Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nền an ninh của Việt Nam luôn bị đe dọa. Những tưởng sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, không có một tên xâm lược dám đụng đến Việt Nam. Song, sau khi Đế quốc Mỹ rút khỏi nước ta, bè lũ tay sai thất bại hoàn toàn, thì kẻ thù mới lại xuất hiện. Đó là tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon. Chúng là đội quân xung kích, tay sai của một số nước trong khu vực, tiến hành xâm lấn biên giới và lãnh thổ nước ta. Mục đích của chúng là tìm mọi cách hạn chế sự lớn mạnh của một nước Việt Nam thống nhất; bằng cách là tiêu hao tiền của, sinh lực của chúng ta. Gây ra cuộc chiến tranh biên giới, chúng thừa biết là sẽ không đánh bại được Việt Nam, nhưng chúng buộc chúng ta phải duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu, từ đó không còn khả năng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Bọn tay sai đã từng tính toán rằng: nếu lực lượng quân sự của Việt Nam duy trì quân số khoảng trên 2 triệu người, trải ra khắp đất nước, mỗi ngày, mỗi người lính tiêu thụ khoảng 20 USD(bao gồm cả súng đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng), thì nước Việt Nam sẽ kiệt sức hoàn toàn sau vài năm chiến tranh. Đây là con số tính toán thấp nhất, theo tiêu chuẩn Việt Nam. Nhưng chúng đã lầm. Người Mỹ trước đây cũng đã từng tính toán như thế và họ đã thất bại hoàn toàn.
Những ngày đầu của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trên biên giới Tây Nam, chúng ta đã giành được thắng lợi. Nhưng kẻ thù vẫn còn đó, nguy cơ đe dọa đối với trên một nửa nước ta vẫn chưa bị loại trừ. Mặt khác, sau khi Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, với mục đích vừa là giúp Bạn đập tan chế độ diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary, xây dựng lại chính quyền cách mạng mới ở Campuchia; vừa để loại trừ tận gốc nguy cơ đe dọa nền an ninh của nước ta; Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng quyết định mở chiến dịch tổng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch, giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia. Đó là điều tất yếu sẽ xảy ra.
Trước khi bước vào chiến dịch tổng tiến công, cũng như các đơn vị của Quân khu, sư đoàn bộ binh 309 đã quán triệt tinh thần nghị quyết 04 của Trung ương Đảng, nghị quyết 05 của Thường vụ Đảng uỷ Quân khu 5 về nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế, đồng thời hạ quyết tâm giành thắng lợi trọn vẹn cả về quân sự và chính trị trong chiến dịch này.
Đến bây giờ ta có thể hình dung giai đoạn 1 của chiến dịch có tính chiến lược này là các lực lượng vũ trang Quân khu 7 và của Bộ tiến công trên hướng chủ yếu từ địa bàn tiếp giáp tỉnh Tây Ninh theo đường số 1 tiến đến Niếc Lương giáp sông Tôn-lê Sáp. Hướng quan trọng bao gồm các lực lượng vũ trang Quân khu 5 tiến công theo trục đường 19 đến Bung Lung-Ven Xai-Strungtreng.
Giai đoạn 2 tiến công vào Phnôm Pênh, Công Pông Chơ Năng trên hướng chủ yếu và Prếch-vi-hia, Sisôphôn, Bát Tam Băng, hướng quan trọng.
Trên hướng Đông Bắc, Quân khu 5 sử dụng sư đoàn bộ binh 309, sư đoàn bộ binh 307 và một số đơn vị khác.
Để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công, sau khi đánh chiếm cao điểm 312, theo lệnh của sư đoàn, trung đoàn bộ binh 31 bàn giao trận địa cho trung đoàn bộ binh 726 chốt giữ; nhanh chóng cơ động xuống đánh địch ở khu vực cao điểm 230-Phinây và sau khi sư đoàn đưa trung đoàn bộ binh 96 vào chiến đấu thì trung đoàn bộ binh 31 được rút về khu vực Đức Cơ, cùng với trung đoàn bộ binh 812 tổ chức lực lượng, huấn luyện bổ sung để tham gia chiến dịch.
