Trung đoàn bộ binh 95 và trung đoàn bộ binh 31 được giao nhiệm vụ chốt lại để mở rộng và giữ vững bàn đạp. Trung đoàn bộ binh 95 có nhiệm vụ chốt giữ các mục tiêu vừa mới đánh chiếm: trung đoàn bộ binh 31 triển khai trận địa phòng ngự tại ngã ba Công hương và trên trục đường đất đỏ để đánh địch phản kích từ trong nội địa ra.
Ở phía sau, Quân khu đã điều ra một số đơn vị triển khai dọc đường 19 từ đồn biên phòng 23 vào sâu trong đất địch khoảng 1 km, đồng thời, đã huy động hàng ngàn dân ở hậu phương lên phá quang và sửa chữa lại đường để vận chuyển tiếp tế ra phía trước. Trên con đường quốc lộ 19 từ phía Tây đồn biên phòng 23 đến Đức Cơ, đông như ngày hội. Từng đoàn dân công nam có, nữ có đi xen kẽ với những chiếc xe vận tải chở đầy ắp hàng hoá, lương thực quân trang, quân dụng và đạn được nối đuôi nhau từ sân bay dã chiến Đức Cơ lên đến đồnbp 23. “Tất cả cho phía trước!” câu khẩu hiệu hồi chiến tranh giải phóng đã được phục sunh trong cuộc chiến tranh hôm nay.
Sư đoàn bộ binh 801 Pol Pot đã lùi căn cứ sâu vào nội địa. Chúng lại tung ra nhiều toán biệt kích tiếp tục bu bám, đánh vào các đơn vị của ta ở phía trước, nhất là xung quanh các trận địa phòng ngự của trung đoàn bộ binh 31 ở khu vực Ngã ba Công hương. Thật đúng với phương châm “địch tiến, ta lùi, địch dừng, ta quấy” mà chúng đã áp dụng từ trước đến nay.
Được giao nhiệm vụ phòng giữ khu vực mới đánh chiếm, chúng tôi đã tiên liệu được tất cả những khó khăn mà đơn vị phải đương đầu. Trung đoàn bộ binh 95 đã sử dụng tiểu đoàn 9, trung đoàn bộ binh 31 (được tăng cường từ khi đánh chiếm XA-XB) làm lực lượng chủ yếu chốt giữ mục tiêu. Còn trung đoàn bộ binh 95 được rút ra, bố trí gần đó làm lực lượng cơ động. Như vậy thực chất toàn bộ trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi (bao gồm tiểu đoàn 9) làm nhiệm vụ phòng ngự trực tiếp, đối đầu với sư đoàn bộ binh 801 của địch. Tuy nhiên, sư đoàn bộ binh 801 lúc này đã phân tán trên một diện rộng bao gồm một trung đoàn rải ra, đương đầu với trung đoàn bộ binh 31 trên vòng cung từ phía Đông căn cứ XA-XB-đường đất đỏ-ngã ba Công hương dài gần chục km. Một trung đoàn đứng ở phía Bắc đường 19 cũng bị phân tán, rải ra từ đồnbp 23 đến cao điểm 174 (phía Bắc ngã ba Công hương). Đó là chưa tính đến lực lượng phía sau thuộc các đơn vị của Quân khu 109 nối đuôi với các lực lượng tác chiến với ta ở phía trước theo đội hình “đầu nhọn, đuôi dài”.
Đội hình các đơn vị của ta ở ngã ba Công hương triển khai chưa xong, công sự trận địa còn sơ sài, lực lượng chưa được bổ sung thì địch đã áp sát các vị trí xung quanh ngã ba Công hương và phản kích liên tục hòng đánh bật lực lượng của ta, để chiếm lại những khu vực đã mất.
Cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Bước đầu địch có ưu thế về địa hình, lực lượng của chúng còn sung sức (trong trận đánh vừa qua ta diệt không được bao nhiêu, chủ yếu là địch tháo chạy). Có nơi chúng tập trung 2 đến 3 khẩu ĐKZ cùng với các hoả lực khác đánh vào một công sự, hoả điểm của ta. Có những công sự hình chữ A tuy chỉ cao hơn mặt đất khoảng 50-60 cách mạng mà trúng đến ba quả đạn ĐKZ75.
Lúc đó, một số vị trí của ta chịu không được, anh em bì ù tai, một số bị thương phải bật ra khỏi công sự, bọn địch nhảy lên đánh chiếm. Sau đó, ta cơ động lực lượng ra đánh chiếm lại. Ta và địch giành nhua từng công sự, từng ụ súng…
Về sau này, công sự, trận địa của bộ đội ta ngày càng vững chắc hơn. Hệ thống hoả lực từ các trận địa pháo 105 của Quân khu 5 và hoả lực đi cùng của các đơn vị đã chi viện cho chúng tôi, chính xác, chặt chẽ và có hiệu quả. Từ kinh nghiệm trong chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đã tổ chức đội hình phòng ngự một cách phù hợp và kịp thời. Ở tất cả các cấp, nhất thiết phải có lực lượng cơ động dự bị. Lực lượng này do người chỉ huy từng cấp trực tiếp nắm, được bố trí gần vị trí chỉ huy và những nơi có thể vận động đánh tạt sườn và đánh vu hồi vào sau lưng địch. Thực tế cho thấy kẻ địch rất chú ý đến việc đánh bên sườn và phía sau đội hình của ta. Ngược lại chúng cũng rất sợ những mũi vu hồi của ta đánh tạt sườn vào sau lưng chúng. Mỗi một trung đội nhất thiết phải rút ra một tiểu đội làm lực lượng cơ động, mỗi một tiểu đoàn phải rút ra một đại đội làm lực lượng cơ động. Trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi sử dụng tiểu đoàn 8 làm lực lượng dự bị cơ động. Đây cũng là quán triệt tư tưởng tiến công trong chiến đấu phòng ngự. Phải loại trừ cho được tư tưởng phòng ngự một cách thụ động, đơn thuần.
Còn lực lượng trực tiếp đối đầu với địch thì đội hình bố trí cũng có lực lượng phía trước, lực lượng phía sau. Lực lượng phía trước chủ yếu dựa vào công sự vững chắc, có chiến hào giao thông nối liền từ vị trí này sang vị trí khác, từ phía trước ra phía sau. Đây là một khối lượng công trình rất lớn, bộ đội ta phải làm cả ngày lẫn đêm dưới làn đạn hoả lực của địch. Cường độ lao động phải bỏ ra không sao kể hết được. Công tác Đảng-công tác chính trị đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường xác định được nhiệm vụ, dũng cảm trong chiến đấu, bằng mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Tôi xin nói rằng suốt một tháng trời, trung đoàn bộ binh 31 của chúng tôi bám trụ nơi đây trong điều kiện mùa mưa, đường vận chuyển tiếp tế phía sau ra phía trước bị lầy lội và địch đánh phá liên tục. Bộ đội chúng ta đã phải chịu thiếu thốn đủ thứ. Mỗi ngày chỉ ăn được một bữa cơm nóng. Riêng lực lượng trực tiếp đối đầu với địch phía trước, lại càng khó khăn hơn nhiều. Có khi phải dùng đến gạo rang, uống nước mưa. Có thời kỳ, trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến đấu từ 10-13 đồng chí một ngày. Thế mà suốt một tháng mùa mưa, các đơn vị vẫn kiên cường bám trụ, đánh lui được nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa. Bộ đội chúng ta trong những ngày tháng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc tuyệt vời như thế đó.
