史 Nam Kinh, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười chín tháng Mười một âm lịch)
Ở Nam Kinh, trừ những đám mây tuyết, vạn vật đều bất động, mọi con sông, dòng suối, núi non, cỏ cây hoa lá đều ủ rũ và đờ đẫn, kiệt quệ trong một mùa đông vốn thuộc về người Nhật này. Ngay cả dòng sông Dương Tử vốn cuồn cuộn như rồng cuốn cũng ngừng chảy, tức tưởi, lờ đờ, nghẽn lại với hàng trăm nghìn xác chết vứt đầy sông. Và rồi tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký mà tôi đã tưởng rằng sẽ không bao giờ có cơ hội viết nữa. Đó là vào một buổi chiều trong sáng và sự yên bình ngự trị trở lại trong căn nhà khi mọi chuyện đã xong. Giống như một phép màu. Tay tôi cứng cáp và rám nắng, một dòng mực nhạt đang chảy ra từ những đầu ngón tay. Quả là một phép màu khi thò tay vào bên trong lớp áo khoác và sờ thấy trái tim vẫn nguyên nhịp đập.
Trong số đồ đạc chúng tôi mang theo, Thu Kim bọc thìa, đũa và mấy con dao trong một miếng vải rồi đặt nó vào một cái hộp đựng tiền bằng gỗ đàn hương cùng với một chiếc vòng đeo tay màu đen của trẻ con có chiếc khánh hình đức Phật. Tôi phải thuyết phục mãi để cô ấy khỏi thêm vào đó cả mấy quả trứng sơn đỏ. “Thu Kim, sẽ không có đầy tháng hay lễ chào đời đâu.” Tôi nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng.
Cô ấy không trả lời. Nhưng cô ấy cũng lấy mấy quả trứng đó ra khỏi túi rồi mang vào trong phòng ngủ, cuốn chúng lại trong chăn rồi đặt chúng như một cái tổ chim ở trên giường chờ tới ngày chúng tôi trở về.
“Mình ổn chứ?” Tôi lo lắng hỏi khi thấy cô ấy đi xuống mặt trắng bệch. “Mình có khỏe không?”
Cô ấy chỉ lẳng lặng gật đầu rồi lấy ra một đôi găng tay. Cô ấy mặc rất nhiều quần áo: hai chiếc áo dài chồng lên nhau, một chiếc quần len và một đôi ủng lông. Mặt chúng tôi bôi than đen sì, hai chiếc thẻ tị nạn đính bên ngoài áo. Ra tới cửa, chúng tôi dừng lại và nhìn nhau. Trông chúng tôi như hai kẻ xa lạ. Một lúc lâu sau, tôi hít một hơi thật sâu rồi nói: “Đi thôi, đến lúc phải đi rồi.”
“Vâng, đã đến lúc rồi,” cô ấy nói một cách từ tốn.
Bên ngoài, tuyết rơi nhẹ nhưng ánh trăng sáng chiếu xuyên qua những bông tuyết khiến chúng trông như đang nhảy múa rộn ràng. Chúng tôi đi tới đường Trung Ương rồi dừng lại. Không có Lưu Nhuận Đức, người vốn rất thạo đường, tôi cảm thấy không được vững tâm. Phía trước chúng tôi khoảng một trăm mét, tôi nhìn thấy một con chó đang nằm ngửa trên tuyết, trương phồng, bốn chân giạng ra hết cỡ, chĩa lên trời giống như một chiếc ghế đẩu bị lật. Một vài ngôi nhà đã bị thiêu rụi kể từ lần cuối cùng tôi có mặt ở đây, nhưng không có bất kỳ dấu vết nào sót lại trên tuyết, và đường phố vắng tanh. Tôi không biết ông Lưu định vượt qua cổng Thái Bình bằng cách nào, chẳng có linh tính hay cái la bàn nào có thể xác định được cái gì đã diễn ra trong đầu ông. Nhúm tóc của ông vẫn nằm trong găng tay của tôi, áp vào vết bỏng trên lòng bàn tay tôi và tôi khẽ nắm chặt tay lại. “Đây rồi, phía này. Đúng là phía này rồi,” tôi nói một cách chắc chắn rồi dựng cổ áo khoác lên tới tận tai để tránh tuyết. Chúng tôi đi trong