Mẫu Thượng Ngàn

Phần XV - Chương 1

Sau cái đêm ở hang đá, gần mỏ nấm, anh Cò tức Xuân biến đổi hẳn. Sau khi giật tay khỏi tay bà ba Váy tức mẹ hắn, Cò đi lang thang trong rừng suốt đêm. Bà ba Váy, ngay sau đó, trở về nhà chờ Cò, định khuyên giải cho Cò nghe ra vấn đề. Chuyện sinh ra Cò là như thế, là tự nhiên, là số phận. Bà đâu có lỗi. Ông Huyền cũng đâu có lỗi. Cả hai người đều thương yêu nó lắm chứ. Song biết làm thế nào? Số phận đã định như thế. Chỉ mong con cắn răng lại, chấp nhận, đừng hở ra với ai. Con ơi! Bây giờ mẹ chỉ mong con nên người. Thế là lòng mẹ đã thỏa lắm rồi. Còn con muốn nghĩ về mẹ thế nào, mẹ cũng đành chịu vậy…

Bà Ba chờ Cò suốt đêm vẫn không thấy về. Bà như ngồi trên đống lửa, hết đứng lại ngồi, hết ra lại vào. Đến trưa, Cò vẫn bặt tăm dạng. Ông lý Cỏn muốn gặp Còn nhờ con viết tờ giấy bẩm lên quan trên. Bà Ba bảo Cò đi xem hội vẫn chưa về. Lý Cỏn cười:

- Thằng này cũng biết đi “trải ổ” rồi hay sao?

Ông Lý không sốt ruột, coi chuyện đi xem hội làng biến mất một hai ngày là chuyện thường tình. Riêng bà Ba lại lo sốt vó. Bởi vì bà biết mình là nguyên nhân, vì bà là người trong cuộc. Bà con biết suốt đêm hôm qua, ông Huyền cũng phải lặn lội trong rừng tìm Cò. Sao mãi đến bây giờ vẫn chưa có tin gì nhỉ? Bà Ba phải sai ba người làm tiếp tục vào rừng tìm Cò.

Mãi đến gần chiều ông Huyền mới thấy Cò ở bên bờ suối cách núi Đùng đến vài cây số. Nơi đó hoang vắng lắm. Ở quanh núi Đùng, gần làng, ác thú không dám về, chứ ở con suối xa này nghe nói hổ, báo về luôn. Ông bực mình: “Cái thằng điên rồ đến thế là cùng. Là con của ta thì cũng tốt chứ sao? Can cớ gì phải kiếm chai rượu rồi ra nơi nguy hiểm thế này để một mình uống say bí tỉ. - ông chợt thở đài, lòng trĩu nặng buồn rầu. - Hay thằng con của ta đã cảm thấy xấu hổ vì chính ta là cha đẻ của nó...”.

Ông Huyền cõng Cò đến quá nửa đường mới gặp người nhà lý Cỏn. Từ hôm ấy, Cò thay đổi hẳn tính. Trước đây, Cò hay vui vẻ bông phèng với mọi người, nay cậu ta biến thành một con người trầm lặng ít nói, ít cười. Điều đặc biệt nữa, Cò bỗng nhiên lảng tránh, ít gặp mặt ông Lý, nhất là đối với bà Ba hầu như cậu không muốn giáp mặt. Ông lý Cỏn ngạc nhiên hỏi vợ:

- Bà có thấy thằng Cò dạo này khang khác không? Hay là... hay là... đã đến lúc phải lấy vợ cho nó.

Bà ba Váy hiểu chuyện nhưng không biết giải quyết bằng cách nào, liền bảo chồng:

- Tôi cũng thấy thế. Ông thử hỏi nó xem sao?

Ông Lý thực thà hỏi con trai. Cò trả lời:

- Sắp đến kỳ thi thành chung rồi. Chắc con mải học thi nên thế thôi. Không có chuyện gì đâu ạ.

Nghe con nói đến việc chuẩn bị thi thành chung, ông Lý tin ngay. Đối với riêng ông, việc ấy còn quan trọng hơn. Nhà ông chú, ông ký Nhàn, có Huy là cậu tú. Nhà họ Đinh có cụ cử Lê rồi anh Tuấn là họa sĩ Hà Nội danh tiếng. Nay nhà ông có thằng Cò, chưa đầy mười tám tuổi đã thi “đip lôm”, việc ấy thật quá danh giá cho gia đình thậm chí cho cả gia tọc nữa. Cò nói:

- Chỉ vài tháng nữa con thi. Từ nay đến lúc ấy, con ra Hà Nội không về nhà giữa chừng được đâu.

Ông Lý mừng rỡ:

- Con nghĩ vậy thầy mừng. Việc thi cử phải có công dùi mài kinh sử. Con cứ cố học là được. Bao giờ về làng mang cho thầy cái bằng là thầy vui nhất. Đây, thầy cho trăm bạc để tiêu pha.

Ông Lý không biết chứ bà ba Váy thì biết ý nghĩ của Cò. Bà thầm nhủ: “Nó muốn tránh mặt mẹ nó đây mà. Nó không thèm nhìn mặt mẹ nó nữa đây mà!”. Hôm ra Hà Nội, thậm chí Cò không đến chào mẹ nữa. Bà ba Váy đau điếng từng khúc ruột. Bà nghĩ rằng mình đã đẻ ra một thằng con bội bạc. Đêm, bà khóc một mình, khóc ròng ròng khi lũ con bà ngủ hết. Bà khóc nhiều nỗi. Thằng con mà bà yêu quý nhất thì như vậy. Còn ông Huyền thì….