Tuy nhiên, trong cuộc chiến đấu này, đứng giữa cái sống và cái chết trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, một số cán bộ chiến sĩ đã xuất hiện tư tưởng sợ hy sinh ác liệt, ngán ngại vất vả, gian lao.
Ngày 10 tháng 7 năm 1978, lực lượng địch khoảng một tiểu đoàn, thuộc trung đoàn bộ binh 81 từ trong nội địa Campuchia theo đường 19 ra phản kích cách ngã ba Công hương khoảng 500 m. Bộ binh của chúng chia thành nhiều mũi tấn công vào trận địa của ta trên hai hướng: một hướng tiến dọc theo đường 19, một hướng từ phía Bắc cao điểm 174, tiến xuống.
Các lực lượng phía trước của tiểu đoàn 7 dựa vào công sự, hầm hào đánh trả quyết liệt, hoả lực của trung đoàn chi viện bắn vào đội hình và trận địa cối của chúng ở sườn dốc đối diện. Lúc này, trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 8 dùng một đại đội vận động xuất kích vượt qua phía Bắc đường 19, chiếm lĩnh điểm cao 174 rồi từ đó tiến công vào bên sườn và phía sau của đội hình địch. Khi đội hình vận động vượt qua đám ruộng cạnh đường, địch từ sườn dốc bắn ra rất rát. Lẽ ra đồng chí Cao Ích Nhường là đại đội trưởng phải nhanh chóng triển khai hoả lực chi viện cho bộ đội vượt qua, công kích vào bên sườn đội hình địch, thì anh lại không làm được việc đó, mà cùng với đồng chí Từ Văn Vy là chính trị viên, bỏ lại khẩu ĐKZ75 trên bờ ruộng, rồi kéo cả đại đội chạy về phía sau.
Đây là trường hợp đầu tiên xảy ra đối với một tiểu đoàn mà trước đó chưa từng có.
Tuy nhiên, nhìn chung, toàn thể cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn 8 nói riêng và trung đoàn bộ binh 31 nói chung, vẫn phát huy được truyền thống của đơn vị, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn phòng ngự và trong cuộc tổng tiến công sau này.
Dĩ nhiên hai cán bộ chủ chốt nêu trên sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Cuộc chiến đấu phòng ngự giữ vững khu vực đầu cầu này ngày càng quyết liệt. Các vị trí ở tiền duyên bị địch bu bám, áp sát các điểm tựa, bộ đội không xuất kích ra được, do hoả lực và những bãi mìn của địch ngăn chặn. Các đơn vị ở phía sau cũng bị địch tung nhiều toán lợi dụng sơ hỏ nơi tiếp giáp giữa các đơn vị, để luồn vào gài mìn, phục kích, cắt đường vận chuyển tiếp tế của ta.
Sở chỉ huy trung đoàn bộ binh 31 đóng ở chính giữa. Phía trước chưa đầy 1 km là tiểu đoàn 7. Bên phải, phía sau (gần trục đường 19) là tiểu đoàn 9. Lúc này tiểu đoàn 9 đã về lại đội hình của trung đoàn bộ binh 31. Còn tiểu đoàn 8 thì bố trí bên cạnh Sở chỉ huy trung đoàn.
Phía sau đội hình trung đoàn bộ binh 31 là trận địa pháo 105 mm của Quân khu. Trận địa pháo này, sau đó được bổ sung cho sư đoàn bộ binh 309 khi được thành lập.
Trên hướng phòng ngự của tiểu đoàn 7 luôn luôn bị địch gây sức ép.
Ngày 25 tháng 8, tôi cử đồng chí Phan Hành Sơn-phó tham mưu trưởng trung đoàn cùng một số cán bộ gồm trợ lý tác chiến, trợ lý trinh sát, trợ lý công binh lên nghiên cứu để điều chỉnh lại đội hình của tiểu đoàn 7 cho phù hợp. Số cán bộ này vừa ra khỏi Sở chỉ huy trung đoàn khoảng 300 m, thì đồng chí trợ lý tác chiến đi đầu vướng phải mìn. May mắn, anh không sao nhưng đồng chí Phan Hành Sơn đi sau, thứ ba, bị thương nặng.
Phan Hành Sơn là cán bộ chỉ huy dũng cảm, táo bạo. Đồng chí làm một người con của quê hương đất Quảng. Trong chiến tranh chống Mỹ, một mình đồng chí quần nhau với địch xung quanh núi Ngũ Hành Sơn, tiêu diệt hàng chục tên lính Mỹ. Đồng chí được tuyên dương Anh hùng lực lượng vị trí nhân dân.
Trong chiến đấu, mỗi khi giao nhiệm vụ cho đồng chí, chúng tôi rất yên tâm. Với vóc dáng to khỏe, nặng trên 70 kg nhưng tác phong đồng chí nhanh nhẹn, sống chân tình, cởi mở với anh em đồng chí đồng đội. Trong cuộc sống đời thường sau này, đồng chí rất giản dị. Đồng chí bị mất sức chiến đấu lần này, chúng tôi rất tiếc và lại càng thương tiếc hơn khi được tin đồng chí đã từ trần trong một cơn bạo bệnh vào năm 2003, tại quê nhà-nơi đồng chí đã lập nhiều chiến công trong chiến đấu chống Mỹ.
Cuối tháng 8, miền Đông Bắc Campuchia vẫn đang là mùa mưa. Tất cả các con suối trên trục đường 19 từ Đức Cơ lên biên giới và cả trên phạm vi tỉnh Ratanakiri của Campuchia đều đầy ắp nước và chảy xiết, Lực lượng công binh của Quân khu và dân công phải bắc cầu, nhưng đường thì lầy lội. Do đó bắc cầu xong thì xe cũng không thể đi được. Nhiều đoạn phải chặt cây chống lầy cho xe vận chuyển hàng hoá lên cho bộ đội, nhưng cũng rất hạn chế. Vì vậy, ở phía trước vẫn thiếu thốn đủ thứ.
Quân số ngày càng hao hụt, sức khỏe bộ đội giảm sút nhiều, trong khi cường độ đánh phá của địch lại tăng lên. Chúng lợi dụng mùa mưa tăng cường đánh phá, gây cho ta không ít khó khăn.
Để bảo đảm cho bộ đội chiến đấu lâu dài và nhất là chuẩn bị cho đồng chí tổng tiến công sắp tới, Quân khu quyết định điều động trung đoàn bộ binh 95 và một số đơn vị khác như trung đoàn bộ binh 93, 94 lên thay thế, giữ vững bàn đạp, rút trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi về củng cố. Đây là một quyết định đúng đắn và rất kịp thời.
Những ai đã từng sống trong những hoàn cảnh này mới thấy được niềm vui sướng của những người lính từ trong gian khổ, ác liệt được trở về hậu phương tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi.
