áng nay, đại đội chúng tôi cũng ra bìa đồng từ lúc trời chưa tỏ mặt người. Cái công sự của khẩu đội đại liên tôi đào rất công phu. Dưới sự hướng dẫn trực tiếp của anh Bé, tổ chúng tôi đã đào một ngày liền. Không phải chỉ đào một cái mà đào tới hai cái. Cái công sự thứ hai này là do chứng tôi nghĩ ra, đào nó ở ngoài đồng, cách công sự chính ở bìa đồng chừng năm chục mét. Chúng tôi ngụy trang cái công sự này rất kín đáo, giành làm chỗ chồm lên khi địch bỏ chạy. Mấy con "đầm già" rà rê dòm ngó cánh đồng suốt hai ba hôm mà vẫn chưa phát hiện được gì.
Đứng dưới công sự đại liên hình bán nguyệt, tôi hết ngó nhìn đồng lúa đang chín tới, lại khom lưng ngắm súng. Tôi rà nòng súng qua lại, kêu Khởi và Cần dượt cho quen. Hai đứa nó đảo nòng súng vào mục tiêu tưởng tượng trên đồng, bảo tôi là rất tốt, chỉ sợ quân Anh Cả Đỏ không đổ xuống. Tôi vấn thuốc rê hút liên tiếp, điếu nào cũng lớn, vừa hút vừa chờ đợi. Khởi sốt ruột nói:
- Vái trời cho bữa nay Mỹ nó xuống. Coi tụi anh chị bự xưng là Anh Cả Đỏ này ra làm sao. Đêm nào cũng thức khuya dậy sớm đợi nó, buồn ngủ thấy mồ!
Tôi dặn:
- Chừng nổ súng, hai đứa bây để ý tiếp đạn kịp cho tao bắn. Trong trường hợp tao có bị thương hoặc hy sinh thì thằng Khởi vô liền tức thời. Ba đứa mình phải giữ chặt chỗ này, dứt khoát không cho thằng giặc nào lọt vô, nghe không?
Khởi và Cần đều gật đầu. Tôi ngồi dưới công sự, rít nốt những hơi thuốc cuối cùng. Bỗng lại nghe hơi hu hu của con "đầm già". Lát sau, hai con đầm già kiểu L.19 cặp lộ bay lên. Vẫn như mấy hôm trước, chúng bay cặp lộ một quãng, rồi bỗng quẹo ngang, đảo vòng lớn trên đồng. Tôi vụt cái tàn thuốc, đứng dậy. Hai con đầm già bắt đầu siết vòng nhỏ. Thình lình nó tắt máy, chúi xuống rất thấp. Cứ thế nó đảo, chúi năm lượt liền rồi cả hai cùng bay bổng lên, lảng ra.
Tôi nghe tiếng anh Đấu thét:
- Anh em mình chú ý, coi chừng pháo bắn!
Anh Đấu vừa nói dứt lời thì quả nhiên một loạt pháo đã bắn tới. Đạn pháo nổ ở mé vườn. Tre bị phạt nhánh, rớt xào xào. Khói bốc dậy từng cụm, mù mị
Khởi kêu giọng mừng rỡ và hồi nộp:
- Chắc bữa nay tụi nó xuống quá, anh Quyết!
Tôi gật đầu:
- Ừ, kiểu này là nó tới!
Pháo địch bắn xong loạt đầu thì dừng lại mấy phút. Sau đó chúng lại bắn, và lần này thì nổ vô hồi kỳ trận. Không còn phân biệt được từng lọat nữa, chỉ nghe tiếng pháo nổ "pung... pang" và tiếng cây vườn gãy đổ răng rắc khắp đó đây. Lá tre rụng bay như bướm trên đầu chúng tôi. Nghe có vài trái pháo nổ lọt vào xóm, tôi lo lắng nói:
- Không biết cô bác với mấy đứa con nít ở trong ra sao?
- Chắc cũng xuống hầm rồi - Khởi bảo.
- Bà con chưa quen pháo, có lẽ đây là lần đầu.