Cò là người có chí. Anh quyết tâm thi cho được bằng Thành chung. Ra Hà Nội, Cò học đêm học ngày và quyết giữ cho được lời hứa chưa thi xong thì chưa về làng. Thực ra, Cò không chỉ giận riêng mẹ mình, anh thấy hận tất cả mọi người. Tại sao anh phải chịu cái cảnh trớ trêu thế này? Có cha mà không được nhận cha. Rồi tại sao mẹ mình lại có hai người đàn ông? Tại sao tôi không được hưởng cái hạnh phúc rất đơn giản của một con người ở đời? Tại sao cứ phải lén lén lút lút sống một cách dối trá? Để trốn chạy những câu hỏi dàn vặt ấy, Cò đã lao đầu vào học.

Cho đến một hôm, Cò bỗng nhận được một bức điện không đề tên người gửi. Vẻn vẹn chỉ một đòng chữ: "Về làng ngay có việc khẩn cấp". Thế là Cò bỗng dưng không học nổi nữa. Anh đoán già đoán non chuyện này chuyện khác. Tuy nhiên, lòng anh nóng như lửa đốt. Tuần lễ trước, có người ở làng ra, anh hỏi thăm và biết tin bà ba Váy bị ốm, không đi làm đồng được nữa. Từ khi Cò làm người, cậu chưa thấy bao giờ mẹ mình ốm. Người ta vẫn bảo người không ốm bao giờ, hễ bị ốm là bệnh nặng lắm. Vậy “việc khẩn cấp” ở đây phải chăng là bà Ba đang ốm to. Giận mẹ thế thôi, chứ thực ra trên đời này, người mà Cò yêu quý nhất chính là bà ba Váy. Cò hay đọc sách, lại là người tình cảm. Anh không bao giờ nói ra miệng nhưng trong thâm tâm, anh thương mẹ, xót xa mẹ đến đứt ruột, mỗi khi mẹ bị ngược đãi. Anh cũng hiểu mẹ anh, trong cái gia đình họ Vũ Xuân này có địa vị thế nào?

Thế nào là một nàng hầu? Người đàn bà đi ở chỉ chịu khổ một bề. Còn nàng hầu, đó là người đàn bà vừa mang thân phận một con ở, vừa mang thân phận nô lệ về thể xác đối với ông chủ. Đã có lần ông lý Cỏn đóng cửa buồng, nhốt bà ba Váy lại vì ông ghen. Cò ghé mắt qua lỗ thủng nhìn vào, thấy ông Lý cứ dùng hai tay mà véo vú bà rồi còn bắt bà tốc váy lên dùng roi mây quật vào đít, miệng rít kèn kẹt: “Từ rày ra đình, ông cấm không được cười toe toét với ai. Nghe chưa!”

Có lần, bà dẫn Cò vào mỏ nấm, dạy gây và hái nấm hương. Cò thủ thỉ hỏi mẹ:

- U ơi! Người ta bảo thầy con mua u về bằng hai mươi thùng thóc, có phải không?

- Đừng nghe người ta đồn con ơi!

- U ơi! Người ta bảo con giống ông ngoại và giống u có phải không?

- Ừ, mày giống u và ông ngoại vì mày thích rừng, thích chim chóc, thú vật.

- Lũ em con có giống ông ngoại không?

- Không! Chúng nó giống thầy mày.

- Thế sao con không giống thầy con?

Bà ba Váy chợt im lặng, không giải thích nổi cho Cò nữa. Nhưng đến hôm nay thì Cò hiểu tất cả. Cò cứ muốn tỏ ra giận mẹ, chứ thực ra kể từ hôm ấy đêm nào Cò chẳng vắt tay lên trán suy nghĩ. Càng nghĩ càng thấy thương. Chỉ đến lúc nhận được bức điện, nỗi thương mẹ mới bùng ra không ngăn nổi nữa. Anh đã phá bỏ lời hứa. Chưa đi thi anh đã trở về quê.

Về đến đầu làng anh xuống xe, lòng hồi hộp lo lắng. Có mấy bà đi chợ về đứng túm tụm ở tha ma đầu làng. Thấy anh, họ mừng quýnh:

- Anh Cò Xuân. Chờ chúng tôi. Cho chúng tôi đi cùng với.

Cò Xuân rất ngạc nhiên vì thấy vẻ mặt người nào cũng hất hoảng, sợ hãi. Hỏi tại sao họ chẳng nói mà chỉ hất hàm về phía cây đa đầu làng và thì thầm:

- Ở gốc cây đa ấy.

