày
mặt, té nhào xuống đất, rồi ngươi ra phép thần thông của ngươi, dẫn nhơn mã dinh
phía tây, rượt chém binh tướng Lâm Tri, chẳng được trái lệnh". Tử Lăng lãnh kim
chung cùng linh phù, qua cửa tây trấn giữ. Thiên Dân nói với Tần Mãnh rằng: "Đạo
huynh hãy đem cái ngọc khánh này, treo nơi cửa triệt liên môn, và một đạo linh phù,
hễ Tôn Tẫn vào trận rồi, thì đốt bàu đánh ba tiếng khánh, chẳng luận tiên phàm, đều
phải hôn mê té nhào xuống đất, rồi ngươi kéo binh dinh phía nam, rượt theo mà giết
binh Lâm Tri, chẳng nên chậm trễ". Tần Mãnh tiếp lấy khánh phù lui ra. Thiên Dân
nói với Huệ Trân rằng: "đạo lãnh đạo linh phù, hễ Tôn Tẫn vào trận, thì có người
Dđến tiếp ứng, ngươi hãy đốt bùa phất cờ lên, chẳng luận tiên phàm, đều phải tan
hồn mất phách, chừng đó ngươi sẽ dùng phép lực, dẫn binh ra phía bắc, đánh giết
tướng Lâm Tri". Châu Huệ Trân lãnh cờ bùa lui ra.
Thiên Dân lấy một đạo bùa cầm nơi tay, miệng niệm chơn ngôn, dùng lửa đốt
lên, bỗng thấy một đội âm binh phi sa tẩu thạch, đầu trâu mặt ngựa, đứng phân hai
hàng ở giữa một vị quỷ vương, mình cao trượng sáu, mặt như sắc đất, bốn răng đều
lộ, đầu mọc hai sừng, bên tả mang cung, bên hữu mang tên, tay cầm lang nha bổng,
mười phần hung ác, đến giữa pháp đài cúi mình thi lễ, hỏi rằng: "Pháp sư có việc chi
sai khiến". Thiên Dân nói: "Nay bốn cửa trận tru tiên đều có oan hồn, chó đen, gà
đen, trâu đen, ngựa đen, và quỷ hồn đàn bà chửa, cùng con trai, con gái, xin cậy tôn
thần bốn cửa tuần do, hễ Tôn Tẫn vào trận rồi, thì dẫn chúnt quỷ hồn ngăn giữ, chận
chẳng cho trở lại, nếu trái lịnh cứ theo thiên thơ biếm truất". quỷ vương vâng chỉ lui
ra, Thiên Dân lấy hai cây cờ nhựt tinh, thì viết bốn chữ: "Ngọc thố tan hình, lấy một
cái hộp đựng mười tám hột kim sa, còn một thạch tám đấu chia ra mười tám chỗ, đề
phòng ứng dụng, các việc bày trí xong rồi, bèn cầm cây cờ thất kinh hươi phất ba
lần, tức thì trong trận tru tiên âm phong thảm thảm, oán khí đằng đằng, trời đất tối
tăm, thiên hôn địa ám, Thiên Dân bước xuống pháp đài, bới đầu đội mão, vào trướng
ra mắt Thủy Hoàng, sửa soạn sáng ngày cùng với Tôn Tẫn đối tài.
Nói về Tôn Tẫn đang ngồi trong dinh, vận động ngươn thần qua đếncanh ba, xảy
đâu trong lòng hồi hộp, bứt rứt tâm thần ngồi đứng chẳng an, thịt nhảy tưng bừng, tóc
như người giựt, bên tai nghe có tiếng kêu réo om sòm, vội vàng lần tay đoán quẻ,
trước biết nguồn cơn, thở dài một tiếng mà nói rằng: "Nạn ta đã đến rồi". Bèn hỏi:
"Bây giờ tới phiêu trò nào chầu chực đây?". Khoái Văn Thông thưa rằng: "Có cháu
hầu đây?". Tôn Tẫn nói: "Cháu hãy đi cùng ta". Văn Thông nói: "Đang lúc nửa đêm
bác đi đâu bây giờ?. Tôn Tẫn nói: "Cháu hãy theo ta ra ngoài trướng". Nói rồi bước
xuống thanh sa. Văn Thông theo ra sau khỏi trướng. Tôn Tẫn ngước mặt lên xem
thấy thất kinh, hồn bay ngàn dặm, giây lâu tỉnh lại, than rằng: "Tai nạn đến rồi, số
trời khó trốn". Văn Thông lấy làm lạ, hỏi rằng: "Vì sao mà sư bá xem trời, lại có
việc chi kinh sợ lắm vậy?". Tôn Tẫn nói: "Cháu hãy coi sao bổn mạng của ta đi đâu
mất rồi". Khoái Văn Thông nghe nói ngước mặt lên xem, tinh đâu đầy trời tư bề chói