Hơn một tháng chiến đấu trong mùa mưa, bộ đội gần như kiệt sức, ai cũng mong có được một giấc ngủ thật sâu, một không khí yên tĩnh của thời bình, một ước mơ đơn giản mà đã hàng tháng nay mới có được.
Sau khi bàn giao trận địa cho trung đoàn bộ binh 95, chúng tôi lại về căn cứ mà lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Trong cuộc chiến đấu vừa qua, chúng tôi đã vượt qua bao khó khăn thử thách, đã kiên cường bám trụ và cuối cùng đã hoàn thành nhiệm vụ, không để mất một vị trí nào trước khi bàn giao lại cho Bạn.
Trở về căn cứ, ai cũng tưởng rằng sẽ được xả hơi mấy ngày. Nhưng không! Bộ đội có thể được nghỉ ngơi, nhưng những người chỉ huy, lãnh đạo như chúng tôi thì công việc lại ngập đầu: nào là hội họp, sơ kết, tổng kết, nào là bổ sung quân số, vũ khí trang bị và phải bắt tay ngay vào công tác huấn luyện.
Chúng tôi về căn cứ để củng cố lực lượng, nhưng hàng ngày vẫn dõi theo tình hình diễn biến trên chiến trường Đông Bắc nói riêng và tình hình Campuchia nói chung. Tình hình ở Campuchia lúc này đã có những dấu hiệu đáng chú ý. Tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon ngày càng lộ rõ bộ mặt phản bội tư tưởng Mác-xít của chúng. Ở trong nước, chúng thực hiện chính sách vô cùng tàn ác, hà khắc với nhân dân Campuchia. Vì vậy đã xuất hiện phong trào phản chiến trong quân đội. Một số đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 203 chạy sang Việt Nam. Một bộ phận nhân dân Campuchia cũng tìm đường vượt biên giới sang nước ta lánh nạn.
Trên chiến trường Đông Bắc, sau khi trung đoàn bộ binh 95 vào thay thế trung đoàn bộ binh 31 để tiếp tục chiến đấu giữ vững bàn đạp, địch tăng cường đánh phá gây sức ép trên toàn tuyến, không những ở chính diện mà ngay cả hai bên sườn và phía sau của các đơn vị cũng bị địch tấn công.
Tại đồn biên phòng 23, chúng lại tiếp tục bu bám và cài mìn xung quanh. Đường 19 từ đồn biên phòng ra phía trước cũng liên tục bị phục kích và gài mìn, khiến cho công tác vận chuyển tiếp tế gặp rất nhiều trở ngại. Một số vị trí của ta ở ngã ba Công hương đã bị địch đánh chiếm. Một số dân công hoả tuyến bị địch phục kích bắt trong đó có cả phụ nữ. Tình hình ngày một phức tạp.
Không thể để mất khu vực đầu cầu có tính chất trọng yếu này. Trước tình hình đó, Quân khu 5 đã điều trung đoàn bộ binh 94, thuộc sư đoàn bộ binh 307 lên triển khai dọc đường 19, sau đội hình trung đoàn bộ binh 95 và một số đơn vị khác, với mục đích tạo thế liên hoàn giữa phía trước với phía sau. Nhưng tình hình vẫn không cải thiện được bao nhiêu.
Tháng 10 năm 1978, sư đoàn bộ binh 801 của địch đã cho một bộ phân lực lượng chiếm lĩnh điểm cao 312 (phía Bắc đường 19 thuộc tỉnh Ratanakiri). Từ bàn đạp này chúng cho nhiều toán xuống khống chế đường 19 và ngầm Ô Gia Đao bằng các thủ đoạn phục kích, gài mìn cắt đứt tiếp tế, cô lập các đơn vị phía trước gồm: trung đoàn bộ binh 94, trung đoàn bộ binh 95 và một số đơn vị khác với phía sau của ta.
Tình hình trên hướng Quân khu 5 lúc này rất nghiêm trọng. Giữa lúc cuộc chiến đấu trên tuyến biên giới Tây Nam ngày càng quyết liệt và phức tạp thì hầu như đồng thời có nhiều sự kiện quan trọng diễn ra cùng lúc: trước tình hình quân đội địch và nhân dân Campuchia gần biên giới căm ghét chế độ Pol Pot chạy sang ta ngày một đông, được sự giúp đỡ chí tình của Đảng và Nhà nước ta, “Mặt trận Cứu nguy Dân tộc Campuchia” ra đời. Sau này gọi là “Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia” do đồng chí Hêng Somrin làm chủ tịch. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong diễn biến tình hình ở Campuchia và các nước trong khu vực. Đây là hành lang pháp lý để chúng ta tiến hành thực hiện hai nhiệm vụ cùng lúc: là nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ dân tộc là động lực thúc đẩy.
Từ sự kiện đó, để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của dân tộc, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu đã thành lập nhiều đơn vị mới thuộc các Quân khu phía Nam, trong đó có sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi. Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, trước tình hình diễn biến bất lợi cho ta ở hai đầu đất nước, quân đội ta cũng đã thành lập ra nhiều đơn vị cơ động của bộ. Đó là những chủ trương rất sáng suốt và kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, quân đội ta.
Như vậy chúng ta có thể hiểu là sư đoàn bộ binh 309 và các đơn vị khác ra đời trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, nhằm cùng toàn quân và dân ta thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế.
Ra đời tại thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc vào ngày 27-9-1978, sư đoàn bộ binh 309 lúc mới thành lập gồm ba trung đoàn bộ binh, nòng cốt là trung đoàn bộ binh 31, một trung đoàn pháo binh (trung đoàn pháo binh 36-sau này đổi thành trung đoàn pháo binh 487) cùng các tiểu đoàn trực thuộc và chuyên môn.
Bộ tư lệnh sư đoàn đầu tiên gồm các đồng chí:
-Thượng tá Lê Chí Thuận (Lê Văn Nẹc)-sư đoàn trưởng.
-Thượng tá Nguyễn Văn Chức-chính uỷ.
-Thượng tá Lê Tá-phó sư đoàn trưởng.
-Trung tá Trần Dực-phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị sư đoàn.
Còn chỉ huy các trung đoàn bộ binh và nhiệm vụ của họ tôi xin nói cụ thể ở các phần sau.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại tình hình ở chiến trường Đông Bắc Campuchia mà lực lượng vị trí Quân khu 5 đang chiến đấu ở đó.
Trước tình hình các đơn vị phía trước bị địch chia cắt. Ngày 20-10-1978, sau khi lui về củng cố chưa được một tháng, theo lệnh của Quân khu, trung đoàn bộ binh 31 lại được giao nhiệm vụ đánh chiếm cao điểm 312, giải toả đường 19 để chi viện cho các đơn vị phía trước đang gặp rất nhiều khó khăn, do không được tiếp tế lương thực, đạn được từ phía sau lên và số thương binh chưa được chuyển về hậu phương.
Đêm 19 tháng 10, đồng chí Lê Chí Thuận sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Chước-chính uỷ sư đoàn, trực tiếp xuống giao nhiệm vụ cho trung đoàn bộ binh 31, có đồng chí Khiếu Anh Lân-cán bộ thuộc Quyết định 3 cùng đi để tìm hiểu tình hình ở chiến trường để phục vụ cho các hoạt động sau này.
