Vài hôm trước, trước khi mụ Y Tá viếng thăm ngôi nhà, một buổi sáng thức dậy tôi nhìn xuống dưới cửa sổ và bắt gặp một người đàn ông mặc áo vét, đầu đội chiếc mũ cứng của ngành xây dựng, tay cầm một tập hồ sơ đang đứng, quan sát ngôi nhà, có lẽ ông ta là một kỹ sư hoặc một người chuyên vẽ bản đồ địa hình. Điều đó khiến tôi buồn biết bao khi nghĩ tới ngôi nhà, sau tất cả những gì nó đã trải qua, chiến tranh, động đất, nạn đói lại bị rơi vào tay những chuyên viên phát triển bất động sản. Những bức tường dán giấy thanh mảnh và khung gỗ của ngôi nhà đã được thiết kế đặc biệt để dù cho động đất có khiến nó đổ xuống như những que diêm thì người sống bên trong vẫn có cơ hội thoát thân. Khi người ta tới phá hủy ngôi nhà, khi họ chằng những tấm nylon màu xanh nước biển xung quanh nó rồi kết thúc nó bằng một quả cầu bê tông, nó sẽ ra đi không một lời trăng trối, mang theo tất cả những ký ức và bí mật đã được chôn vùi bên trong.
Người kỹ sư và tôi nhìn nhau một lúc lâu, ông ta ngoài trời giá lạnh còn tôi ấm áp trong chiếc chăn quấn quanh người, cho đến khi tay bắt đầu tê cóng và má đỏ ửng thì tôi đóng cửa sổ lại. Lúc đó, tôi bâng quơ nghĩ rằng sự hiện diện của ông ta có nghĩa là hồi kết của chúng tôi trong ngôi nhà này đã tới gần. Tôi không hề nghĩ rằng đoạn kết lại đến theo một cách khác, hoàn toàn bất ngờ.
Tôi vớ lấy một chiếc đèn pin trong bếp rồi lặng lẽ đi dọc theo hành lang, tắt hết đèn đóm dọc đường đi. Có một vài phòng mở cửa toang hoác, phần lớn cửa sổ đều không có cửa chớp hay rèm cửa. Ánh đèn từ tấm biển quảng cáo có hình Mickey Rourke bên ngoài soi chiếu tất cả những gì xảy ra bên trong những căn phòng tĩnh lặng này. Người bên ngoài có thể nhìn thấy mọi chuyện nên tôi phải khom người xuống và di chuyển một cách lẹ làng. Trong phòng mình, tôi rón rén lại gần chiếc cửa sổ, cố thò đầu ra ngoài, cổ vươn ra như sếu để nhìn xuyên qua bãi đất trống giữa hai tòa nhà ra phía con hẻm bên ngoài. Con hẻm vắng tanh, không một tiếng người, không tiếng xe cộ, chỉ có những bông tuyết vẫn đang rơi lặng lẽ. Vệt bánh xe ôtô và vết giày của tôi đã biến mất dưới lớp tuyết mới. Tôi lôi cuộn tiền ra và ném nó lên trên chiếc túi. Nó rơi xuống một cách khẽ khàng nhưng cũng đủ làm cho đám tuyết phía dưới văng tung tóe. Tôi quay vào và quờ quạng tìm quần áo để thay trong bóng tối, ném chiếc váy đi làm ra rồi mặc quần dài, đi giày đế bằng, áo len và áo jacket kéo khóa lên tận cổ.
Anh để nó ở đâu hả Jason? Ở đâu? Tôi nên bắt đầu từ đâu?
Tôi luồn ra cửa, tay vẫn giữ khư khư chiếc đèn pin, răng va vào nhau lập cập. Từ phía phòng của Jason tôi nghe thấy những tiếng thình thịch. Tôi không muốn tưởng tượng ra những hành động bí ẩn và có lẽ rất đau đớn mà anh ta đang trải qua. Nhưng chắc là không phải trong phòng của anh, Jason, như thế thì quá dễ dàng. Ánh sáng từ chiếc đèn pin của tôi đang đùa giỡn trên những cánh cửa im lặng. Tôi để chiếc đèn trong căn phòng dùng làm nhà kho ở bên cạnh phòng tôi. Thậm chí khi bạn không có bản đồ và không có chút dấu vết nào trong tay thì bạn cũng phải bắt đầu cuộc tìm kiếm từ đâu đó. Tôi lom khom tiến về phía cửa nhà kho rồi lẻn vào bên trong, từ từ kéo cánh cửa lại sau lưng để tránh gây tiếng động. Căn phòng trông giống như một bãi chiến trường. Mụ Y Tá và tên chimpira rõ ràng đã mó tay vào mọi thứ, từ những tấm đệm rách nát, những đống vải lụa bị gián nhấm, mốc meo, cũ kỹ, một chiếc hộp đựng khung ảnh, bên trong là những bức chân dung đen trắng của một người phụ nữ lớn tuổi trong trang phục kimono truyền thống. Lớp kính bên ngoài những tấm ảnh này đều đã rạn nứt. Tôi ngồi xổm xuống giữa phòng và bắt đầu lôi các thứ ra xem. Một chiếc nồi cơm điện, một hộp giấy bìa màu vàng, một chiếc thắt lưng obi bằng lụa, trước đây có màu xanh và màu bạc giờ đã vàng ố ở nhiều chỗ và bị gián nhấm thủng lỗ chỗ. Khi tôi chạm tay vào đó, chiếc thắt lưng bở ra, vô số những hạt bụi lóng lánh như những vảy màu trên cánh bướm cụm vào nhau rồi bay lên trong không khí.