Tôi vẫn phập phồng lo cho bà con trong xóm. Nhớ tới cái hầm mà hôm qua chúng tôi đào giúp cho thím Sáu chủ nhà, tôi thấy hơi yên tâm một chút. Nhưng tôi lại nghĩ tới trâu, bò. Hầm đâu cho chúng? Nhà nghèo chết con trâu khổ lắm. Đi đánh giặc, tôi có tâm trạng lo đủ mọi bề cho bà con. Thiệt Mỹ nó bắn pháo không kể gì hết. Cứ nghe pháo cũng đủ biết chúng bắn bừa bãi, để chốc nữa chúng có thề yên tâm mà đến. Nhưng kể cũng lạ, pháo bầy bắn dữ dội như vậy mà khi ngớt đợt, chúng tôi vẫn còn nguyên, anh Đấu, anh Sáu Dũng vẫn đi khắp các hầm vui vẻ báo tin là cả đơn vị tôi không có ai sứt mẻ gì cả. Nhưng anh Đấu cho biết trong xóm có một mẹ già với đứa cháu chết vì không kịp xuống hầm ở loạt pháo đầu tiên, và trâu bò lớp chết lớp bị thương chừng một chục con.
- Thấy chưa, có chết trâu bò rồi! - Tôi thốt kêu.
Nghe trâu bò chết tôi xót ruột lắm. Con trâu con bò chết đối với tôi là sự thiệt thòi nằm kế sau mạng người. Lâu rồi, con trâu con bò với tôi là bầu bạn, là nghĩa ơn. Những con vật đó có lúc đã cho tôi đi mà chân không lấm đất, đã để tôi ngủ trên lưng, và đôi mắt chúng lắm khi đã nhìn tôi ướt rượt, buồn bã, như là chúng cũng hiểu được nỗi bơ vơ, khổ cực của tôi
Trận pháo vừa rồi còn tàn phá đồng lúa, phạt lúa đổ gục từng lõm lớn. Mảnh đạn pháo cào cấu đồng lúa một cách không thương tiếc.
Hai con đàm già lảng đi lúc nãy, giờ lại lượn tới, bên trên sự phá phách do chính nó chỉ chọc. Rồi chúng bay rà sát vào mí vườn. Tôi chợt nghe từ xa vọng tới tiếng gầm gừ của những chiếc phản lực. Con đầm già đang làm nhiệm vụ mới. Chúng rà thấp trên đầu chúng tôi thấp đến nỗi tôi chỉ sợ nó nhận ra nòng đại liên của chúng tôi. Cũng như lần trước, cả hai chiếc L.19 bỗng lảng ra, vọt lên cao. Nhưng lần này chúng chưa đi. Cả hai cùng cắm xuống. Hai trái hỏa tiễn xẹt thành hai đường khói song song. Một trái nổ cách công sự chúng tôi chừng vài thước.
Những chiếc phản lực F.105 tự nãy giờ không biết vần vũ chờ đợi ở đâu, nay rú lên, ầm ầm lao tới. Chúng trút bom xuống dọc mí vườn. Trận đánh bom kéo dài cỡ mươi lăm phút thì chấm đứt. Những chiến F.105 lao vút đi, chừa lại hai chiếc L.19 cứ tì tì quần lượn, soi mói. Thế là không lâu sau, tôi bắt đầu nghe tiếng động cơ của trực thăng.
Tiếng anh Đấu la lớn:
- Có trực thăng, địch sắp đổ quân, anh em chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu!
Tôi muốn lên tiếng đáp là chúng tôi đã sẵn sàng. Nhưng để tranh thủ, tôi cùng anh em lo ngụy trang lại công sự, che những nhánh lá bị hơi bom đánh rạt, và riêng tôi cố vấn thêm một điếu thuốc. Thiệt ra chúng tôi cũng chẳng còn có gì chuẩn bị nhiều, vì chúng tôi sẵn sàng từ ba hôm nay. Không còn lướng vướng gì nữa, bộ ba chúng tôi bây giờ chỉ còn đợi lệnh nổ súng, khẩu súng chính bọn Mỹ mà đại đội tôi vừa cướp được không đầy một tuần lễ. Sớm hôm nay, lần đầu tiên chúng tôi sẽ bắn khẩu súng đó. Thiệt quan trọng biết chừng nào. Chúng tôi phải đánh sao cho anh em trong đại đôi tin cậy cho anh em thấy rằng giao cây đại liên cho chúng tôi là không lầm. Cả Khỏi và Cần chắc cũng nghĩ như tôi, tuy hai đứa nó không nói ra. Riêng tôi, tôi lại càng thấy trách nhiệm mình nặng hơn. Tôi hồi hộp nhưng không bối rối. Mỗi phút sát kề cuộc giáp mặt với quân Mỹ, tôi chỉ lo cuộc giáp mặt bị vuột khỏi, lo quân Mỹ không đổ xuống. Ban nãy tôi sợ chết hoặc bị thương hết sức. Chính ban nãy, tôi giữ mình hơn bất cứ lúc nào. Nép sát vào công sự rồi mà tôi vẫn ngại một mảnh pháo mảnh bom nào đó ghim trúng. Bởi chỉ cần một miếng nhỏ ghim phải cánh tay cũng đủ hỏng hết cái buổi hôm nay.
