gay sáng hôm sau, tôi và Cần vác bồng lên tới đại đội thì Khởi cũng vừa đến. Anh Đấu dắt ba đứa chúng tôi ra gian nhà sau, nơi hôm qua tôi đã coi mặt cây đại liên. Bây giờ cây đại liên cũng hãy còn yên vị trên bộ ván đó. Anh Đấu nói:
- Bác Ba chủ nhà đi vắng. Mấy anh ở gian trước, còn tổ ba em ở đây. Lát nữa sẽ có anh Bé ở C.2 tới dạy mấy em sử dụng cây súng. Mấy em cần hết sức cố gắng học cho mau rành. Mọi việc trong khẩu đội giao em Quyết lo liệu, có gì cần thì gặp anh hoặc anh Sáu Dũng.
Tôi hỏi:
- Học liền sáng nay hả anh?
- Ừ, lát nữa anh Bé tới là vô học liền. Phải tranh thủ gấp rút, không thể chậm trễ được. Các em cần nhớ lời anh nói đêm qua là hiện nay Mỹ nó đã ào vô rồi!
Anh Đấu đi ra, tôi đưa mắt dòm gian nhà sau mà anh Đấu vừa phân cho chúng tôi ở. Gian nhà khá rộng, nhưng mấy cây cột đều dang cách hơi xa, khó bề mắc võng. Thấy bộ ván đặt khẩu đại liên cũng rộng, tôi nói với Cần và Khởi:
- Tối cả ba đứa mình cứ thượng ráo lên bộ ván này nằm cho khỏe lưng.
Khởi gật đầu tán thành ngay:
- Ừ, ngủ chung ôm nhau ấm hơn. Mấy bữa nay có gió bấc rồi.
Khởi nhỏ tuổi hơn tôi và bằng tuổi Cần, nhưng lực lưỡng hơn. Thoạt nhìn, tôi biết ngay nó là dân ruộng. Người Khởi vạm vỡ, đen xạm, bắp chân bắp tay to chắc. Nó đi bước nào, nghe lịch phịch bước đó. Mặt Khởi coi chất phác, lúc nào cũng như muốn cười bởi một chuyện gì đó rất đáng tức cười, và điều đặc biệt tôi thấy khoan khoái dễ chịu là Khởi luôn sốt sắng, làm việc gì cũng xăng xái, xốc vác. Khởi biết Cần, nên chưa chi đã giỡn với Cần. Nó bảo tôi:
- Anh Quyết à, anh có thấy tướng thằng Cần giống con gái không? Tôi nghi quá, nghe nói ở xã nào đó, tụi con gái giả trai tòng quân bộn. Bữa nào, tôi với anh Quyết phải kiểm tra thằng Cần này mới được!
Tôi cười nói:
- Ừ, bữa nào kiểm tra thử, tao cũng nghi...
Cần đỏ mặt:
- Thấy tui hiền, mấy anh phá tui hoài!
Khởi cười hắc hắc. Thế rồi nó đứng chống nạnh dòm ra ruộng lúa phía sau nhà, bắt sang chuyện khác:
- Anh Quyết à, trưa chiều cỏ rảnh mình đi kiếm cá ăn chớ anh. Hổm rày đìa rọt 1 dữ rồi, cá bị mắc cạn ngoài đồng thiếu gì. Anh tin đi, mình cứ thả rễu ra mấy vũng cạn là có ăn.
- Ừ, để coi học hành ra sao đã, hễ có rảnh thì mình đi!