Tôi xem xét mọi thứ, càng lúc càng hoang mang, mồ hôi túa ra. Khi tôi sắp kiểm tra hết căn phòng thì có cái gì đó khiến tôi phải dừng lại và ngước mắt nhìn. Những ánh đèn pha đang di chuyển trên trần nhà.
Một nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi. Tôi tắt đèn pin, nhét nó vào trong túi rồi chống tay lên sàn nhà trong tư thế của một vận động viên điền kinh ở vạch xuất phát, mọi thớ thịt trên người căng ra. Tai tôi dỏng lên, hướng ra ngoài căn phòng, tiến vào con hẻm, cố gắng đoán xem chuyện gì đang diễn ra bên ngoài. Ánh đèn bắt đầu di chuyển xuống tường rồi nhanh chóng hợp thành một đường thẳng đứng giống như những vệt sáng phát ra từ con tàu vũ trụ. Con hẻm vẫn im ắng. Rồi đúng lúc tôi nghĩ là mình sắp tắt thở thì tôi nghe thấy tiếng xe ôtô khởi động. Ánh đèn hậu phản chiếu trên cửa sổ, một thứ ánh sáng màu vàng cam. Chiếc ôtô đã dừng lại trong màn tuyết, chờ rẽ trái sang phố Waseda. Tôi nhắm mắt và ngồi thụp xuống, lưng dựa vào tường. “Ôi Chúa ơi, Jason,” tôi thì thào, tay dụi trán. “Tôi đến chết mất thôi.”
Tìm kiếm kiểu này thật vô ích. Mụ Y Tá đã lục lọi tất cả các phòng mà chẳng tìm thấy gì. Vậy thì tôi có thể hy vọng gì chứ? Nhưng tôi có quyết tâm và có đầu óc. Tôi sẽ phải tìm ra cách nhìn xuyên qua trần nhà, qua những bức tường và kết cấu của ngôi nhà. Tôi sẽ phải xem xét những nơi mà mụ ta chưa tìm kiếm. Cố lên nào, tôi đặt hai ngón tay lên mí mắt, hãy cố hình dung ra ngôi nhà bằng một đôi mắt khác. Hình dung ra nó bằng đôi mắt của Jason đêm hôm trước. Hình dung ra bộ xương của ngôi nhà. Anh ta đã nghĩ gì? Khi về nhà đêm hôm qua, anh ta nhìn cái gì trước tiên?
Hình ảnh của ngôi nhà lần lượt hiện lên trong đầu tôi. Tôi nhìn xuyên qua lớp da của nó, tôi thấy những rầm nhà, một khung nhà bằng gỗ với những dây dợ cuốn quanh. Tôi nhìn thấy những cửa sổ. Những chiếc cửa sổ. Những chiếc cửa sổ trong hành lang đang thì thầm điều gì đó rất quan trọng. Chúng đang nói rằng hãy nghĩ cho thật kỹ. Chúng đang nói rằng hãy nhớ lại anh ta trong đêm hôm qua, nhớ lại anh ta ở trước cửa phòng của cô. Chúng tôi đang tranh cãi. Rồi sao nữa? Anh ta bỏ đi. Anh ta cực kỳ tức giận và vẫn còn đang ngà ngà say, rồi anh ta đâm vào những cánh cửa chớp. Anh ta dừng lại một lúc nhìn ra ngoài vườn, khi ra khỏi phòng tôi có nhìn thấy một cửa sổ mở tung, anh ta đứng đó hút thuốc. Rồi anh ta quay vào, đi về phòng và bắt đầu sắp xếp hành lí...
Tôi mở choàng mắt. Sau những cánh cửa chớp mở tung, tuyết vẫn đang rơi xối xả ngoài vườn, lấp lánh và lạnh giá, biến thành những tác phẩm tạo hình ngẫu nhiên. Chiếc túi nylon treo trên cành cây gần như đông cứng lại. Tôi rà soát lại trí nhớ của mình và lập tức nghĩ ra. Jason đứng cạnh cửa sổ, tay cầm cái vật anh ta lấy trộm và...
Giờ thì tôi đã nhìn thấy anh ta một cách rõ ràng, đang mở cửa sổ, lấy đà quăng chiếc túi nylon ra ngoài trời đêm trong cơn dông bão. Chiếc túi bay trên các tán cây, xoay tròn và quay cuồng trong gió trước khi rớt xuống và mắc vào một cành cây mà cho đến lúc này vẫn đang xoắn vặn và đóng băng tại đó. Ôi Jason, tôi ngồi dậy, quỳ gối trên sàn và nhìn chằm chằm vào chiếc túi. Dĩ nhiên rồi. Tôi đã biết nó ở đâu rồi. Nó ở bên trong chiếc túi đó.
Tôi đứng dậy và bước về phía cửa sổ, tì hai bàn tay tê cóng của mình lên ô cửa, da tôi đột nhiên trở nên nhột nhạt khi cảm nhận được từ phía cầu thang một âm thanh rất dè dặt nhưng không lẫn vào đâu được, tiếng cửa trước bị mở ra.