Lúc tiếng tm ì tới gần thì anh Sáu Dũng đến. Đầu anh chít khăn rằn, lưng đeo súng ngắn "Côn 12 ly". Từ trên anh nhảy phóc xuống công sự:
- Bữa nay anh sẽ ở đây với mấy em!
Anh bảo tôi đứng xê ra, rồi anh gò lưng nheo mắt rà đảo nòng súng mấy lượt:
- Được, cỡ này tầm đạn sẽ vô ngực và bụng. Nhưng nếu tụi nó bò hoặc chạy lom khom thì phải linh hoạt hạ nòng xuống.
Anh Sáu Dũng vừa nánh ra nhường chỗ cho tôi thì Cần vụt kêu lên:
- Mấy anh ơi, trực thăng nó tới, đông lắm!
Tôi ngước nhìn. Trực thăng địch đã đến thiệt. Từ ngoài lộ, chúng bay xề vào. Mỗi một chiếc bây giờ đã hiện lớn bằng trái mướp. Rồi lớn ra mãi. Tôi nhẩm đếm. Tốp thứ nhất có mười sáu chiếc, loại HU.1B mà chúng tôi thường gọi là cán gáo, chưa kể hai chiếc chỉ huy bay lừng lững ở trên cao và hai con đầm già vẫn lảng vảng lúc gần lúc xa. Anh Sáu Dũng khẽ nói:
- Thế nào cũng đổ quân!
Tôi lập tức lên cò súng đánh "rốp" một cái, run run đưa tay rờ rẫm cò, nhìn bầy trục thăng cán gáo nhủi đầu sà xuống thấp, tôi thấy nó cũng rất giống con nòng nọc. Đã có thể ngó thấy nhũng cái chong chóng trên lưng chúng quay tít, phát thành tiếng ù ù, lạch bạch. Lúa trên đồng bắt đầu xô đùa vào nhau, lả liệt trước cơn gió xoáy dữ dội do những cái chong chóng to lớn làm bằng gỗ ép kia gây nên.
Trực thăng địch không đổ hẳn. Từng chiếc như vờn đậu ở trên ngọn lúa. Lính Mỹ tay lăm lăm cầm súng nhảy túa ra. Lần đầu tiên chúng tôi ngó thấy quân Mỹ. Tuy bọn Mỹ còn đang ở giữa đồng, nhưng chúng tôi thấy quân phục chúng mới xanh. Anh Sáu Dũng mím chặt môi, sau đó gật gù bảo:
- Đúng tụi ở dưới tàu bốc lên. Lính số Một Đỏ còn mới tinh, thấy không?
Địch chuyển vận quân tới rất nhanh. Cứ năm phút là lại có một bày mười sáu chiếc trực thăng đổ quân Mỹ xuống đồng Long-tiên. Tính từ biển lên tới đây đi bộ thì lâu, chở trực thăng thì cần độ nửa tiếng. tất cả năm chuyến như vậy. Mỗi chuyến mười sáu chiếc.
Anh Sáu Dũng nói tỉnh rụi:
- Xuống hai tiểu đoàn rồi. Coi như mình một nó hai nghe!
Tất cả bốn anh em chúng tôi đều đứng thẳng lên trong công sự, nhìn ra đồng. Quân Mỹ lố nhố ở ngoài đó. Màu quân phục xanh sẫm của chúng xen lẫn trong màu lúa chín vàng rực. Chúng đang tập họp hàng ngũ sau đợt đổ xuống. Giữa lúc ấy, bỗng tôi nghe nhiều tiếng "cụp cụp" gằn mạnh. Anh Sáu Dũng nói:
- Nó thụt cối!