Cò thấy dáng điệu khiếp hãi của họ cũng không muốn hỏi thêm mà chỉ rảo bước đi cho nhanh. Anh dẫn đầu đoàn các bà đi tới gốc đa. Anh bước nhanh, làm các bà muốn đi theo kịp phải chạy ríu cả chân. Càng đến gần cây đa thì các bà càng đi sát lại nhau. Có bà nhìn đi hướng khác, nhưng cũng có bà lấm lét nhìn vào cái ngai thờ “Đại thụ linh thần". Anh nhìn theo. Đến lúc này, Cò Xuân mới vỡ lẽ. Thì ra trước ngai, có treo lủng lẳng một chiếc đầu lâu. Đó là chiếc đầu người đã bị biến dạng. Da đã tím bầm chẳng còn có thể biết là ai. Tóc trên đỉnh đầu lâu kéo ngược lên trên, buộc vào cái rễ đa lủng lẳng. Sở dĩ ta không nhận dạng được, còn bởi lẽ ruồi nhặng bâu đen kín mặt người chết. Ở cái ngai "Đại thụ linh thần" có một tờ bố cáo. Cò tò mò dừng chân lại xem. Anh tiến lại gần vài bước. Đàn ruồi thấy động bay ào ào như ong vỡ tổ. Tiếng ruồi bay như tiếng kêu oa oa từ mồm người chết. Các bà hoảng quá kêu trời, rồi ba chân bốn cũng chạy vội vào cổng làng, để mặc Cò Xuân đứng một mình trước cái đầu lâu thê thảm. Và khi ruồi bay đi hết, Cò Xuân mới choáng váng nhận ra cái đầu lâu kia là ai. Dù đã bị biến dạng, cái đầu ấy vẫn không thể lẫn với bất cứ cái đầu nào khác. Bởi vì, khuôn mặt đó một nửa là thiên thần, một nửa là sần sùi ghê rợn. Bởi vì khuôn mặt đó chính là khuôn mặt ông Trịnh Huyền, khuôn mặt của người cha mà anh mới biết. Thì ra cái việc "khẩn cấp" gọi anh về làng chính là việc này đây. Chàng đứng lặng trước dòng chữ trên tờ bố cáo:

Trịnh Huyền tên thục là Đinh Công Phác. Xưa kia, hắn đã nổi loạn, bị chính phủ truy tìm. Hắn cải trang về quê cũ không chịu cải tà quy chính, lại một lần nữa nổi loạn, đã bị nhà nước Pháp bắt và trùng trị.

Ngay đêm hội ngày mười bốn, khi Điều xông tới cầm dao quắm chém tới tấp Julien, rồi vội vàng cõng Nhụ vào rừng sâu, Điều cứ đinh ninh rằng Julien đã chết. Thực ra, người Tây chỉ bị thương nặng. Quản Láu đã tìm được chủ nằm bất tỉnh dưới cây đa - si. Con ngựa của Julien khôn lắm. Nó thấy Julien nằm sõng soài bất tỉnh, bèn tới đánh hơi. Nó biết chủ gặp nạn, cứ đứng bên cạnh hí vang trời, gọi quản Láu ở xa đến cứu. Quản Láu ôm xác Julien lên ngựa chạy về đồn điền. Pierre đánh xe hơi đưa em lên tỉnh ngay đêm hôm đó. Nhờ kịp thời tiếp máu và chữa trị vết thương nên một tháng sau, Julien đã lành lặn trở về Kẻ Đình.

Cũng lúc đó chính quyền Pháp qua sự việc Julien, lấy làm ngạc nhiên vì một thiếu niên chưa tròn mười tám tuổi đã dám cả gan cầm đao chém bị thương một người da trắng. Người ta mở cuộc điều tra, lục tung các hồ sơ cũ và tìm ra nhân dạng đích thực của Trịnh Huyền chính là kẻ phiến loạn Đinh Công Phác xưa kia đã một thời theo đảng Văn Thân chống lại người Pháp. Cả ông đồ Tiết, cha của Phác cũng như vậy. Hóa ra gia đình này là một gia đình nổi loạn có nòi có giống. Một quyết định được đưa ra. Phải bắt cho được Điều và Trịnh Huyền. Điều đã trốn mất tăm. Họ định bắt Trịnh Huyền, ông này cũng trốn nốt vào rừng.

Julien liền thành lập một đội lính đồn điền dưới quyền chỉ huy của quản Boong. Việc đầu tiên họ làm là triệt hạ nhà cụ đồ Tiết. Nhà cửa bị đốt cháy, san thành bình địa. Đất đai sung công, rồi đem bán cho tư nhân. Một cơ hội thuận lợi cho tiên chỉ Nhậm. Ông này đã mất bao tâm cơ mà không chiếm được khu đất ưa thích. Nay bỗng dưng ông chiếm được nó bằng cái giá rất hời.

Ông Trịnh Huyền chui rủi đến đất Mường, may mắn gặp lại anh Mường rồi người thủ hạ thân tín của cụ đồ Tiết khi xưa. Anh Mường rồ lấy cô Ngơ vú ấm giỏ sinh được ba đứa con. Túng quẫn, nghèo khổ quá đã đẩy anh tập hợp đồng đảng thành một nhóm cướp. Họ thường bôi nhọ nồi vào mặt, thỉnh thoảng lại xuất hiện ăn cướp những nhà giàu có. Suốt một dải từ Ba Vì sang đến Hòa Bình là địa bàn hoạt động của toán cướp xuất quỷ nhập thần. Trịnh Huyền nhập đảng, đám cướp càng ghê gớm hơn. Họ dám ăn cướp cả đồn điền người Tây.

Người Pháp đem lính đi lùng sục. Mấy tháng trời, không xảy ra vụ cướp nào nữa. Người Pháp đắc chí, cho rằng đảng cướp sợ oai đã tự tan rã. Sự thực, trong mấy tháng ấy, Huyền chuẩn bị để đánh đồn điền Messmer.