im lặng. Núi Tử Kim sừng sững phía đằng trước, dữ dằn và tuyệt đẹp dưới bầu trời đầy sao. Phố xá vắng ngắt nhưng chúng tôi vẫn cảnh giác nhìn ngó từng góc phố. Chúng tôi đi rất chậm, vừa đi vừa nép sát vào tường, sẵn sàng bỏ chiếc xe kéo và chạy trốn vào các con hẻm nhỏ khi cần thiết. Thu Kim tuyệt đối im lặng, và trong một lúc lâu, tôi không nghe thấy bất cứ tiếng động nào khác ngoài tiếng bước chân của hai vợ chồng và tiếng tim tôi đập thình thịch. Một lần tôi có nghe văng vẳng tiếng xe tải trên đường Trung Sơn, nhưng chỉ tới khi đi qua khu vực Tuyên Vũ, chúng tôi mới thấy bóng người đầu tiên: một người đàn ông lớn tuổi đang cúi đầu nặng nhọc bước về phía chúng tôi, vai đeo quang gánh với hai chiếc giỏ tre nặng trĩu hai bên. Dường như ông đang đi về hướng chúng tôi vừa tới, mỗi bên giỏ là một đứa trẻ con đang ngủ, tay thõng xuống và đong đưa bên ngoài chiếc giỏ, tuyết đậu trên đầu chúng. Ông không có vẻ gì là nhận ra chúng tôi vì không thấy ông chớp mắt hay cúi đầu chào mà chỉ lầm lũi tiến thẳng về phía chúng tôi. Khi ông tới gần, chúng tôi mới thấy là ông đang khóc.
Thu Kim dừng lại khi ông bước đến.
“Chào bác,” cô ấy thì thầm khi ba chúng tôi đi song song với nhau, “bác có ổn không?”
Ông không trả lời, cũng không đi chậm lại hay quay sang nhìn cô ấy.
“Xin chào? Các cháu có ổn không ạ?” Cô ấy hỏi lại.
Cứ như thể là cô ấy không hề nói gì. Người đàn ông lớn tuổi vẫn tiếp tục khập khiễng đi dọc phố, mắt dán vào một điểm xa xăm.
“Xin chào?” Cô ấy nói to hơn. “Bác có nghe tôi nói không? Bọn trẻ thế nào?”
“Suỵt,” tôi túm tay kéo cô ấy lên vệ đường, chỉ sợ cô ấy nói quá to. “Đi thôi.”
Người đàn ông vẫn tiến về phía trước dưới làn mưa tuyết lất phất. Chúng tôi đứng im nhìn bước chân ông loạng choạng dưới đống hành lý, một bóng ma trong chiếc áo choàng cũ.
“Em chỉ muốn biết bọn trẻ con thế nào,” cô ấy lẩm bẩm.
“Tôi biết, tôi biết.”
Thế rồi cả hai chúng tôi đều im lặng, tránh nhìn vào mắt nhau vì câu trả lời thật rõ ràng. Một đứa trẻ thì đang ngủ, còn đứa kia, một thằng con trai, nằm thụt sâu trong chiếc giỏ phía bên phải thì không hề ngủ. Nó đã chết từ lâu. Chỉ cần nhìn qua cũng biết.
Đến nửa đêm thì chúng tôi tới gần khu trại lính. Tôi biết khu vực này rất rõ. Khi còn là sinh viên tôi thường đi qua đây để tới thăm hồ Tuyên Vũ, và tôi biết chúng tôi đang ở rất gần khu tường thành. Tôi tìm thấy trong một ngôi nhà bỏ hoang một chiếc rương đựng quần áo bằng gỗ hồng tâm cháy sém, và chỉ cần trèo lên đó và nhìn qua những kẽ hở của ngôi nhà đã bị phóng hỏa là tôi có thể thấy cổng thành Thái Bình.
Tôi đặt ngón tay lên môi, thò đầu ra một chút nữa cho tới khi nhìn thấy bức tường thành dài hai trăm mét. Ông Lưu đã nói đúng. Bức tường thành đã bị bắn thủng nhiều chỗ và những đống gạch ngói đổ nát nằm ngổn ngang khắp nơi. Ngay phía trước cổng thành có hai tên lính gác đội mũ kaki đứng nghiêm, ánh sáng duy nhất tỏa ra từ chiếc đèn nhà binh để trên các ụ bắn xây bằng các túi cát. Sau lưng chúng, bên ngoài tường thành, một chiếc xe tăng Nhật nằm ngay giữa đống đổ nát với một lá cờ nhem nhuốc.