Vì đang chiến đấu phía trước, nên ngày thành lập sư đoàn chúng tôi không có mặt. Hôm nay mới được gặp sư trưởng và chính uỷ lần đầu tiên trên cương vị mới. Trước đây, trong chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đều ở sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng. Anh Thuận Nẹc là lữ đoàn trưởng đoàn 52, trực tiếp chỉ huy lữ đoàn đánh trận công kiên nổi tiếng ở Gia Vực (Quảng Ngãi), rồi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 12. Sau năm 1975, anh là tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ đoàn 352 làm kinh tế ở Tây Nguyên. Anh là người rất năng động, miệng nói tay làm. Những chủ trương đã được Đảng uỷ đề ra hoặc mệnh lệnh của cấp trên đưa xuống anh bắt buộc cấp dưới phải thực hiện cho bằng được. Với tác phong kiên quyết, giọng Huế oang oang, có lẽ cũng vì thế mà bộ đội gọi là Nẹt, thay vì Nẹc, tên của anh.
Còn chính uỷ Nguyễn Văn Chước thì hoàn toàn ngược lại. Anh là người điềm đạm, lập luận chặt chẽ, tưởng như anh tiết kiệm từng lời nói. Nhưng đối với công tác Đảng, công tác chính trị thì rất sâu sắc. Những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ, anh là chính uỷ trung đoàn bộ binh số 2 sư đoàn 3 Sao Vàng. Chiến dịch Hồ Chí Minh anh vẫn là chính uỷ,còn tôi là quyền trung đoàn trưởng trung đoàn. Chúng tôi cùng tham gia lãnh đạo và chỉ huy trung đoàn tiến công đánh chiếm Vũng Tàu trên hướng Đông Nam của chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, chúng tôi lại gặp nhau và cùng công tác tại trường Hạ sĩ quan Quân khu, đóng ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Hôm nay, chúng tôi lại sát cánh cùng nhau trên chiến trường này. Một lần nữa, chiến tranh lạ đưa chúng tôi đến với nhau.
Tại Sở chỉ huy của trung đoàn, bây giờ đã là 23 giờ, bộ đội đang chìm vào giấc ngủ say sưa sau những tháng ngày căng thẳng ở chiến trường. Duy chỉ có số anh em canh gác và một số đồng chí trực ban của các cơ quan là đang thức.
Đồng chí Khiếu Anh Lân trải tấm bản đồ khu vực thuộc tỉnh Ratanakiri (Campuchia) và Đức Cơ (Việt Nam) lên bàn. Tôi với anh Vũ Huy Lẫm (lúc này anh Lẫm đã được điều về làm chính uỷ trung đoàn thay anh Mai) cùng với một số đồng chí như: trợ lý tác chiến, chủ nhiệm trinh sát, thông tin… tập trung xung quanh tấm bản đồ đã được tác nghiệp về diễn biến địch-ta mới nhất. Nhìn vào tấm bản đồ có những mũi tên “xanh” xen lẫn những chấm “đỏ”, ta có thể hình dung được địch đã tạo được thế xen kẽ với các đơn vị của ta trên toàn bộ phạm vi tác chiến của các đơn vị. Đặc biệt là trên trục đường 19, khu vực cao điểm 312. Đồng chí Khiếu Anh Lân cung cấp một số tình hình mà Quân đoàn 3 nắm được về diễn biến giữa ta và địch, đồng thời, đồng chí sư trưởng sư đoàn 309 phổ biến vụ của Quân khu và tiền phương Bộ giao nhiệm vụ cho sư đoàn 309 nói chung và trung đoàn 31 nói riêng.
Ai nấy đều im lặng. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ, nét mặt đượm vẻ buồn phiền, lo lắng… Có thể buồn vì sau đợt chiến đấu vừa qua, đơn vị rút về củng cố thời gian chưa được bao nhiêu, sức khỏe chưa được hồi phục và đang bộn bề công việc phải làm, thế mà giờ đây, ngay sáng mai, chúng tôi phải lên đường ra trận. Lo lắng là vì nhiệm vụ quá gấp, trong một điều kiện thời gian eo hẹp liệu có hoàn thành được nhiệm vụ?
Đồng chí sư trưởng Lê Chí Thuận phá tan không khí im lặng bằng giọng nói sang sảng gần như ra lệnh và cũng gần như thuyết phục. Đồng chí nói:
-Tình hình phía trước đang rất khó khăn, sư đoàn giao nhiệm vụ cho trung đoàn bộ binh 31 phải bằng mọi biện pháp khắc phục những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, tạo thuận lợi cho các đơn vị bạn. Trước mắt, ngay ngày mai, các đồng chí tổ chức cho cán bộ đi trinh sát mục tiêu, còn các đồng chí ở nhà chuẩn bị mọi mặt cho bộ đội. Có khó khăn gì thì cứ báo cáo lên sư đoàn. Các cơ quan phải tập trung mọi khả năng cho trung đoàn bộ binh 31. Nhiệm vụ cụ thể thì lên tiền phương, Quân khu sẽ giao.
Với đức tính điềm đạm của một cán bộ chính trị lâu năm, đồng chí Chước bổ sung thêm:
-Sư đoàn 309 vừa mới thành lập, biên chế, tổ chức và trang bị chưa được hoàn thiện cho lắm. Trung đoàn 31 vừa trải qua chiến đấu hàng tháng trời, bộ đội xuống xuống sức, mệt mỏi. Quân số và trang bị cũng chưa được bổ sung, nhưng trung đoàn đã có những cơ sở thuận lợi hơn các trung đoàn khác. Vì anh em đã kinh qua chiến đấu với đối tượng này, đã có những kinh nghiệm bước đầu, địa hình cũng đã nắm được. Trung đoàn lại là đơn vị chủ công của sư đoàn, yêu cầu các đồng chí nỗ lực cố gắng lãnh đạo, chỉ huy bộ đội. Đánh thắng trận này có ý nghĩa tạo đà để xây dựng sư đoàn. Tuy trung đoàn bộ binh 31 là lực lượng chủ công nhưng tất cả mọi công tác bảo đảm thì sư đoàn và Quân khu sẽ lo, và coi đây là trận chiến đấu đầu tiên của sư đoàn bộ binh 309 sau khi thành lập!
Suốt từ đó trở về sáng, chúng tôi không tài nào chợp mắt được. Bao nhiêu công việc dồn dập ập tới, không biết việc nào cần làm trước, việc nào cần làm sau. Vì tất cả mọi công việc đều cần tiến hành trong một thời gian rất ngắn.
Đêm cuối tháng, trời không mưa. Rừng Tây Nguyên im lìm như trong giấc ngủ. Song tại Sở chỉ huy trung đoàn nhộn nhịp, tất bật hẳn lên.
Như một chương trình đã được cài đặt sẵn trong bộ nhớ máy tính, ba chúng tôi gồm tôi, đồng chí Vũ Huy Lẫmm đồng chí Trương Đình Xướng và mời thêm đồng chí chủ nhiệm chính trị trung đoàn, họp thường vụ. Còn các cơ quan tuy chưa được giao nhiệm vụ cụ thể, nhưng với kinh nghiệm của những năm chiến đấu, các đồng chí đều chủ động triển khai công việc.