Julien cáo già hơn quan lãnh binh trên tỉnh. Hắn không đắc chí, không lơ là. Hắn cũng chuẩn bị vì hắn luôn cảm thấy Trịnh Huyền không đời nào chịu buông tha hắn. Đồn điền của hắn hơn hẳn các đồn điền khác, vì hắn là một sĩ quan, vì hắn có một người cộng sự đắc lực là quản Boong, người đã tham gia chiến tranh đánh Đức. Quản Boong rèn luyện các tay súng của mình rất cẩn thận. Và không đêm nào họ lơ là canh gác.

Quả nhiên, như Julien dự đoán, một đêm tối trời. Trịnh Huyền dẫn quân đánh đồn điền Messmer. Trịnh Huyền đã thuộc lòng địa hình của đồn điền như lòng bàn tay. Ông quyết ăn chắc trận này. Nhưng vũ khí của ông chỉ có ba khẩu súng trường và mấy khẩu súng kíp. Trong khi đó, mười lăm tên lính của quản Boong đều có súng tốt và nhiều đạn. Họ lại chờ sẵn, mong ông rơi vào bẫy. Do vậy, cuộc chiếm đánh đồn điền thất bại. Người chủ tướng xông xáo nhất là Trịnh Huyền tử trận. Toán quân phải rút cho nhanh không mang được xác ông Trịnh Huyền đi.

Bà ba Váy được mục kích cảnh gia đình nhà Trịnh Huyền tan tác, rồi ông bị truy nã, bà đâm suy sụp nằm xuống ngã bệnh. Cụ Tú bắt mạch bảo rằng:

- Chị Ba hầu hạ anh Lý thập tử nhất sinh hơn một năm trời. Nay chị mới ốm cũng là do chị ấy có sức vóc hơn người. Chứ nói thật nhé, nếu chị Ba yếu sức như người ta, chắc đã đổ gục từ lâu rồi.

Cụ Tú bắt mạch biết bệnh của bà ba Váy là tâm bệnh nhưng không nỡ nói ra, vì ông cụ chẳng lạ gì tính nết của ông Lý, cháu mình. Nếu ông cụ bảo chị Ba mắc tâm bệnh chắc ông Lý sẽ tạo ra những hậu quả chẳng biết đâu mà lường được. Ông cụ chẳng biết chút gì về chuyện ngày xưa của cháu đâu, song ông cụ rất ngạc nhiên khi Julien cho cắt đầu Trịnh Huyền đem bêu ở góc đa đầu làng, thì bệnh trạng của bà ba Váy bỗng tăng lên, trầm trọng một cách khác thường. Ông cụ nghĩ chẳng lẽ có mối liên quan gì giữa căn bệnh và cái đầu lâu ấy. Tuy nhiên, ông cụ là người nhân từ, kín đáo nên không hé môi nói ra một lời.

Còn ông lý Cỏn, thấy bệnh của vợ lúc tăng lúc giảm, nghe cụ Tú giải thích vợ mình vì quá tận tụy chăm sóc mình hơn một năm trời nên sinh bệnh, ông Lý chẳng nghi ngờ gì cả, lại có phần cảm kích thương xót. Ông bảo cụ Tú cứ tìm những dược thảo tốt nhất cắt cho bà uống, tiền nong ông lo.

Lúc Cò Xuân từ gốc đa đầu làng về nhà, anh xộc ngay vào buồng mẹ. Hai mẹ con nhìn thấy nhau chẳng nói một lời, cả hai chỉ ứa nước mắt. Cò Xuân nắm tay mẹ mãi mới thất một câu: “U ơi! U cứ yên tâm cho khỏi bệnh!” Người mẹ gật đầu, xiết chặt tay con. Mà lạ thật? Sự có mặt của người con như một liều thuốc tiên. Hai hôm sau, bệnh của bà ba Váy đã qua cơn nguy kịch. Cụ tú Cao mừng rỡ cứ nghĩ cái "tâm bệnh" hóa ra chỉ vì người đàn bà quá thương nhớ con trai mà sinh ra. Ông lý Cỏn bảo Cò Xuân:

- Con về thế là tốt. Đã cứu được mẹ mày. Con ra Hà Nội đã có thể yên lòng. Mẹ mày khỏi bệnh, nếu con lại thi đỗ cái bằng “đíp lôm”, bố sẽ ăn khao.

Cò Xuân có vẻ thản nhiên trở lại thành phố. Tuy nhiên, anh hiểu bức điện không người gửi gọi anh về làng thực ra chỉ để cho anh nhìn mặt người cha đẻ của anh, ông Trịnh Huyền, lần cuối cùng. Lúc trở ra đi qua gốc đa làng, anh không nói một lời, mà chỉ nhìn trân trân vào cái đầu lâu ruồi bâu kín mít. Anh không dừng lại, sợ người ta nghi. Anh chỉ khấn thầm trong lòng: “Con lạy cha ngàn lạy. Con đã quyết tâm. Con sẽ làm bằng được những điều mà con định lành”.

Cái đầu lâu Trịnh Huyền bị bêu dưới gốc đa hơn một tuần. Bà Mùi từ núi Mẫu về làng, bà vừa đi vừa khóc nức nở: “Anh ơi là anh ơi! Sao anh lại chết thê thảm thế này...” Bà chẳng sợ gì cả. Bà bày đèn nhang dưới gốc đa, xõa tóc làm lễ, khóe than cho số phận long đong của người anh. Lính bắt giải đến gặp Julĩen.

- Bà quan hệ thế nào với tên phiến loạn? - Hắn hỏi.

- Ông Huyền là anh ruột tôi.