Và chúng tôi có thể trông thấy rõ những trái đạn cối loại 61 ly bay vòng cầu mang theo những vệt khói xám ở sau đuôi. Thứ này đi chậm, nên trước lúc nó nổ, chúng tôi đều nhận ra hướng nó đến. Nhiều trái nổ gần chỗ chúng tôi như bưng đất lên. Sợ miểng cối văng trúng khẩu đại liên, tôi định xách khẩu đại liên xuống công sự nhưng anh Sáu Dũng thét to:
- Đừng, tụi nó đương tiến vô!
Tôi vội vàng để nguyên súng ở chỗ cũ. Thì ra quân Mỹ đã bắt đầu giăng hàng ngang tiến vô dưới làn đạn cối xẹt khói đầy trời. Bọn Mỹ đi chậm chạp, dò dẫm. Phần lớn chúng đều khuất mình dưới lúa, chỉ thấy những cái nón sắt có bọc vải đang di động. Những cái nón sắt đó ngày một gần lần. Thế rồi tôi ngó thấy những cái cổ đỏ gay, những bộ mặt đỏ và nâu bóng bị vành nón sắt che sụp gần phân nửa. Tôi chú ý thấy trên cánh tay phải của tên Mỹ nào cũng có một bệt đỏ bằng bàn tay mà tôi chưa biết là cái gì. Giờ thì chúng đã vào gần lắm. Những thằng Mỹ đi lom khom, mũi súng chĩa tới trước. Ngón tay tôi đặt nơi cò súng ướt rịn mồ hôi.
Anh Sáu Dũng nói khẽ chỉ vừa đủ cho tôi nghe:
- Chưa đâu, đợi nó vô thiệt gần đã. Chú ý nghe súng lệnh. Em lấy độ ngắm lại lần nữa đi!
Tôi nhắm nghiền mắt trái. Giăng giăng trên đầu ruồi súng chừng hai đốt ngón tay, là những bộ mặt Mỹ xa lạ, chăm chú. Thiệt là căng thẳng mà cũng thiệt là sướng mê đi cái giờ phút của cuộc giáp mặt, trước khi nòng súng phụt lửa. Thiệt là quân Mỹ rõ ràng đây rồi chớ không phải còn mơ hồ mường tượng gì hết. Quân Mỹ xương thịt mỹ mới nguyên từ biển vừa bốc lên. Kìa là những bộ mặt gieo tai ương. Tôi thấy rõ từng thằng. Có thằng râu ria xồm xoàm, có thằng mắt xanh lè, có thằng coi rất trẻ thơ, hồng hào. Tôi cũng bắt gặp trên đầu súng những làn da mặt đen nâu, bóng láng. Đó là những lính Mỹ đen mà tôi nghe mấy anh nói rằng đời họ khó cực đen đủi như màu da của họ. Ở bên Mỹ, nghe đâu họ bị rượt bắn y như con thú. Nhưng bây giờ tại sao họ đi đây, đi cạnh những tên Mỹ trắng, cầm súng bắn chúng tôi lâu nay cơ cực như họ. Anh Đấu, Anh Sáu Dũng bảo là vì họ bị lừa gạt.
Còn chừng một trăm thước tới mí vườn, quân Mỹ vụt chạy ùa vào. Tôi chợt nghe có tiếng gì hét như tiếng kêu của những con trích. Thì ra đó là tiếng kèn. Quân Mỹ đã thổi kèn. Tôi không biết chúng thổi bản gì, chỉ nghe tiếng kèn giục thúc, lảnh lói vang trên mặt ruộng.
Anh Dũng thì thào:
- Kệ cha nó, cho nó thổi, mấy đứa cứ tỉnh!
Một loạt đại liên bỗng nổ như xay lúa. Anh Dũng gặt mạnh tay hô:
- Bắn!
Tôi nhắm nghiền mắt trái, miết cò. Nòng khẩu đại liên rung lên. Những cây thịt cao lớn đang chạy bỗng chúi nhào trên các bụi lúa vừa bị miểng pháo cào bấy. Một vài tên Mỹ bị trúng đạn té quỵ chầm chậm. Hệt như là chúng đang ở bộ quỳ lạy. Các cỡ súng từ các công sự chạy dài hình vòng cung dọc ven vườn nổ như bắp rang. Đám quân Mỹ đầu tiên chạy vào mí vườn tức khắc bị chặn đứng. Nhiều tên hoảng hốt nhớn nhác chạy tháo lui. Tôi bắn qua hai loạt, nhìn lại thấy bọn Mỹ trước mặt tôi thưa hẳn đi. Có những tên nằm rạp xuống, cũng có tên chạy cà cồng trên ruộng lúa. Tôi không miết cò bắn hàng loạt nữa mà bắn từng phát một, nhằm hạ những tên đang chạy phơi lưng đó. Anh Dũng xây lại ngó tôi có vẻ rất ngạc nhiên. Mỗi lần thấy tôi lẫy "đùng" một cái, làm nhảy dựng một tên Mỹ ngoài ruộng thì anh kêu "ô" lên, tuồng như rất lạ lùng thấy tôi bắn như vậy.