Tôi nghĩ bụng: nếu không có những cơ quan như thế này thì tài thánh cũng không thể chỉ huy được bộ đội. Thế mà trong thực tế, lại có những vị chỉ huy thường hay ôm đồm cả công việc của cơ quan, ít quan tâm đến công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trợ lý. Thậm chí, còn xem nhẹ vai trò của cơ quan. Do đó, khi sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, cơ quan thường bị phê phán nhiều nhất. Nhất là cơ quan tham mưu và hậu cần. Đó là những điểm vô cùng sai trái.
Sáng sớm ngày 20 tháng 10, tôi dẫn đầu đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường xuấ phát lên Đức Cơ. Xe chạy bon bon trên quốc lộ 14 về huớng Pleiku, nhân dân hai bên trục đường vẫn sinh hoạt bình thường như mọi ngày. Bà con ở một số tỉnh phía Bắc vào vùng kinh tế mới đã dựng lên các dãy nhà lợp tranh, vách đất dọc hai bên đường, tập trung nhiều ở khu vực ngã ba đường số 7 và đường 14. Tuy nhiên, trong đàu óc tôi lại suy nghĩ việc khác. Trên đường đi, chúng tôi đã tự sắp xếp cho mình những công việc phải làm như tổ chức các mũi trinh sát, dự kiến phân công cán bộ, công tác bảo đảm thông tin liên lạc…
Tôi nhắc đồng chí Dương Minh Vui-chủ nhiệm trinh sát và đồng chí Nguyễn Hồng Vân-trưởng ban tác chiến:
-Các cậu lên tới nơi nhớ xin bản đồ, địa bàn cho đủ. Như lần trước thì rất khó khăn cho anh em. Lần trước may mắn nhờ anh em trung đoàn bộ binh 95 giúp đỡ, nhưng lần này, mình phải chủ động. Riêng đồng chí Vui nhớ quan hệ với trinh sát trung đoàn bộ binh 95 và trinh sát Quân khu, nắm thật chắc tình hình địch. Vì ta đã rời địa bàn này một tháng trời rồi, trong khi kẻ địch thì luôn luôn thay đổi!
Hai đồng chí cứ vâng vâng, dạ dạ mà không đề nghị gì cả. Có thể các đồng chí cũng đang dè dặt, thận trọng khi chưa biết nhiệm vụ cụ thể ra sao.
Dọc đường vừa nói chuyện, vừa suy nghĩ miên man, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đến nơi.
Trước khi giao nhiệm vụ cụ thể cho trung đoàn bộ binh 31, đồng chí sư đoàn trưởng cho biết một số tình hình địch, tập trung vào mục tiêu được phân công-cao điểm 312.
So với tối hôm qua, tại Sở chỉ huy của trung đoàn vẫn không có gì mới. Tôi nghĩ thầm “Có lẽ các bố nắm địch không chắc”. Mà đúng vậy, với một đối tượng như thế này quả là rất khó xác định. Cho đến bây giờ vẫn chưa ai xác định được phiên hiệu đơn vị, biên chế, tổ chức, trang bị của địch trên Quân khu Đông Bắc này. Chúng có bao nhiêu sư đoàn, trung đoàn trên các Quân khu và cả nước Campuchia? Chỉ biết rằng qua khai thác tù bình và đào binh thì trên phạm vi tỉnh Ratarakiri, lực lượng chính quy của địch tác chiến với các đơn vị của Quân khu 5 lúc này chỉ có sư đoàn bộ binh 801. Với những điều kiện khó khăn về địa hình, về âm mưu thù đoạn của địch và cả về những mặt hạn chế của trinh sát ta, cho đến giờ này, ta vẫn chưa nắm được và có thể sẽ không nắm được lực lượng, mức độ công sự và hoả lực của địch trên cao điểm 312. Chỉ biết chắc chắn rằng địch đã bố trí hoả lực ĐKZ, 12.7 mm và cối 100 mm tại sườn Đông Nam điểm cao 312 cùng với một lực lượng bộ binh để khống chế đường số 19. Các nơi khác, đặc biệt là ngầm Ô Gia Đao, bộ đội ta đi qua thường xuyên bị phục kích, hoặc giẫm phải mìn. Còn vật cản xung quanh cao điểm 312 thì chủ yếu là mìn với mật độ cao, nhiều loại, nhiều kiểu, được bố trí rất nham hiểm.
Cũng vì mới biết về địch như thế nên đồng chí sư trưởng giao ngay nhiệm vụ cho trung đoàn như sau:
-Trung đoàn bộ binh 31 được sự chi viện trực tiếp của 2 trận địa pháo 155 mm và 105 mm của Quân khu (bố trí tại khu vực ngầm Ô Gia Đao) và sự phối hợp của các đơn vị phía trước (như trung đoàn bộ binh 94) có nhiệm vụ:
1.Tiến công đánh chiếm cao điểm 312, từ đó phát triển chiến đấu xuống trục đường số 19 nhằm giải toả đoạn đường từ ngầm Ô Gia Đao đến đoạn tiếp giáp với trung đoàn bộ binh 94, phía Tây Nam điểm cao 312.
2.Tổ chức chốt giữ các mỏm 1, 2, 3 của cao điểm 312, nhanh chóng củng cố đội hình, sẵn sàng khi có lệnh sẽ cơ động theo nhiệm vụ của Quân khu giao.
-Sở chỉ huy trung đoàn đặt cạnh Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn bên cạnh đường số 19, phía Nam điểm cao 312.
-Vào 17 giờ, ngày 22 tháng 10, phải hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và báo cáo cho sư đoàn.
Thời gian gấp quá, biết làm thế nào bây giờ? Tình hình khó khăn của trung đoàn thì sư đoàn và Quân khu cũng đã biết mà các đơn vị Bạn đang chiến đấu phía trước lại rất cần sự có mặt của chúng tôi. Nghĩ thế, tôi điện cho đồng chí Vũ Huy Lẫm-chính uỷ và đồng chí Trương Đình Xướng-tham mưu trưởng, cơ động bộ đội lên Đức Cơ. Và, ngay chiều tối hôm đó, tổ chức trinh sát điểm cao 312.
Tôi trực tiếp đi trinh sát trên hướng chủ yếu-hướng Nam, Đông Nam điểm cao. Trên hướng này, dự kiến sẽ sử dụng một tiểu đoàn tăng cường, tiểu đoàn bộ binh số 7. Cán bộ đi trinh sát bao gồm đồng chí Lê Văn Thuận-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 7 và hai cán bộ đại đội trưởng, đồng chí Dương Minh Vui-chủ nhiệm trinh sát và một số chiến sĩ. Ngoài ra, còn có một số cán bộ chỉ huy hoả lực của trung đoàn và hoả lực tăng cường.
Trên hướng Tây Bắc, dự kiến sử dụng một tiểu đoàn bộ binh số 9 phối hợp với một tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh 276, tỉnh Đắc Lắc, đang hoạt động tại đây. Do đó, trên hướng này, đồng chí trợ lý tác chiến trung đoàn cùng với đồng chí Đinh Văn Tự-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 9 và các đại đội trưởng đi trinh sát. Tối 21 tháng 10, lực lượng trinh sát đi trên hướng chủ yếu đã vào đến chân điểm cao 312, thì đồng chí Dương Minh Vui đạp phải mìn bị thương rất nặng. Tuy vậy, công việc vẫn được tiến hành.