Julien cũng là người đàng hoàng. Hắn bảo:

- Việc ai làm người ấy chịu tội. Việc bêu đầu như vậy cũng đã đủ. Nể bà có thời đã là chị dâu tôi, vả lại hắn ta, Trịnh Huyền cũng là người lính khí tiết và quả cảm, tôi cho bà được phép chôn cất cái đầu lâu phiến loạn.

Bà Mùi đặt chiếc đầu người anh vào chiếc quả sơn son, đem chôn ở khu rừng Báng nằm phía sau đền Mẫu.

Năm ấy, Cò Xuân ngày đêm miệt mài học nhưng vì suy nghĩ nhiều nên trượt kỳ thi đầu hè. Chàng trai hầu như quên ăn quên ngủ. Người gầy rộc hốc hác. Song mắt anh sáng quắc vì ý chí sắt đá. Quả nhiên, kỳ thi thứ hai cuối hè, anh đã đỗ. Ông lý Cỏn mổ bò ăn khao con trai đỗ bằng Thành chung. Khách hàng tổng đến mừng nườm nượp, cả ông chủ đồn điền Julien cũng đến mừng. Julien gặp Cò Xuân lần đầu tiên. Ông ta không ngờ ở chốn thôn quê heo hút thế này lại có một chàng trai khôi ngô và có học thức như thế. Một ông lý nhà quê đại cổ hủ như lão lý Cỏn mà lại sinh được người con trai như thế ư? Mới đầu Juiien còn rất khó khăn nói chuyện với Cò Xuân, bởi vì ông ta thiếu chữ khi nói tiếng An Nam, vả lại cái giọng lơ lớ của ông làm cho người ta khó nghe, bản thân Julien cũng thấy khó chịu khi phải nói tiếng bản xứ. Cò Xuân nhận biết được ngay tâm lý của Julien. Anh chuyển sang nói chuyện bằng một thứ tiếng Pháp vừa phát âm hoàn hảo, vừa chuẩn về ngữ pháp. Julien hài lòng ra mặt. Thực ra, Julien có một nguyên tắc rất chặt chẽ trong đồn điền của mình. Những kẻ hầu người hạ nào nói tiếng Pháp giỏi ông ta sẽ trả lương cao. Julien bảo tiếng Pháp là thứ tiếng có âm thanh tuyệt hảo. Nghe ai nói hay, ta có thể tưởng tượng như tiếng chim hót. Julien muốn loại bỏ tiếng An Nam, thứ tiếng bản xứ nguyên thủy, bán khai, thứ tiếng của rừng rú dã man ra khỏi tòa nhà sang trọng của mình. Tìm mãi vẫn không gặp. Hôm nay được nói chuyện với Cò Xuân, ông ta sung sướng như người tìm thấy vỉa vàng. Julien hỏi ngay:

- Anh bạn trẻ có muốn đến làm việc ở đồn điền với tôi không? Tôi thích cái giọng nói tiếng Pháp của anh lắm. Anh học trường Tây phải không?

- Thưa ngài, tôi học trường Nam.

- Học trường An Nam mà nói được như thế sao? Phải nói cậu là người có năng khiếu. Ôi chao! Tôi phát khiếp vì cái tiếng tây giả cầy của quản Láu. Tôi cũng tởm lợm cái tiếng tây bồi dã man của lão quản Boong. Còn ông anh tôi nữa, ông ta phát âm bằng cái giọng ồm ồm. Nghe ông ta như phải nghe cái tiếng kèn bát làm chấn động lồng ngực con người.

Thấy Cò Xuân còn lưỡng lự, Julien bảo:

- Anh chớ băn khoăn. Tôi sẽ trả lương anh gấp đôi người thường. Hai mươi đồng Đông dương một tháng. Thế nào? Ưng chứ? Anh sẽ làm thư ký cho tôi. Còn suy nghĩ gì nữa. Học “đíp lôm” xong, đi làm cho hãng buôn, người ta chỉ giả anh mười hai đồng là cao nhất. Vả lại, nếu anh làm tốt tôi sẽ trả công cao hơn. Rồi, có thể, tôi sẽ giới thiệu anh với ngài công sứ. Ông ấy là bạn thân của tôi.

Sau hôm ấy, Cò Xuân nghiễm nhiên trở thành cậu ký đồn điền. Ngày ngày, cậu mặc com-lê trắng, thắt cà vạt đến làm việc cho Julien. Thầy trò rất tâm đầu ý hợp. Cậu Cò Xuân cũng tháo vát nhanh nhẹn. Thỉnh thoảng, cậu thay mặt ông chủ, đi làm việc với phủ với huyện. Có lúc, còn sóng đôi cùng ông chủ lên gặp quan công sứ trên tỉnh. Ông phủ có cô con gái út xinh đẹp, ông bắn tin nếu cậu Cò Xuân ưng thuận, ông cũng bằng lòng cho.

Sự thăng tiến vùn vụt của người con trai làm ông lý Cỏn nở từng khúc ruột. Bao nhiêu cái ốm đau trong ông bỗng tiêu tan hết, ông Lý đang rắp ranh định cưới bà vợ thứ tư. Trong lúc chồng và con đang vượng lên như thế, thì sức khỏe bà ba Váy, ngược lại, càng ngày càng sút. Bà chỉ khá lên khi gặp lại con, sau đó lại ốm trở lại. Bà ba Váy hôm nay đã hoàn toàn khác bà ba Váy ngày xưa. Người đàn bà hồng hào, đầy sức sống, lúc nào cũng tươi tắn, lúc nào cũng chỉ thấy chửa với đẻ nay bỗng nhiên héo hon, gầy còm. Cái sức sống hừng hực của bà đã bay đi mất tự khi nào.