Sau khi bị đánh dội lại, quân Mỹ lại ùa vào ngay. Tiếng kèn lại lanh lảnh trỗi dậy. Chúng vẫn giăng hàng ngang vừa bắn vừa tiến. Đội hình vẫn y nguyên. Thằng sống đi ngay trên lối thằng vừa chết. Chỉ có khác là lần này chúng bắn như đổ đạn. Kèn đồng ré lên, thúc chúng xông tới. Tôi ghét cay ghét đắng tiếng kèn ấy. Đã đi ăn cưóp mà còn thổi kèn. Tôi muốn bắn chết thằng thổi kèn. Nhưng tôi không thấy tên Mỹ thổi kèn ở đâu cả. Giờ tôi không bắn lẫy từng phát một nữa. ước đợt xung phong mới của địch, tôi miết cò không thả ra lần nào. Thằng Cần đứng nâng đạn cho tôi bắn, phải liền tay lôi mãi giây đạn trong thùng ra. Tôi xoay người như một cái chong chóng theo vòng lia của khẩu đại liện. Tôi bắn mà cứ sợ đạn ra không kịp, nổ chồng lên nhau. Giữa lúc đại liên nổ như gió, đột nhiên tôi thả cò. Cây đại liên chồm mình lên một cái rồi nín bặt. Khởi la ầm lên:
- Trời ơi, coi tụi nó chạy kìa!
Tôi cũng không nhịn được cười. Bọn Mỹ còn lại đang chạy trối chết, vấp chân vào những bụi lúa ngã chổng chân lên. Tôi lại bợ khẩu đại liên đưa bắn từng phát. Một lần nữa anh Dũng lại nhìn tôi, dường như anh chưa hẳn tin là tôi bắn được như vậy (Hoặc là tôi không có vẻ gì là một xạ thủ đại liên cả). Một xạ thủ đại liên ắt phải như thế nào kìa, chớ tôi thì chân cẳng cao kều, đầu tóc xửng lên như bông gáo.
Đợt xung phong thứ hai của quân Anh Cả Đỏ đã bị chúng tôi đánh bật trở lại. Sướng quá, tôi buông súng thụi đụi đụi vào lưng Khỏi và Cần. Rồi tôi ôm chầm lấy anh Dũng, hỏi anh:
- Sao anh, em bắn vậy được không anh?
- Em bắn hay lắm. Cả Khởi và Cần tiếp đạn cũng tốt. Mấy em làm ăn coi được. Cứ phối hợp cho chặt như vậy là vững. Lần sau nếu tụi nó lại tổ chức xung phong thì để Khởi, để Cần bắn cho quen. Em nào cũng phải bắn tốt mới được.
- Vậy thì Khởi bắn, rồi tới Cần. Cây súng nầy bắn ngon lắm, tụi nó có cà xốc cà táp chớ không dễ gì nhảy tới kịp đâu!
Khởi gật đầu, đứng thay vào chỗ tôi.
Quân Mỹ giờ đã dồn ra giữa đồng. Chỗ ruộng lúa gần mí vườn chỉ còn lại những tên Mỹ chết nằm sấp, nằm còng queo, hoặc nằm ngửa, mũ sắt sụp che kín cả mặt. Tuồng như chúng chết rồi mà còn sợ ánh nắn mặt trời dọi vô mặt chúng vậy. Khởi đứng ghìm súng đợi, nhưng vẫn chưa thấy quân Mỹ mở đợt xung phong mới. Trời đã gần đứng bóng. Bỗng có lệnh của Ban Chỉ huy cho một số anh em ra tranh thủ cướp vũ khí địch. Tôi và Cần nhảy lên, chạy ra đồng. Từ ven vườn, anh em cũng ùa ra rất đông. Mọi người lấy được rất nhiều súng, đạn và các đồ dùng khác như nón sắt, bi-đông. Tôi và Cần lấy bốn cái nón sắt, năm thùng đạn. Lúc sắp chạy về, bỗng tôi ngó thấy một vật gì lấp loáng ngời sáng dưới bụi lúa, nhảy tới coi. Thì ra là cây kèn. Thế là tôi vớ luôn cây kèn, đeo lên vai. Về tới công sự, chúng tôi hể hả chuyền xuống năm thùng đạn còn mới nguyên, rồi đưa cho anh Dũng và Khởi mỗi người một cái nón sắt.