Vừa ra đời được hơn 2 tháng, sư đoàn bộ binh 309 được giao nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu, mở màn chiến dịch của các lực lượng vũ trang Quân khu 5. Đây là lần đầu tiên sư đoàn bộ binh 309 tham gia chiến đấu trong đội hình Quân khu với quy mô là những trận chiến đấu của binh chủng hợp thành. Cả sư đoàn rất phấn khởi ra quân, đây là thời điểm quan trọng để mọi cán bộ chiến sĩ lập công, làm rạng danh truyền thống của sư đoàn.
Bước vào chiến dịch, trên mặt trận Tây Nam nhộn nhịp, sôi động hẳn lên. Từng đoàn xe cơ giới chuyển quân, cơ động lực lượng, vận chuyển vũ khí, đạn dược và lương thực từ phía sau ra phía trước suốt ngày đêm.
Sư đoàn bộ binh 309 đưa tiếp trung đoàn bộ binh 812 và trung đoàn pháo binh 36 bước vào tham chiến.
Trong quyết tâm và kế hoạch chiến đấu của chiến dịch, trung đoàn bộ binh 812 được giao nhiệm vụ đột phá, mở đường cho trung đoàn bộ binh 31 cùng với xe tăng thọc sâu tiến công địch trên hướng chủ yếu của chiến dịch.
Là một trung đoàn bộ binh được thành lập vào ngày 19-5-1974 trên cơ sở các đơn vị tiền thân của Quân khu 6 cũ, hoạt động chủ yếu trên chiến trường Nam Trung Bộ, trung đoàn bộ binh 812 cũng được tổ chức thành 3 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh (chủ yếu pháo mang vác) và một phân đội đặc công.
Trong tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, trung đoàn bộ binh 812 tham gia chiến đấu cùng các đơn vị của Quân khu 5 giải phóng Tánh Linh, Hoài Đức, Thiện Giao (thuộc tỉnh Bình Tuy-nay là tỉnh Ninh Thuận). Đồng thời trung đoàn còn phối hợp với các đơn vị bạn tiến công giải phóng tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt và các thị xã Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy, trước khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Trong những năm chiến tranh giải phóng, trung đoàn bộ binh 812 đã có một bề dày lịch sử oanh liệt. Năm 1975, trung đoàn đã được Quốc hội Chính hủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các tiểu đoàn bộ binh được Quân khu điều động về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Cũng như trung đoàn bộ binh 96, trung đoàn bộ binh 812 được bổ sung chiến dịch mới và chuyển sang làm nhiệm vụ kinh tế thuộc đoàn 334 Quân khu 5 xây dựng các công trình thuỷ lợi và trồng bông ở Thuận Hải. Khi chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, trung đoàn bộ binh 812 được chính thức phiên chế 3 tiểu đoàn bộ binh, tiểu đoàn 1, 2, 3 và các phân đội trực thuộc Trung đoàn được cơ động lên triển khai phía Nam tỉnh Đắc Lắc.
Là một đơn vị luôn hoàn thành nhiệm vụ trong những điều kiện hoạt động độc lập, sức cơ động chiến đấu cao. Trong chiến dịch này trung đoàn chiến đấu trong đội hình của sư đoàn và Quân khu, và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Người trung đoàn trưởng và chính uỷ đầu tiên của trung đoàn bộ binh 812 trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam này là thiếu tá Lê Đức Thiện và thiếu tá Trần Đình Quỳ. Các anh là những cán bộ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành ngay trên quê hương đã ra đời trung đoàn mà các anh đang chỉ huy, lãnh đạo.
Tháng 12 năm 1978, thời cơ đã đến độ chín muồi. Tuy cuộc chiến trên chiến trường biên giới vẫn diễn ra quyết liệt và phức tạp, nhưng địa bàn trên hướng Đông Bắc Campuchia vẫn được giữ vững.
Ngày 2-12-1978, “Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia” ra đời. Trong cuộc tổng tiến công này, lực lượng vũ trang Cách mạng hai nước Việt Nam-cách mạng đã sát cánh bên nhau, cùng với nhân dân Campuchia bị áp bức, nổi dậy đập tan chế đột diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon, cứu đất nước Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng, xây dựng lại chính quyền Cách mạng từ trên đống tro tàn.
Ngày 22-12-1978, chiến dịch tổng công kích bắt đầu.