Cò Xuân là người điềm đạm, trầm tư. Anh ta không phải là kẻ dương dương tự đắc khi gặp thời. Anh ta chẳng nói với mẹ những lời to tát nhưng người mẹ, chỉ nhìn vào mắt anh, cũng biết anh xót xa cho mẹ vô cùng. Cò Xuân đón đốc tờ về khám bệnh cho bà Ba. Ngoài chuyện héo hon gầy mòn, bà ba Váy còn mắc chứng u trầm, có khi ngồi cả buổi chẳng nói một câu. Đốc tờ cũng chịu bó tay. Lúc bấy giờ người ta mới chợt nhớ tới ông hộ Hiếu. Ông già điên khùng ấy còn sống may ra chữa nổi được bệnh cho bà Ba. Cụ Tú bảo nếu dùng thứ nấm mọc trên con sâu mà người Tầu gọi là “đông trùng hạ thảo” may ra thì khỏi. Thứ nấm ấy có khi còn bổ hơn nhân sâm. Nếu cơ thể bà Ba hồi phục lại được thì bách bệnh tiêu tán. Cò Xuân ra phố Phúc Kiến mua, các hiệu khách nói, năm ấy tỉnh Tứ Xuyên là nơi sản xuất thứ nấm đó đột nhiên rất hiếm hàng. Có vàng cũng chẳng mua được. Cụ Tú bảo: "Còn nhớ ngày xưa, ông thần rừng, ông ngoại Cò Xuân nói thứ nấm ấy trong rừng Cổ Đình cũng có".

Thế là Cò Xuân, ngày nọ qua ngày kia, lăn vào rừng đào đào bới bới, tìm thuốc cho mẹ. Có bận, người ta thấy anh con trai thì thào nói chuyện với mẹ. Người ta bảo, trong cuộc chuyện ấy, Cò Xuân thì chảy nước mắt, còn bà ba Váy thì cười. Như vậy, chắc đã có chút hy vọng. Một bận khác người ta thấy Cò Xuân ôm tay chảy bê bết máu trở về. Hỏi ra mới biết anh ta đào phải hang rắn, bị rắn đớp ngón tay. Cò Xuân thật gan. Lập tức hắn kê ngón tay lên đá rồi đùng đao quắm chặt phăng. Gặp nạn thế mà hắn không chịu thua, vẫn hì hục vào rừng đào bới. Ông Julien nnghe được chuyện càng quý mến người thư ký của mình.

Một ngày chủ nhật, được ngày nghỉ, Cò Xuân lại vào rừng. Anh ta đang đào bới thì một giọng oang oang cất lên:

- Chào cậu Cò Xuân.

Xuân ngẩng lên, thấy một người hơi thấp, đậm, râu ria xồm xoàm. Xuân hỏi:

- Bác là ai?

- Tôi là bạn của ông Trịnh Huyền, là thủ hạ của cụ đồ Tiết. Tôi là Mường Rồ cậu đừng sợ. Tôi còn biết cha cậu là ai… Ông Trình Huyền đã nói với tôi tất cả... Tôi cũng còn biết cậu đang tìm thuốc quý cứu mẹ… Cậu tốt lắm. Tôi sẽ giúp cậu…

Người tướng cướp đáng sợ đang cười rất hiền lành với Cò Xuân. Ông ta nói một hồi dài làm Cò Xuân chưa biết phản ứng ra sao. Ông Mường Rồ giơ bàn tay hộ pháp, dày dặn và đầy chai của mình ra nắm lấy tay Cò Xuân. Cái bàn tay thư sinh vừa mềm vừa mỏng nằm lọt thỏm trong bàn tay như tay gấu của Mường rồ. Đôi mắt đen láy, hơi nhỏ, sắc như đao trên khuôn mặt người tướng cướp nhìn không chớp vào mắt Cò Xuân. Ông ta nói:

- Chắc cậu đang tìm rắn chứ gì? Đúng! Đó là thứ thuốc tốt. Chẳng cần thứ nấm mọc từ con sâu. Thịt rắn cũng tốt chẳng kém gì nhân sâm. Nhất là loại rắn hổ mang bành. Thịt nó nấu cháo. Mật nó nuốt chửng. Cái đầu có nọc độc đem ngâm rượu uống. Bệnh gì chả khỏi. Cậu đi với tôi. Tôi biết hang của một con hổ mang chúa. Loại này mới tốt. Tuy nhiên, cậu phải thề với tôi là sẽ không hé môi nói hở ra với ai một lời.