rạng, mà chẳng thấy sao bổn mạng của sư bá mình. Tôn Tẫn nói: "Sao bổn mạng của
ta bị người thâu rồi". Văn Thôngnói: "Sao bổn mạng của sư bá ai mà dám thâu". Tôn
Tẫn nói: "Cháu không rõ đặng, nhơn vì Huỳnh Thúc Đương bị thua, nay nó lên núi
tru tiên, tuy rằng yêu đạo rất nên độc ác, song cũng bởi đại nạn của ta tới rồi, nólàm
phép cầu hồn mà thâu sao bổn mạng ta, trong bốn ngày mạng ta phải khốn chẳng
còn, công ta tu luyền bấy lâu, một ngày mạng ta phải khốn chẳng còn, công ta tu
luyện bấy lâu, một mảy hết rồi, tranh danh đoạt lợi có chi đâu, nếu ngày mai nạn lớn
Dkhó gìn, dẫu mà danh vào bực tiên cũng uổng, chẳng làm gì". Văn Thông nói: "Nếu
nó vào bực tiên cũng uổng, chẳng làm gì". Văn Thông nói: "Nếu nó bày trận ra mà
ta đừng phá, thì có sợ chi mà sư bá phải lo sợ lắm vậy". Tôn Tẫn mỉm cười nói rằng:
"Trận tru tiên này, vì chẳng phải tầm thường như mấy trận khác đâu, đi cũng chết
không đi cũng chết, ta tưởng khi có người đến cứu chẳng không, nay có một lá thiệp
này, ta giao cho ngươi, nếu ta vào trận ba ngày rồi ngươi sẽ giở thiệp ấy coi đó mà
làm, còn việc binh tinh ta giao cho ngươi chưởng quản, chẳng nên phát binh sai
tướng ra trận, hãy ghi nhớ lời ta". Dặn dò rất thiết, rồi vào trướng lấy một lá thiệp
giao cho Văn Thông, Văn Thông lãnh thiệp xong rồi kế trời vừa sáng, Tôn Tẫn lên
trướng, bỗng có quân báo rằng: "Góc bên đông nam dinh Tần bày một trận, mười
phần nghiêm chỉnh nên tôi phải vào thông báo, xin vương gia liệu định". Giây phút
quân kỳ bài vào báo nữa rằng: "Bèn dinh Tần có vị đạo nhơn cỡi nai cầm trượng ở
trước cửa dinh kêu đánh, và mới vương gia ra nói chuyện!". Tôn Tẫn nghe nói truyền
đánh trống nhóm tướng, chẳng chúng tướng lớn nhỏ kéo vào ra mắt. Tôn Tẫn nói với
chúng tướng rằng: "Từ lúc ta xuống núi Thiên Thai đến nay ngỡ là trảcái thù cho
cha, anh được, chẳng dè gặp lấy Huỳnh Thúc Đương, nó thinh thằng yêu đạo, ở núi
vạn Huê Sơn, là Ngụy Thiên Dân xuống đây bày một trận tru tiên, nơi góc đông
nam, nó đang ở dưới dinh khiêu chiến, phen này ta ra trận ắt là hung nhiều kiết ít,
chúng vị tướng quân phải cho hết lòng, gìn giữ đại dinh, chúng ngươi chẳng nên trái
lệnh". Tôn Yên nói: "Vì cớ nào tam thúc sợ nó lắm vậy, tôi tưởng một cái trận này
có khó chi, tôi chẳng dám khoe khoang lỗ miệng, lúc nọ trên núi Kinh Kha ngũ hổ
quân tôi đơn thương độc mã, đạp phá trận ngũ hổ quân vương của nó, đánh giết binh
Tần vỡ mật một ngày một đêm còn chẳng vây tôi được huống chi tam thúc
thầnthông quảng đại, chẳng những là một trận mà thôi, dẫu có trăm trận đi nữa cũng
không làm gì, tam thức sợ nó làm chi". Tôn Tẫn nói: "Ngươi chưa rõ, trận này chẳng
phải như khác đâu, kêu là Kim sa tru tiên trận, trong trận có thiên thần tướng, âm
linh quỷ hồn, yêu pháp tà bửu, rất nên lợi hại". Lý Tòng nói: "Đệ tử theo thầy xuống
núi, nguyên vì báo phò sư phụ đến đây, hôm nay thầy vào trận tôi tình nguyện theo
thầy bảo hộ, có sợ gì thêm thần thiên tướng, duy có một cây đao của tôi dẫu nó có
bày trận thâu ngưu (là nói trận lớn nuốt trâu được) đi nữa, thì cũng chặt nhào, máu
trôi như biển, xin cho tôi đi cùng". Tôn Yên cùng các vị học trò, đều rập đầu lên nói
rằng: "Tôi xin theo vào trận".