Tôi lôi cây kèn bên vai ra, đứng dạng chân, phùng má thổi toe toe khiến mọi người cười ngất. Tôi đưa cây kèn cho anh Dũng:
- Cây kèn coi tốt quá anh. Mà coi như không phải bằng đồng, đồng gì trắng tinh vậy?
Anh Dũng cầm cây kèn coi. Đó là một cây kèn trận mới tinh, sáng loáng, có rất nhiều ống hơi, thổi nhẹ mà kêu to. Kèn không phải làm bằng đồng mà làm bằng một thứ kim loại gì trắng. Trên thân kèn có đính một lá cờ đuôi nheo mầu đỏ, ở giữa thêu con số 1 bằng chỉ kim tuyến lóng lánh. Anh Dũng chú ý xem xét thấy chỗ gần miệng kèn có khắc một dòng chữ và những con số. Anh nói:
- Thằng lính kèn nầy tên là thằng Pao. Chắc nó chết rồi!
Tôi bảo tôi không thấy có thằng Mỹ nào chết cạnh cây kèn đó hết.
- Ờ, cũng có thể nó vụt kèn bỏ chạy... Nhưng em tính lấy cây kèn nầy về làm gì?
- Để buồn buồn thối bậy chơi, anh!
Anh Dũng cười:
- Kèn này nên dùng để thổi thiệt chứ thổi bạy là sao? Lâu nay trên D kiếm một cây kèn mà kiếm chưa được đó!
- Kiếm chi vậy?
- Kiếm để thổi cho anh em mình xáp trận chớ chi. Bộ Mỹ nó mới có quyền thổi kèn hả? Không, mình cũng cần có tiếng kèn lắm!
Tôi chẳng những đồng ý giao kèn mà còn nhảy cỡn lên:
- Trời đất, mình cũng thổi kèn thiệt sao anh? Mà mình thổi bài kèn gì, ai thổi?
- Đừng lo, mình không thiếu chi bài bản. Còn ai thồi hả, cũng không có thiếu nhơn tài đâu thổi còn hay ác hơn tụi Mỹ nữa kìa. Để rồi mấy em coi kèn của mình thổi lên là lính chỉ tràn tới chớ không có chạy như tụi nó đâu?
Khoảng một giờ trưa, địch lại liệng bom. Hết bom lại tới pháo bầy. Anh Sáu Dũng bị miểng pháo xớt một miểng da đầu. Anh nhờ tôi lấy khăn buộc chặt lại. Đợt bom pháo vừa dứt, quân Mỹ kéo vào. Không có gì thay đổi trong cách tiến quân của chúng. Vẫn y như những lần trước, chúng giăng giăng chạy tới chỗ đồng bọn chúng vừa bỏ mạng. Tôi ngạc nhiên nói:
- Tụi này bộ khùng anh Sáu. Tốp trước chết, tốp sau cũng sấn ngay vô chỗ chết y như vậy?
- Thứ Mỹ nầy còn chân ướt chân ráo, chưa có kinh nghiệm. Tụi nó cậy thế có phi pháo, tính đánh qua một đợt bom pháo là mình chết hết rồi. Nhưng ma mới rồi cũng có ngày thành ma cũ. Trận sau không thể coi thường nó!
Chưa nói gì tới trận sau như anh Dũng vừa bảo, ngay lúc Khởi sẳp sửa nổ súng thì bọn Mỹ đang chạy chợt bò sát xuống cả. Chúng lách mình giữa nhũng bụi lúa, bò trườn tới một cách thận trọng. Loạt đạn đại liên do Khởi bắn đều bay quá đầu chúng. Anh Dũng thét:
- Hạ thấp xuống!