Nghe Khởi bàn vụ đi bắt cá cạn, tôi cũng thấy hào hứng. Tôi bồi hồi nhớ lúc còn ở Phước-lai, khi quê nhà bắt đầu hiu hiu cọng bấc, chim sắt, chim áo già bay sập sận ngoài đồng lúa chín, thì lúc đó mùa tát đìa cũng đã tới. Ấy là vào tháng nắng, mặt trời dội lửa làm khô kiệt những giọt nước mưa cuối cùng còn tích lại. Cá trên đồng bị buộc phải lọt xuống đìa. Nhưng không bao giờ cá về đìa hết. Cá vẫn còn náu lại ở nhiều vũng cạn. Chính nhờ những vũng cạn xâm xấp nước đó mà nhà nào nghèo không có đìa như nhà tôi vẫn có thể kiếm được cá ăn. Mà không phải là cá đồ bỏ đâu, cá lóc, cá dày, con lớn bằng bắp tay bắp chân. Phải rồi, cũng nhằm tháng này đây, lúc bông lúa trên đồng trở nên chắc hột, lúc hơi bấc lao rao, lúc én bầy liệng mình vun vút qua đồng, là lúc ba má tôi hồ hởi ra mặt. Là vì mùa đó, gia đình tôi có thể bắt cá cạn, đi bắt hôi đìa, rồi chẳng mấy chốc là đã đến ngày gặt hái, ba má tôi có thể kiếm ra gạo nhờ đi gặt mướn, còn như chị em tôi thì đi mót.
Nghe Khởi rủ đi bắt cá cạn, tôi nhớ Phước-lai đến xót ruột. Tôi đoán ở quê thằng Khởi cũng có di bắt cá cạn, và nó đi bắt kiểu đó thì nhà nó cũng nghèo. Tôi hỏi:
- Nhà mày ở xã nào Khởi?
- Nhà tôi ở Long-phước.
- Làm ruộng hả?
Khởi gật đầu. Nó nói ba nó đi Vệ quốc đoàn tử trận hồi kháng chiến lần trước. Nhà nó có ba bốn công ruộng do cách mạng cấp, má nó với ông nội nó làm. Ông nội nó đã gần bảy mươi, nhưng còn khỏe, vẫn còn đi cày.
Tôi ngó thằng Khởi, nghĩ bụng nhà nó cũng giông giống như nhà cô Tám tôi, ba nó cũng chết như ba thằng Cồ, nhưng ở miệt nó đất tạm cấp không bị chủ đất giựt lại.
Tôi để ý thấy từ hồi trốn khỏi nhà Bảy Vàng, vô trạm chị Tám Mây, rồi vô tiểu đoàn tới nay, tôi chưa gặp anh nào nói nhà mình giàu có lúa thiên lúa lẫm. Chắc cũng có vài anh, mà tại ít quá nên tôi không gặp, chỉ gặp toàn những anh quanh năm mặc quần xà lỏn phơi cặp chân mốc thếch như tôi. Đông đảo những đứa cùng trang lứa tôi đều từ miệt ruộng tới tiểu đoàn đi đánh giặc. Chúng tôi không ai nói ra miệng, nhưng chắc ai cũng thấy hễ đánh thắng được Mỹ ngụy thì tuy không phải tức khắc chúng tôi được giàu có khá giả, nhưng bề nào cũng lấy được một số đất để làm ruộng. Chừng đó tôi cũng sẽ làm ruộng, như ba má tôi đã làm. Nhưng khác với tình cảnh ba má tôi, chuyến này tôi sẽ cày, bừa, gieo, sạ trên miếng ruộng mình giành giựt lại. Thế rồi tự dưng tôi bắt nghĩ tới con Biếc, tự dưng tôi mơ màng cảm thấy nếu sau này tôi có làm ruộng thì hình như không thể không có con Biếc. Cái điều mà tôi mơ màng cảm thấy đó khiến tôi đâm xấu hổ ngường ngượng nhưng đồng thời cũng làm cho tôi lâng lâng sung sướng hoài.
Cho đến lúc có tiếng chân người thình thịch, rồi anh Bé bước vô.