Vậy là từ hôm ấy ông Mường Rồ dẫn Cò Xuân đi bắt rắn. Hình như người Mường có những phương thuốc bí truyền trong đó có vị rắn rất hiệu nghiệm trong chữa bệnh. Hình như ông Mường Rồ thích những loài rắn cực độc. Phải chăng những loại ấy mới có hiệu lực mạnh trong trị bệnh? Ông tướng cướp này rất tài tử, rất rề rà. Ông đã dẫn Cò Xuân đến nhiều hang rắn trong rừng, song hình như ông vẫn chưa muốn ra tay bắt. Ông chỉ dẫn cho Cò, muốn bắt rắn thông thường phải đi tìm cứt rắn. Thứ cứt đen sì có chút vàng chút trắng mùi lại khản lên thế này là rắn cặp nia. Loại này cực độc nhưng nhỏ con, dài một mét là cùng. Thường thường không tự nhiên tấn công người. Trông thấy người, nó lui ngay, tuy nhiên bị nó cắn, chết là chắc. Ông lại dẫn Cò ra dòng suối. Mường Rồ bảo có lần đã thấy ở đây một con cặp nong khoanh đen khoanh vàng rất lớn. Con cặp nong bơi theo dòng nước sát bờ; nó vừa bơi vừa lấy đuôi đập lên bờ cỏ. Chú nhái nào thấy động nhảy xuống nước sẽ bị nó bắt ngay. “Đây rồi!”. Ông Mường Rồ chỉ cái hang bên bờ suối. Ông lấy chiếc thuổng nhỏ giắt sau lưng bắt đầu đào. Ông Mường vừa đào vừa quan sát đất. Đào sâu chừng gang tay, ông lấy ra miếng đất, đưa lên mũi ngửi rồi quan sát tỉ mỉ. Cuối cùng ông kết luận “Mất công toi! Nó bỏ đi rồi cậu ạ. Đây cậu xem, miếng đất này khô và đã có mốc trắng. Tức thị nó không còn ở đây Nếu nó vẫn ở trong hang, đất phải ẩm, nhẵn và không có mốc”.

*

Julien Messmer được một viên đại úy đồn trú ở Ban Mê Thuột mời vào vùng cao nguyên Trung Kỳ chơi. Julien lấy làm thích thú. Hắn bảo Cò Xuân:

- Kỳ này tôi đi săn bò tót Cao nguyên Trung phần là chốn lý tưởng cho những nhà săn bắn. Ở đó đủ voi, hổ, bò tót… Rất thú vị! Lần này ông đại úy bạn tôi mời cả một tay săn người Mỹ ở Sài Gòn. Tổ chức một cuộc săn thú lớn rất phức tạp. Rồi tôi cũng phải dần dần dạy cho cậu biết các thú chơi cao cấp này, để vài năm nửa cậu có thể làm tùy tòng cho tôi trong những chuyến đi như thế này.

Trong lúc Juhen đi vắng, Cò Xuân được nghỉ ở nhà chăm sóc mẹ. Ông chủ vào cao nguyên chừng hai mươi ngày. Cò Xuân sốt ruột vô cùng vì đã quá nửa số ngày nghỉ rồi mà vẫn chưa được việc gì. Vẫn chưa tìm ra thứ làm thuốc cần thiết. Trong khi đó ông Mường Rồ vẫn dềnh dang bình chân như vại bảo: “Cậu cứ yên trí. Đâu sẽ có đó”. Đến lúc gần hết ngày nghỉ, ông ta mới kéo Cò Xuân đến một dốc núi, chỉ cho Xuân xem dấu đi nhẵn thín trong những bụi rậm dẫn đến một cửa hang kín đáo.

- Cậu thấy chưa - ông nói - Đây mới là con cần bắt. Chắc chắn con rắn này ở trong hang chưa bỏ đi. Mình đã quan sát rồi. Nó là con hổ chúa, dài chừng hai sải tay. Cậu nhìn đây, cứt của nó vàng và đen. Cứt mới. Giống này không ỉa ngay cửa hang mà ỉa xa một quãng. Nó là giống ở sạch. Tìm mãi mới được con này ưng ý.

Ông cầm bàn tay bị cụt ngón của Cò Xuân bảo:

- Bắt rắn mà cụt ngón tay như cậu là quá xoàng. Bắt những con rắn cực độc, ghê gớm như con này, sơ sẩy một chút sẽ mất mạng như chơi. Tôi đã phải tính toán tỉ mỉ, làm sao bắt nó thật gọn, thật nhẹ nhàng. Vì thế mới phải chậm. Bắt rắn mà nóng vội như cậu nguy hiểm vô cùng.

Thì ra trong những ngày qua, ông Mường phải tính toán, đan một cái rọ tre cật có thể đựng vừa con rắn khổng lồ. Phải tỉ mỉ làm cái hom vừa thật mềm êm, vừa thật cứng cáp, để khi con rắn đã chui vào rọ sẽ không thể phá ra được. Trước khi đơm rọ vào cửa hang chính, ông hun khói để tìm cửa hang phụ, phòng con mãng xà có thể tẩu thoát ở nơi mà họ không đề phòng. Bằng cách bịt hết các ngách và để ngỏ cửa chính, hai chú cháu cũng phải mất nửa ngày mới bắt được con hổ phì chúa nặng tới gần chục cân.