Tối hôm đó, đội hình trung đoàn cũng đã cơ động lên Đức Cơ. Quân khu bổ sung cho trung đoàn trên 500 tân binh, hầu hết anh em quê ở Quảng Nam-Đà Nẵng và một số tỉnh miền Trung. Lớp tân binh này vừa mới hoàn thành chương trình huấn luyện cơ bản. Bao gồm các bài bắn súng tập 1, kỹ thuật gỡ và cách bố trí mìn của địch, động tác đào công sự, nguỵ trang và chiến thuật từ cá nhân đến tổ 3 người. Có thể nói về quân số là tương đối đủ, đảm bảo được biên chế thấp nhất trong thời chiến (trong chiến tranh vừa qua ta đã thực hiện các biểu biên chế cho từng đơn vị, lấy cơ sở là tiểu đội bộ binh 7, 9, 12 đồng chí).
Công việc bổ sung vũ khí, đạn dược, sinh hoạt bộ đội và làm các công tác khác được thực hiện từ ngày 22 đến chiều ngày 23 tháng 10. Đúng 18 giờ từ vị trí tập kết, các mũi, các hướng tiếp cận tuyến triển khai xuất phát tiến công. Trời mùa dông, vùng rừng núi tối đen như mực, mọi người phải bám sát nhau. Hướng thứ yếu, đường xa phải vòng xuống phía Nam rồi ngược lên băng qua đường 19 là nơi địch thường ra phục kích, gài mìn. Ngày hôm trước chúng tôi đã cho trinh sát chốt lại, đồng thời hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng chiến đấu tại chỗ. Vượt qua đường 19 là vào khu vực của một tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh 726 đang đóng chốt tại đây. Có thể nói suốt đêm 23 tháng 10, đội hình tiếp cận phải nhích từng bước. Lâu nhất là công tác gỡ mìn địch, rồi đưa từng bộ phận vào chiếm lĩnh.
Các trận địa hoả lực như pháo 105mm, 155mm của Quân khu đã bố trí từ trước, sẵn sàng chi viện cho bộ đội tiếp cận tuyến xuất phát tiến công. Chỉ còn trận địa ĐKZ75 thì đêm nay mới chiếm lĩnh, để trực tiếp chi viện cho bộ đội đột phá cửa mở, trên hướng chủ yếu của trung đoàn. Cán bộ chỉ huy các cấp chạy ra chạy vào như con thoi để đưa lực lượng vào vị trí, giao nhiệm vụ cho bộ đội tại thực địa và nhắc lại hiệp đồng chiến đấu.
Sườn cao điểm 312 nhiều đá không làm được công sự như mong muốn. Bù vào đó là có nhiều gốc cây to và một số ụ mối. Bộ đội chủ yếu lợi dụng địa hình tự nhiên để triển khai lực lượng. Tôi ở Sở chỉ huy trung đoàn, phía sau đội hình trên hướng chủ yếu, mà trong lòng cứ nôn nao. Nhiều lúc như nín thở theo dõi từng bước tiếp cận của các lực lượng qua mạng thông tin hữu tuyến. Đồng chí trợ lý tác chiến, dưới ánh đèn pin được che sáng, đánh dấu từng vị trí mà các đơn vị đã được triển khai xong lên bản đồ. Mỗi một ký hiệu mũi tên màu đỏ nhích lên đến đâu thì bên dưới có ghi thời gian. Mọi người đều tập trung cao độ tâm trí trong giai đoạn này.
Trên hướng thứ yếu, tôi cử đồng chí Nguyễn Thành Út-Phó chính uỷ trung đoàn và một số cán bộ cơ quan tham mưu đi theo để đôn đốc, chỉ đạo và giúp đỡ anh em trong những lúc khó khăn.
Cho đến lúc này, khoảng 23 giờ 30 mạng thông tin liên lạc vẫn thông suốt, chủ yếu trên hướng tiểu đoàn 7. Còn tiểu đoàn 9, trên hướng thứ yếu dùng thông tin vô tuyến, chỉ mở máy “canh” nhưng không được “phát”.
Với địa hình rừng núi, nếu như trước đây, sở trường của bộ đội ta là thường hay tập kích ban đêm, còn bây giờ, điều đó là không thể. Do đó, hợp đồng tác chiến trong trận này và mọi công tác chuẩn bị phải hoàn thành trước 5 giờ sáng ngày 24 tháng 10.
Đồng hồ như chạy chậm lại. Thời gian như dài ra. Tôi ngồi tại Sở chỉ huy trung đoàn mà trong lòng như lửa đốt, xung quanh là các trợ lý tác chiến, trinh sát, thông tin, pháo binh… Ngoài mạng thông tin hữu tuyến còn có tổ máy thông tin vô tuyến của trung đoàn và một tổ của sư đoàn tăng cường xuống để liên lạc với cấp trên. Để bảo đảm hệ thống thông tin chỉ huy luôn được thông suốt, ngoài hai mạng thông tin vô tuyến và hữu tuyến, đồng chí chủ nhiệm thông tin còn đưa đến Sở chỉ huy thêm một tổ ba đồng chí liên lạc chạy bộ. Chúng tôi đã áp dụng mọi biện pháp để lúc nào cũng nắm được tình hình diễn biến trên các hướng và có thể chỉ huy các đơn vị một cách nhanh nhất. Vì vậy, sau khi nổ súng, mỗi một mệnh lệnh đều được phát đi bằng tất cả mọi phương tiện.
5 giờ rồi, 6 giờ đã trôi qua mà trời chưa sáng hẳn. Trên các hướng đã chiếm lĩnh trận địa một cách thuận lợi.
Sương mù dày đặc, trắng như bông trùm xuống các điểm cao. Đến 7 giờ 30, cao điểm 312 chỉ còn một lớp mây trắng bao quanh sườn núi như một vành khăn tang. Trên hướng chủ yếu, đồng chí Lê Văn Thuận-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 báo cáo là anh đã nhìn thấy rõ đỉnh đồi và một số công sự được xếp lại bằng đá cách tuyến xuất phát xung phong chưa đầy 200 m. Đài quan sát pháo binh của Quân khu cũng báo cáo là đã nhìn thấy rõ đỉnh của ba mỏm đồi thuộc điểm cao 312!
Đồng chí Lê Chí Thuận-sư đoàn trưởng điện cho tôi hỏi:
-Đã nổ súng được chưa?
Tuy đây không phải là lần đầu tiên ra trận, nhưng sao tôi vẫn cảm thấy hồi hộp.
-Đề nghị thủ trưởng cho nổ súng!-Tôi báo cáo với đồng chí sư trưởng.
Sau khi được câp trên cho phép, tôi ra lệnh nổ súng. Lập tức các trận địa pháo, cối của Quân khu và sư đoàn dồn dập nện xuống các mục tiêu theo kế hoạch hiệp đồng. Tiếng nổ ầm ầm của đạn pháo, đất đá văng tứ tung, cây cối gãy đổ ngổn ngang. Đạn ĐKZ xé tan không khí nghe chát chúa. Cả một vùng rừng núi ầm ầm tiếng nổ.