Người xạ thủ đại liên mà tiểu đoàn phái đến dạy cho chúng tôi tuổi trạc hăm sáu. Coi anh có vẻ cởi mở, thoải mái. Mới bước vô, anh Bé tháo bớt khuy áo ngực leo lên ngồi xếp bằng trên bộ ván, hỏi:
- Mấy chư 2 mình có mặt hết rồi hả?
Hỏi vậy rồi anh thò tay vô túi quần móc ra một gói trà "Con beo" uống dở, đặt lên ván:
- Trước khi học hành phải uống trà cho tỉnh, đứa nào đi nấu nước đi?
Tôi phân công cho Cần nhóm bếp, còn tôi đi mượn bình và kêu Khởi đi ra tiệm mua một gói thuốc. Lát sau, nước vừa sôi thì Khởi về tới rón rén đặt lên ván một gói Ru-by:
Tôi phân công cho Cần nhóm bếp, còn tôi đi mượn bình và kêu Khởi đi ra tiệm mua một gói thuốc. Lát sau, nước vừa sôi thì Khởi về tới rón rén đặt lên ván một gói Ru-by:
- Anh Bé, hút thuốc anh!
- Cha, ngon ta. Mới vô học mà cúng tổ một gói Ru-by là thấy ngon rồi đó!
Chỉ có anh Bé và tôi hút, Cần pha trà, rót trà ra những cái chun bằng nhựa trắng, là những cái phễu gắn ở đầu đạn M.79. Mới nhấc chun trà lên chưa kịp uống, chợt anh Bé lắng tai nghe tiếng gì, rồi đặt cái chun xuống:
- Mấy đứa có nghe cu đương gáy ngoài đồng không? Cha cha, tháng này nghe tiếng cu gù thiệt tao nhớ nhà hết can. Ở chỗ tao, bây giờ là mùa chụp chim. Chim cu xanh con nào con nấy ú nụ. Rô-ti lên ăn hoặc xào với nấm dẽ thì phải biết!
Tôi hỏi:
- Anh Bé ở đâu?
- Tao ở kế Quán-chim, trên đường đi Ô-cấp.
Anh Bé đáp, nhấc chum trà lên tợp cái rột, rồi lại lắng tai nghe tiếng cu gù vòng vọng ngoài ruộng.
Trà lá xong, anh Bé bảo:
- Bữa nay tao sẽ chỉ cho mấy đứa bây cách tháo ráp, cách ngắm bắn, sau đó chỉ luôn cách ứng dụng khi lâm trận và một số cách phải giải quyết khi cây súng sanh tật, trục trặc. Ngày mai, ngày kia tụi bây thực tập liền. Vậy thôi, không kéo dài. Trên tiểu đoàn ra hạn như vậy, mà tụi Mỹ cũng không cho phép mình cà kê lâu. Không có súng thì đành, chớ súng đã vô tay thì phải làm gấp. Kể ra tụi bây còn có đôi ba bữa để học, chớ như tao hồi đó, chốp được cây đại liên buổi sáng, buổi chiều vác bắn luô
Anh Bé dừng lại, rót trà uống, rồi tiếp:
- Bây giờ trước khi chỉ cách tháo ráp, để tao nói sơ vai trò ý nghĩa của cây đại liên cho tụi bây nghe. Không phải tao bắn nó rồi tao khen nó hay, chớ ra trận cây đại liên hết sức lợi hại. Đó là thứ hỏa lực mạnh nhất bắn ra tuy bằng đạn súng trường, nhưng tập trung ào ạt và lẹ hơn súng trường không biết bao nhiêu mà kể. Trong một phút nó có thể bắn hàng ngàn viên. Nói tóm cho mau, cây đại liên là cây súng bắn giết hàng loạt, phá rã từng mảng giặc, khi cần nó có thể cắt đội hình giặc ra từng miếng một. Nên chi nó yểm trợ cho anh em rất ngon, lúc xung phong cũng như phản xung phong.