Julien Messmer rất phấn khởi khi ở cao nguyên Trung phần về. Phấn khởi vì ông như một chiến binh từ chiến trường về cùng với những chiến lợi phẩm. Thứ nhất là một chiếc đầu bò tót với đôi sừng nhọn hoắt. Con bò này chính tự tay ông giết, chứng tích là một vết đạn xuyên giữa trán con vật hãy còn ghi dấu rành rành trên xương đầu bò. Ông vui vẻ nói với ông anh Pierre và Cò Xuân:

- Đời tôi, còn một ao ước nữa đó là tấm da một con hổ do chính tay tôi bắn. Tôi đã bàn với ông công sứ. Chúng tôi, sang năm, sẽ tổ chức một cuộc săn lớn. Tỉnh Hòa Bình chẳng thiếu gì hổ…

Julien nói thao thao bất tuyệt về chuyện săn hổ. Giá như Pierre chịu nghe, chắc ông có thể nói hết buổi. Julien còn đem về đồn điền một chiến lợi phẩm thứ hai. Gọi là chiến lợi phẩm cũng được vì nó gắn với một cuộc chinh phục. Đó là cô nàng Jacqueline Nguyệt, một cô gái lai có đủ cái ưu việt của đàn bà An Nam và đàn bà Pháp. Cô ta có đủ cái cuồng nhiệt, đằm thắm, dai dẳng của một con báo non tơ, đồng thời có thừa cái hừng hực phóng túng của một loài chiến mã. Julien đã quá no đủ với những cô vải bản xứ xinh xinh lẳn chắc. Ông ta muốn tìm thấy ở cô gái lai này cả cái nhuần nhị đông phương và cả cái thoáng đãng tây phương.

Từ khi cô gái lai về đồn điền, Pierre dọn xuống ở tại dãy nhà làm việc, dành toàn bộ ngôi nhà chính cho Julien. Lúc ấy đang mùa nóng ấy thế mà ngôi nhà chính lúc nào cũng buông rèm. Ở đó luôn văng ra một điệu nhạc du dương và những tiếng cười. Người ta bảo suốt ngày Julien chỉ mặc độc một chiếc quần đùi. Còn Jacqueline cũng vậy, trên thân thể chỉ có những mảnh vải che nhỏ tí xíu.

Một đêm tối trời. Lúc ấy đã gần nửa đêm. Đồn điền đang im ắng bỗng vang lên tiếng kêu thất thanh. Rồi cửa ngôi nhà chính bật mở. Cô Jacqueline Nguyệt gần như trần trụi chạy ào ra sân, mặt cắt không còn hột máu, miệng lắp bắp:

- Cứu! Cứu chúng tôi với!

Người trong đồn điền xô đến ngôi nhà chính. Đuốc đốt sáng trưng. Cô Jacqueline vú vê thỗn thện, song chẳng chút ngượng ngùng. Cô nói lắp bắp chẳng ra đầu ra cuối:

- Nó phì phì, phì phì... Ối trời! Ghê gớm quá!

- Cái gì phì phì?

- Con hổ phì... Đầu nó rất cao. Sặc sụa mùi rượu... Đúng rồi!... Ai cho nó uống rượu… Ai đó thả vào… Nó to lắm... To bằng cổ chân... Nó vươn cái cổ bạnh... cao đến ngang ngực người ta… Phải rồi... Sặc sụa mùi rượu - Jacqueline đến lúc ấy vẫn còn lắp bắp, vẫn còn nửa mê nửa tỉnh.

Và dần dần, người nghe mới vỡ lẽ. Thì ra có một con rắn hổ mang bành, không rõ từ đâu tới đã đột nhập vào ngôi nhà chính. Mà điều lạ lùng là con rắn đã được ai đó cho uống rượu.

Đám giai nhân thận trọng mở cửa. Họ vừa đi, vừa soi, vừa gọi to: “Ông chủ! ông chủ!". Tuy nhiên, chẳng có tiếng đáp lại. Khi vào phòng ngủ, họ mới tìm thấy Julien nằm sống soài trên nền nhà. Vẫn còn thoang thoảng mùi rượu thật. Họ ra sức tìm khắp mọi xó xỉnh song không thấy bóng dáng con hổ phì ghê gớm như Jacqueline kể.

Pierre cuống quýt cấp cứu người em. Julien vẫn còn sống. Ông ta há mồm ra thở khò khè. Người ta bèn mang ngay lên tỉnh. Nhưng Pierre nhanh trí biết như thế không kịp. Ông hiểu đối với người bị rắn cắn, thời gian chỉ tính bằng giây bằng phút. Ông chợt nghĩ đến ông hộ Hiếu... nhưng ông già này đã chết rồi. Cuối cùng, Pierre mang Julien đến đồn binh Kẻ Đình đóng ở gần. Ông cầu may hú họa vì nhớ rằng ở đấy có một y tá. May mắn thay người thầy thuốc quân đội có sẵn thuốc chống nọc rắn. Người ta tiêm cho Julien một liều sê-rum trước khi đưa về Hà Nội.

Julien thoát chết, song từ đó cái của quý của anh ta bị rũ như con gà rù. Đối với một người quá say mê trò ân ái như Julien, sự mất mát ấy quả thực vô cùng to lớn. Julien đột nhiên thay đổi hẳn tính nết. Anh ta trở nên trầm lặng thậm chí như ngơ ngác. Không biết nguyên nhân có phải vì chuyện ấy không. Người dồn điền bảo anh ta như kẻ si đần.

Trên tỉnh, quan công sứ cử cảnh sát về điều tra. Mọi người trong đồn điền đều bị thẩm vấn. Anh thư ký Cò Xuân cũng bị xét hỏi. Tuy nhiên anh có chứng cứ ngoại phạm. Tối hôm ấy Cò Xuân đánh chắn với ông Lềnh, quản Láu và quản Boong.

Một người phu đồn điền khai rằng, hình như tối hôm ấy, anh có thấy một bống người lên vào khu nhà chính, song anh ta tưởng là một đầy tớ nào đó nên không hô hoán. Người ta lại bảo chắc đồng đảng của ông Trịnh Huyền đã đến báo thù.