Bộ đội trên các hướng vẫn tận dụng những yếu tố bất ngờ vận động tiếp cận vào gần mục tiêu hơn. Anh em lợi dụng những gốc cây, ụ mối di chuyển từ vị trí này đến vị trí khác, dưới sự chi viện của hoả lực pháo binh. Phải nói rằng lớp chiến sĩ vừa mới được bổ sung hôm qua, tuy lần đầu ra trận nhưng thể hiện được tinh thần dũng cảm chiến đấu. Họ đã vận động dưới làn đạn của ta bay vèo vèo trên đầu mà không hề biết sợ, cứ thế xông lên.
Sau 15 phút pháo bắn dồn dập lên đỉnh đồi, bộ đội ta ào ào xung phong đánh chiếm các mục tiêu trên sườn đồi và phát triển lên đỉnh đồi. Lợi dụng địa hình điểm cao khống chế, địch chống trả quyết liệt. Với lối đánh táo bạo và tinh thần tiến công kiên quyết của bộ đội ta, nhưng bọn địch vẫn chống trả đến cùng. Tiểu đoàn 7 đã phải tổ chức nhiều đợt công kích liên tiếp, mới làm chủ được mỏm 1. Địch bỏ lại nhiều xác chết. Số còn lại di chuyển sang mỏm đồi thứ 2, trên hướng của tiểu đoàn 9. Tôi rời Sở chỉ huy mang theo một máy thông tin vô tuyến rồi kéo cả đồng chí Thuận chạy lên. Tại đây, bộ đội ta đã làm chủ, đang khẩn trương tổ chức triển khai đội hình tiến công sang mỏm 2.
Đồng chí Thuận đã cơ động kịp thời khẩu ĐKZ75, một khẩu súng máy 12,7 mm và cùng mấy khẩu cối 60 mm của các đại đội lên trước triển khai hai bên sườn mỏm 1 và chế áp mãnh liệt cao điểm số 2. Chẳng mấy chốc bộ đội ta đã chiếm được cao điểm này.
Phải thừa nhận đồng chí Thuận nắm bộ đội rất chắc, tiến tới đâu là kịp thời đưa hoả lực lên đến đó. Bình thường trong sinh hoạt, tác phong đồng chí chậm chạp, bản tính thật thà, nên ai cũng quý mến. Trong chiến đấu đồng chí lại rất bình tĩnh và kiên quyết. Sau này đồng chí đã trở thành một cán bộ sư đoàn, có nhiều kinh nghiệm trên chiến trường.
Tại cao điểm số 3, hướng của tiểu đoàn bộ binh số 9, bọn tàn quân từ cao điểm 1 và 2 chạy dồn sang, ra sức kháng cự một cách ngoan cố. Đến 13 giờ, mà tiểu đoàn bộ binh số 9 vẫn chưa tiến lên được. Địch từ trên cao bắn xuống rất rát, đạn bay rít trên đầu. Tiểu đoàn 9 phải nằm lại trên trận địa của tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn bộ binh 726. Tình hình quá căng thẳng, tôi cũng một tổ trinh sát vận động sang và cùng với đồng chí Nguyễn Thành Út tổ chức cho tiểu đoàn 9 tiếp tục công kích. Được sự phối hợp của tiểu đoàn bộ binh 7 từ cao điểm số 2 tiến công sang, tiểu đoàn bộ binh 9 xung phong liên tục và làm chủ được điểm cao số 3. Địch bỏ trận địa, chạy xuống bờ sông Tôn-lê San. Chúng di chuyển về hướng Tây, rồi vòng xuống, đánh tạt sườn vào phía sau tiểu đoàn bộ binh 9 và tiểu đoàn bộ binh 3 của trung đoàn bộ binh 726. Ta lại phải tổ chức đánh phản kích, đồng thời, củng cố trận địa vừa mới chiếm được.
Vào 15 giờ ngày 24 tháng 10, trung đoàn bộ binh 31 hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt tại chỗ 66 tên, thu 23 khẩu súng các loại.
Phối hợp với trung đoàn bộ binh 31, trung đoàn bộ binh 94 và một số lực lượng khác cũng tiến công các toán địch trên đường số 19 và lực lượng của chúng ở sương Tây Nam cao điểm 312, cách mặt đường số 19 khoảng 200m. Đến chiều ngày 24 tháng 10, đường số 19 được giải toả thông suốt nối liền tiền tuyến với hậu phương. Các đơn vị ở phía trước rất phấn khởi. Như vậy, trận đầu ra quân của sư đoàn bộ binh 309 hoàn toàn thắng lợi. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là nền tảng, là trang sử hiển hách đầu tiên của sư đoàn.
Quân khu Đông Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng đối với chiến trường Campuchia. Đường quốc lộ số 19 nối với đường quốc lộ số 14, Việt Nam chạy xuyên qua tỉnh Ratanakiri đến thị trấn Bô Keo, qua Stưng Treng, Prêch-vi-hia rồi đến các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc Campuchia.
Sau một loạt những trận chiến đấu mở màn, ta đã đưa chiến tranh sang đất đối phương, giải phóng được một khu vực rộng lớn. Địch bị đẩy sâu vào nội địa.
Đối với ta, đây là một địa bàn rất quan trọng. Trước mắt cùng với các hướng khác, chúng ta đã loại trừ được mối nguy cơ đe dọa tình hình an ninh quốc gia và vùng lãnh thổ Tây Nguyên. Sau nữa, đây là bàn đạp lý tưởng bảo đảm triển khai đội hình tổng tiến công trên một hướng chiến dịch, có ý nghĩa chiến lược của quân đội ta ở phía Tây Nam.
Vì vậy, cuộc chiến đấu ở nơi đây giữa ta và địch ngày càng quyết liệt.
Sau khi ta đánh chiếm cao điểm 312, giải toả đường 19, nối liền các đơn vị phía trước với phía sau, Quân khu đã đưa một bộ phận lực lượng lên chốt giữ. Trung đoàn bộ binh 31 cơ động xuống sườn phía Nam để ngăn chặn địch phản kích ở cao điểm 230, đoạn Phinây-đồi không tên, phía nam đường số 19 gần 2 km.
Sư đoàn bộ binh 801 Pol Pot, đã vòng xuống phía Nam hòng đột kích vào sườn cánh trái của đội hình hướng Quân khu 5.
Thắng lợi của Trung đoàn bộ binh 31 tại cụm điểm cao 312 đã khích lệ các đơn vị trong sư đoàn và trên toàn bột Mặt trận Đông Bắc. Trong các đơn vị dấy lên một phong trào thi đua giết giặc lập công.
Trung đoàn bộ binh 96 bắt đầu bước vào chiến đấu bên cạnh trung đoàn bộ binh 31. Là một trung đoàn có bề dày lịch sử từ cuộc chiến tranh chống Pháp rồi đến chiến tranh chống Mỹ, trung đoàn bộ binh 96 đã làm nên những chiến công hiển hách cùng các lực lượng vũ trang Quân khu 5, giải phóng thị xã Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) và đảm nhiệm trên hướng quan trọng giải phóng thành phố Đà Nẵng trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cùng với cả nước hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế, trung đoàn bộ binh 96 được điều về đứng trong đội hình sư đoàn bộ binh 309. Người trung đoàn trưởng đầu tiên trong thời gian này là thiếu tá Huỳnh Kim Sơn và chính uỷ trung đoàn là thiếu tá Lê Đình Phùng. Sở trường chiến đấu của trung đoàn bộ binh 96 là đánh vận động. Sau này, trong nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trung đoàn bộ binh 96 cũng là một trung đoàn luôn hoàn thành nhiệm vụ trong tác chiến vận động và chiến đấu phòng ngự trong những điều kiện bất lợi.