Nhưng cũng bởi nó lợi hại thành ra địch rất để ý, lúc nào cũng muốn dập tắt nó. Mình cũng vậy, bao giờ nổ súng là mình cũng cố tình kiếm cách bịt họng đại liên địch. Nên chi bắn đại liên phải có gan, phải lẹ làng, biết dời điểm kịp thời. Cái vụ này tới phần sau tao nói rõ thêm. Chớ cái cần nói trước hết với tụi bây là: cây đại liên là một võ khí hiệp đồng loại nhỏ. Đành rằng lúc bắn thì chỉ có một đứa bắn, nhưng khi nạp đạn, khi vận động phải hết sức ăn ý, nghĩa là có tinh thần tập thể, tinh thần đồng đội cao mới mần ăn lớn chuyện được. Sau chót, có vụ này đáng lẽ khỏi nói mà phải nói là trong khẩu đội có ba đứa thì ba đứa phải gan, phải chịu chơi hoài, chớ một trong ba đứa mà sọc dưa thì coi như hư hết.
Đó, tao chỉ dặn bấy nhiêu. Tao nói ít, chắc tụi bay hiểu nhiều.
Anh Bé nói ít mà chúng tôi hiểu nhiều thiệt. Tôi thấm thía điều anh Bé dặn sau cùng. Cả Khởi, Cần chắc cũng vậy. Ba đứa chúng tôi biết rằng từ giờ phút nầy cuộc đời chúng tôi đã gắn liền với nhau, có sướng cùng sướng, có khổ cùng khổ, có chết cùng chết. Kể từ giờ phút này, một người phải nghĩ tới ba người, trong miếng ăn, trong giấc ngủ và trong lửa đạn. Tôi vững lòng thấy mình có thể làm được điều đó, và tin tưởng Khởi, Cần cũng làm được điều đó.
Chúng tôi học tập nắm vững các bộ phận súng, tháo ráp một cách nhanh chóng. Tôi tháo ra và lắp lại ba lần, lần nào cũng rút ngắn thời gian hơn. Anh Bé ngó tôi, hỏi:
- Bộ thằng này có tháo lắp đại liên rồi sao mầy?
- Đâu có anh
Tôi đáp. Chiều đó, không biết anh Bé nói gì với anh Đấu và anh Sáu Dũng mà hai anh gặp tôi bảo:
- Thằng Bé có khen em có hoa tay với cây đại liên lắm!
Tôi được khen, lại lo thêm. Từ lúc lãnh cây đại liên, tôi luôn nghĩ tới trận địa, hình dung ra những đợt xung phong của giặc và tôi phải bắn rạp chúng xuống như thế nào. Tôi lo lắng nóng lòng hướng tới trận địa, nơi sẽ diễn ra mọi sự gay cấn mà có giáp mặt mới biết nó ra làm sao. Tối hôm ấy, khi Khởi và Cần đã nằm ôm nhau ngủ tôi vẫn thao thức. Và cây đại liên mà gần trọn ngày đã bị chúng tôi phân thân nhiều lượt, giờ nằm yên đó sát bên tôi, chắc nịch và im lặng. Tưởng như cây súng đang nghỉ ngơi, đang ngủ. Chỉ có tôi là bận bịu, không yên. Lát lát, tôi lại rờ súng, vuốt ve thân súng mát lạnh, cầm lấy chân súng có bàn bè ra như chân vịt. Đôi lúc tôi có cảm tưởng cây súng như một con người, từ nay ở sát bên tôi, tự nguyện theo tôi đi rửa thù. Ngày hôm nay, ngày tôi chánh thức lãnh cây súng, tôi cứ ngỡ ngàng thấy sao cái chuyện đó đến với tôi y như tôi hằng mơ. Ngày tôi đi kiếm bộ đội, tôi chẳng đã mơ được bắn một cây súng dữ dằn là gì? Ngày đó tôi cũng chưa nghĩ ra cây súng dữ dằn là cây súng gì. Lòng khát khao trả thù
chỉ mới phác ra sự mong muốn được cầm một thứ khí giới sắc bén. Bây giờ thứ khí giới đó đã đến tay, cái tôi mong đã có. Cho nên tôi lo lắng phải làm sao cho xứng đáng.