Sau khi trung đoàn bộ binh 812 đánh những trận mở màn chiến dịch, tiêu diệt một lực lượng của trung đoàn bộ binh 81 thuộc sư đoàn bộ binh 801 Pol Pot tại Phinây, mở ra một khoảng trống để cho trung đoàn bộ binh 31 và xe tăng bước vào triển khai đội hình thọc sâu. Địch từ các hướng dồn về cố thủ tại ngã 3 Công hương, ngăn chặn cuộc tiến công như vũ bão của ta. Không bỏ lỡ cơ hội, trong khi trung đoàn bộ binh 31 và xe tăng chưa lên kịp, trung đoàn bộ binh 812 tiếp tục tiến công theo trục đường 19, vào sâu nội địa Campuchia gần chụ km, vượt qua những bài mìn dày đặc và địa hình phức tạp. Các tiểu đoàn bộ binh của trung đoàn 812 tiến công địch liên tục. Bọn địch vừa ngoan cố chống trả, vừa lùi dần từng bước. Lùi đến đâu, chúng rài mìn đến đó và tìm mọi cách để tiến công vào hai bên sườn đội hình của trung đoàn bộ binh 812. Khi xe tăng của ta tiến công trên trục đường 19 thì có 2 tên lính Pol Pot leo lên cây cao bên vệ đường, dùng súng chống tăng B40-B41 bắn chát 2 xe tăng của ta. Bộ binh ta phát hiện được liền bắn hạ chúng rơi xuống đất.
Ngày 25-12-1978, tuyến phòng thủ hướng Đông Bắc của địch gồm 2 sư đoàn bộ binh 801 và 920 đã bị chọc thủng. Sư đoàn bộ binh 309 và các đơn vị trên hướng này của Quân khu 5 tiêu diệt sư đoàn bộ binh 801, giải phóng hoàn toàn thị xã Pô-keo, Lum Phát tỉnh Ratanakiri và thị trấn Cô-nhét thuộc tỉnh Mungđunkiri.
Ngày 26 tháng 12, sư đoàn 920 Pol Pot rút về co cụm tại khu vực núi Xanh. Sư đoàn đã tổ chức một tổ trinh sát do đồng chí Phạm Văn Mai chỉ huy, đi trinh sát mục tiêu này. Qua báo cáo của tổ trinh sát, sư đoàn xác định đúng là Sở chỉ huy sư đoàn 920 của địch đóng tại núi Xanh. Mặc dù gần sát đến ngày tết Nguyên đán, nhưng sư đoàn đã hạ quyết tâm chớp lấy thời cơ tiến công ngay. Ngày 28 tháng 12, sư đoàn thực hiện tiến công Sở chỉ huy sư đoàn 920 địch. Sau 3 giờ chiến đấu, trung đoàn bộ binh 812 đã tiêu diệt được mục tiêu này, thu 2 điện đài 50W, 2 bộ đại phẫu thuật, 2 khẩu cối 120 mm, 3 khẩu ĐKZ75, 100 xe ô tô và nhiều đạn được quân trang quân dụng.
Tại thị xã Von Sai, trung đoàn bộ binh 31 tiến công tiêu diệt Sở chỉ huy sư đoàn 801. Tiểu đoàn bộ binh 7 phối hợp với một số lực lượng khác, do Thượng uý tiểu đoàn trưởng Lê Văn Thuận chỉ huy đã loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn địch, diệt tại chỗ 50 tên.
Sư đoàn bộ binh 307 của Quân khu, giải phóng hoàn toàn thị xã Bung Lung vào ngày 31-12-1978.
Tính từ ngày chiến dịch tổng tiến công được bắt đầu cho đến đầu tháng 1 năm 1979, trên hướng Đông Bắc, các lực lượng vũ trang của Quân khu 5 đã loại khỏi vòng chiến đấu phần lớn lực lượng của 2 sư đoàn bộ binh Pol Pot là sư đoàn bộ binh 801 và 920; thu gần 100 xe quân sự, trên 90 súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự khác. Đã giải phóng được một khu vực rộng lớn gồm các tỉnh Ratanakiri, Mungđunkiri, Strungtreng, phần lớn tỉnh Prêch-vi-hia. Hàng vạn người dân Campuchia được giải phóng thoát khỏi ách kìm kẹp của bọn đao phủ Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon; Quân khu 5 đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ bước 1 của chiến dịch. Toàn bộ số địch còn lại (lực lượng còn khá đông) chạy về hướng Tây Campuchia, dồn về các tỉnh Xiêm Riệp, Ôt-đô-Miên-chay và tỉnh Bát Tam Băng miền Tây Bắc Campuchia.