Thời gian này, trong nhiệm vụ đánh địch phản kích giữ vững và phát triển thế tiến công, trung đoàn bộ binh 96 đã từ căn cứ đóng quân ở chân đèo An Khê-tỉnh Gia Lai, cơ động lên ngăn chặn địch ở khu vực điểm cao 230 đến Phinây, cùng với trung đoàn bộ binh 31. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt.
Tại khu vực này, địch có một trung đoàn bộ binh, được rải ra trên một tuyến dài khoảng 5 km hòng ngăn chặn sự phát triển mở rộng bàn đạp của ta. Lực lượng của địch trực tiếp đối đầu với ta được bố trí như sau:
-Một tiểu đoàn ở khu vực cao điểm 230
-Một tiểu đoàn ở khu vực đồi không tên
-Sở chỉ huy và một tiểu đoàn cùng với trận địa hoả lực cối 120 mm ở khu vực làng Phinây.
Tuy đã hình thành một tuyến ngăn chặn như vậy, nhưng địch không hề phòng ngự thụ động, cố định, mà mục tiêu luôn luôn cơ động, biến đổi. Chúng đã tích cực áp dụng lối đánh luồn sâu, vu hồi hai bên sườn và phía sau đội hình của ta.
Có thể nói, bước đầu, những đơn vị của ta từ phía sau được đưa lên đây chiến đấu có phần lúng túng. Thêm vào đó là địa hình ở đây là rừng già, rừng tái sinh kín mít, rất khó cơ động những lực lượng lớn. Khắp nơi, từ phía trước, phía sau và hai bên, súng địch nổ liên tục, những lại không thấy rõ mục tiêu cụ thể nào để tiến công. Nhiều lúc ta phải nổ súng tiêu diệt những mục tiêu nhỏ lẻ và phải đánh vỗ mặt. Tình hình có nhiều bất lợi. Bộ đội ta ngày nào cũng có thương vong. Có khi thương vong do mìn địch, có khi bị chúng phục kích sâu trong đội hình của ta. Và, đặc biệt là trận địa cối 120 mm ở Phinây đã gây không ít khó khăn cho các đơn vị ở đây.
Phải bằng mọi giá tiêu diệt bằng được trận địa cối này! Buộc chúng phải câm họng. Vấn đề quan trọng bây giờ là công tác trung đoàn nắm địch.
Tất cả những ai đã từng kinh qua chiến đấu ở đây đều biết, việc trinh sát nắm địch là rất khó khăn. Mục tiêu Sở chỉ huy và trận địa hoả lực của địch đặt sâu trong đội hình phía sau. Phía trước, chính diện với các đơn vị của ta, thì địch đang bu bám. Mỗi hành động của ta lúc này đều không lọt được qua các bộ phận tiền tiêu của địch. Anh em ta chỉ dựa vào bản đồ, địa bàn, và tính toán cự ly bằng tiếng động từ khi trận địa cối “đềpa” đến khi tiếng nổ của quả đạn mà xác định trận địa cối của kẻ địch ở ngay tại Phinây-một phum nhỏ hẹp. Các trận địa cối, pháo của ta bắn mãi mà không trúng. Sư đoàn đã chỉ thị ngay cho tổ trinh sát, trong đó có đồng chí Phạm Văn Mai, phải “mò” cho bằng được trận địa cối này của địch.
Phạm Văn Mai là một cán bộ trinh sát rất bình tĩnh, gan dạ và là một cán bộ xuất sắc trong công tác trinh sát. Trong trận đánh vào Phinây, đồng chí đã vào ngay trận địa cối của địch, giúp cho sư đoàn hạ quyết tâm chính xác. Dù kẻ địch có nham hiểm che mắt ta đến đâu, đồng chí cũng “mò” ra được nơi ở của chúng. Tôi là một trong những cán bộ chỉ huy đã đi điều nghiên với đồng chí và các chiến sĩ trinh sát của đồng chí rất nhiều lần. Lần nào có Mai đi cùng, tôi cũng cảm thấy rất yên tâm.
Phạm Văn Mai có dáng người thâm thấpm cao chưa đến 1m60, nước da ngâm đen vì thường xuyên dải dầi mưa nắng, đôi môi tái nhợt vì bị sốt rét nhiều. Sau khi chuyển sang địa bàn Bát Tam Băng, từ một trợ lý trinh sát, anh đã được bổ nhiệm làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn trinh sát 21 của sư đoàn bộ binh 309. Có lần anh tổ chức, đưa đoàn cán bộ trinh sát của sư đoàn và trung đoàn bộ binh 31, gồm có tôi, đồng chí Đào Quang Năm-phó sư đoàn trưởng và một số đồng chí khác luồn sâu vào đất Thái Lan trên 10 km để tìm căn cứ của Pol Pot. Chuyến đi này rất thành công. Sau đó, anh lại tiếp tục dẫn một đoàn cán bộ khác do đồng chí Nguyễn Văn Táo-phó trung đoàn trưởng đi tiếp. Trên đường về, đơn vị lại bị địch bám theo tập kích vào đội hình lúc anh em dừng lại nghỉ giải lao trên đất Thái Lan. Ở “nhà” chúng tôi bắt được đài kỹ thuật, biết được số cán bộ của ta bị đích tập kích, thu một số trang bị. Nhưng rất may dưới sự dẫn đường của tổ trinh sát do anh chỉ huy, đã đưa được cán bộ về nơi an toàn cả người và vũ khí. Trong các trận tiến công hàng loạt vào các căn cứ địch từ Phnôm Mê Lai đến Ô-đa sau này, nhiều lần các toán trinh sát do Phạm Văn Mai chỉ huy, đã luồn sang đất Thái Lan, bọc phía sau các căn cứ địch dọc tuyến biên giới. Do vậy, trước khi tiến công địch, sư đoàn đã nắm chính xác được các mục tiêu.
Trong các trận tiến công vào Phinây lần này, nhờ công tác trinh sát tốt, nắm rõ được mục tiêu mà ngay từ đầu, sư đoàn đã tập trung được hoả lực, tiêu diệt được trận địa cối và Sở chỉ huy của địch ở đây.
Trong trận này, sư đoàn đã đưa pháo 105 mm và pháo phòng không 37 mm vào gần, hạ nòng bắn theo tà âm. Với sức công phá của pháo 105 mm bắn thẳng và đạn pháo phòng không 37 mm vướng vào cây nổ từ trên cao chụp xuống đã uy hiếp mạnh mẽ tinh thần của địch. Chỉ sau 30 phút chiến đấu, trung đoàn bộ binh 812 đã đánh chiếm mục tiêu Phinây mở toang được cánh để đưa đội hình chiến dịch vào tổng tiến công trên hướng của Quân khu 5.