Biết bao người đã khuất, biết bao cảnh tượng ướt đầm nước mắt lần lượt hiện lại như dặn dò tôi nhớ lấy đừng để sót một món nợ nào. Trong đêm, hình như bên tai tôi vẳng tới một tiếng nói rất nghiêm, của cha mẹ, của ông bà cô bác và của cả ruộng đồng sông rạch. Tiếng nói đó bảo rằng: "Đã có một cây súng tốt cho con rồi đó, con cầm lấy cùng anh em đồng đội mà đi trả thù. Chỗ nào chúng nó làm chảy máu anh em bà con mình, chỗ ấy con phải bắt chúng nó đem máu mà trả. Chỗ nào con đã ngó thấy chúng nó thiêu sống những em cháu thơ ngây của mình, chỗ đó con phải thiêu đốt chúng...". Trong đêm, những tiếng nói không phát ra thành tiếng, những hình bóng không hẳn là hình bóng của một riêng ai, cứ hiện đến và cứ nói với tôi.
Cuối cùng, không thể nằm yên được, tôi ngồi dậy bật lửa thắp đèn. Lúc ấy đã khuya lắm, có lẽ tới mười một mười hai giờ. Tất cả anh em ở văn phòng đại đội đều chẳng ai còn thức, trừ những anh trong phiên gác. Với ý định phải làm lại thành thạo những gì anh Bé đã dạy, tôi rón rén mở bồng lấy tấm vải ni-lông, giũ ra, trải xuống đất giữa nhà. Rồi hết sức nhẹ nhàng, tôi bê khẩu đại liên từ trên ván xuống đặt giữa tấm ni-lông vừa trải. Vậy rồi tôi bắt đầu ngồi lom khom tháo rời khẩu đại liên ra. Tôi tháo rất êm, không để khua chạm lớn. Tháo xong, tôi nhanh nhẹn ráp lại đúng theo thứ tự từng bộ phận. Ráp xong, tôi xoa tay, ngồi cười lên một mình. Rồi nằm nhoài người, tôi tập ngắm. Làm năm bảy lượt như vậy tôi mới tạm yên tâm bê khẩu súng đem đặt lên bộ ván như cũ.
Nhưng tôi cũng chưa leo lên nằm lại, mà xách một thùng đạn, đem để giữa tấm ni-lông, mở nắp. Từ thùng đạn, xông lên mùi đạn thơm sực nức như mùi nhãn chín. Tôi cầm đèn dơ lên nhìn những giây đạn mới tinh, vàng chóe. Mê quá, tôi cúi xuống ngửi đạn.
Vào lúc ấy chợt tôi có cảm giác hình như có ai vừa bước vào, đứng sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn thấy anh Đấu đã đứng đó tự lúc nào. Anh sửng sốt ngó tôi:
- Ủa, khuya rồi mà em còn thức làm gì đó?
Tôi lúng túng đậy nắp thùng đạn lại, trong lúc anh Đấu vừa lắc đầu, vừa cười khớ ra:
- Trời đất ơi, bộ em khùng rồi hả Quyết. Nửa đêm dậy ngửi đạn, thiệt hết biết cái thằng này rồi...
Tôi cũng cười, và vội vàng xách thùng đạn đem cất. Quên cả cây đèn đang cháy, tôi leo lên ván nằm co mình như con tôm.
Anh Đấu nói:
- Thôi ngủ đi!
Rồi anh đưa bàn tay phẩy tắt ngọn đèn, bước trở ra ngoài...
--------------------------------
Đìa cá cạn rút nước.
Tiếng gọi đùa: chư vị.