Loạt thứ hai, Khởi diệt được vài tên, nhưng chúng vẫn tiếp tục bò tới. Khởi đã hạ nòng súng thấp hết mức, nhưng tầm đạn cứ hãy còn cao. Tình thế rất nguy. Nếu để chậm, chỉ một chốc nữa đám quân Mỹ đang bò kia sẽ chồm dậy ùa tới bên công sự. Tôi ngó chăm chắm yào bộ chân súng, thấy tất cả trở ngại là ở chỗ đó, nên bảo Khởi giao súng lại cho tôi. Ôm xốc khẩu đại liên, tôi bắn rà sát mặt ruộng. Lần nầy tầm đạn quét sát sạt. Không một tên Mỹ nào có thể ngóc đầu lên trườn bò tới được nữa. Đạn ghim chúng nằm dí tại chỗ. Hình như chúng cố chờ cho ngớt đạn là lại bò lên. Nhưng tôi cố bắn không đế hở, cài đạn sát mặt đất hoài làm cho chúng hết phương cục cựa. Liên tiếp có nhiều tên trúng đạn ngoẻo vật đầu qua một bên, và có rất nhiều cái nón sắt bị bắn thủng ngó thấy. Không đầy một phút sau, bọn Mỹ nhổm dậy bỏ chạy. Tôi định hô Khởi và Cần cùng tôi ra công sự hai, tức là cái công sự ở quá ngoài đồng, để đặt đại liên ở đó mà bắn sát đít tụi bỏ chạy. Nhưng anh Dũng ngăn lại:
- Cứ ở đây không nên ra đó, tách khẩu đội ra đó một mình rất nguy hiểm.
Tôi ngồi bệt dưới công sự, cởi cái áo ướt mồ hôi. Anh Dũng cười nói:
- Mấy đứa thấy chưa, riết rồí tụi nó cũng phải khôn hơn. Phải nói tụi nó trườn bò rất đúng bài bản.
Tôi vừa thở vừa vuốt mồ hôi ròng ròng trên mặt:
- Hồi nãy lơ mơ là nó hốt mình đó chớ bộ giỡn. Cái kiểu này lần sau hễ vừa tầm là bắn. Không bắn khi tụi nó còn xa, mà cũng không nên để gần quá.
- Uớc định được quãng cách cần thiết để nổ súng là một điều hết sức quan trọng - Anh Dũng nói.
- Đúng quá!
- Cái đó phải qua nhiều trận mới có được!
Tôi nói:
- Tổ cha thằng Mỹ, nó giàu quá anh Sáu, bắn pháo liệng bom tưới xượi!
- Thì anh đã nói, nó là thằng du côn nhà giàu mà!
- Du côn gì tụi em cũng không ngán, xin miễn dứt bom pháo mà tụi em còn nguyên là được. Tụi nầy chỉ cậy bom pháo, chớ bị đánh nước nạp thì chạy tét. Bữa nay em bắn thiệt đã tay!
Tôi nói với anh Sáu một cách hể hả, giữa lúc Khởi còn nổ từng loạt ngắn bắn theo tụi Mỹ bỏ chạy. Khởi bắn một hồi lại nhường cho Cần. Từ đó, Khởi và Cần luân phiên nhau đánh lui thêm hai đợt xung phong mới của địch. Khoảng ba giờ chiều, địch bắt đầu rút. Chúng hoàn toàn không ập vào được ven vườn. Những bầy trực thăng từ miệt biển Long-hải giờ lại ầm ĩ bay lên bốc chở lính Mỹ. Cứ năm phút một chuyến, y như ban sáng. Khẩu đội đại liên chúng tôi vẫn bám tại công sự cho tới chiều. Lúc có lệnh rời công sự, tôi bỗng nghe từ trong bờ tre, có tiếng anh Đấu gọi:
- Quyết ơi, Quyết, có người quen tới kiếm đây nè!
Tôi tự hỏi: "Ai kiếm mình vậy kìa?". Một lát anh Đấu đi ra tới, đứng ngay trên bờ công sự. Sau lưng anh Đấu còn có ai đó. Nhưng anh cố ý đứng khuất không cho tôi ngó thấy. Anh cười bảo tôi:
- Đố em đoán thử coi ai?
Dứt lời, anh đứng nhích sang bên. Người anh Đấu bảo là có quen tôi ấy là một cô gái. Một cô gái tuổi chừng mười bảy, dáng dong dỏng, đang tươi cười mở to mắt mà nhìn tôi mãi cho tới khi tôi kịp nhận ra và kêu lên một tiếng lớn:
- Biếc!