Tôi trèo xuống khỏi cái rương. “Chúng ta sẽ đi về hướng Bắc.” Tôi phủi tay rồi chỉ về phía trước mặt. “Đường này. Chúng ta sẽ phải tìm một lỗ hổng trên tường thành.”
Chúng tôi rón rén đi sang con hẻm nhỏ bên cạnh ngôi nhà, bám sát vào tường. Đây là phần nguy hiểm nhất trong lộ trình của chúng tôi. Nếu vượt qua được bức tường chúng tôi sẽ vượt qua được trở ngại lớn nhất. Chỉ cần chúng tôi vượt qua được bức tường...
“Đây rồi. Đây rồi.” Cách cổng thành khoảng một trăm mét tôi vô tình nhìn xuyên qua một hàng rào và thấy đằng sau một miếng đất bị thiêu trụi và bỏ hoang có một lỗ hổng lớn hình chữ V trên tường thành, đất đá chất thành đống phía sau. Tôi kéo tay Thu Kim. “Là chỗ đó.”
Chúng tôi đi ra đường chính, thò đầu ra nhìn dọc theo bức tường thành. Tất cả đều im ắng. Chúng tôi có thể nhìn thấy ánh đèn le lói từ phía những tên lính canh ở phía Nam tường thành. Ở phía Bắc này, tuyết lặng lẽ rơi trong bóng tối, lấp lánh dưới ánh trăng.
“Chúng có thể ở phía bên kia tường,” Thu Kim thì thào. Tay cô ấy vỗ nhẹ lên bụng một cách vô ý thức. “Nếu chúng đang đợi mình ở bên kia tường thì sao?”
“Không đâu,” tôi có nói với một giọng chắc chắn và cố nhìn thẳng vào mắt thay vì nhìn xuống tay cô ấy. Phải chăng cô ấy lại linh cảm thấy một điềm báo gì mà không muốn nói với tôi? “Tôi thề với mình là chúng không có ở đó. Chúng không ở đó đâu. Chúng ta phải vượt qua chỗ này thôi.”
Chúng tôi băng qua mảnh đất trống, người cúi gập, chiếc xe kéo trượt trên mặt đất gồ ghề khiến chúng tôi bị trượt chân và suýt ngã mấy lần. Khi tới được bên bức tường, chúng tôi cúi xuống, nấp đằng sau chiếc xe, thở hổn hển và nhìn ra xung quanh. Tất cả đều yên ắng. Tuyết vẫn quay cuồng, xoáy trong gió nhưng không thấy ai hét lên hay chạy lại chỗ chúng tôi.
Tôi đặt tay lên tay cô ấy và chỉ vào đống đất đá phía sau lỗ hổng. Nó không cao lắm, tôi trèo lên đó dễ dàng rồi quay lại và nắm lấy hai càng của chiếc xe kéo. Thu Kim cố hết sức nhưng không tài nào nâng được đuôi xe lên và đẩy nó về phía tôi. Tôi phải quay lại và dùng hết sức đẩy chiếc xe lên trước, chân tôi trượt trên lớp đá và khiến vài viên đá rơi xuống và gây ra một tiếng động mà tôi chắc là có thể đánh thức tất cả lính Nhật ở Nam Kinh.
Cuối cùng tôi cũng lên được tới đỉnh của bãi đá và thả cho chiếc xe lăn lông lốc xuống dốc rồi đổ ầm sang một bên, tất cả đồ đạc văng tung tóe trên tuyết. Tôi đưa tay cho Thu Kim, từ từ giúp cô ấy leo lên từng chút một vì cơ thể cô ấy đã bắt đầu trở nên nặng nề. Mắt Thu Kim không rời khỏi tôi. Chúng tôi nửa bò, nửa trượt tới chỗ chiếc xe bị đổ, nhặt lấy bất cứ thứ gì có thể, ném chúng vào xe rồi chạy đại vào đám cây cối um tùm gần đó. Tôi lôi xềnh xệch chiếc xe kéo ở phía sau còn Thu Kim thì cúi gập người khi chạy, tay ôm theo một đống quần áo.
“Chúng ta đã làm được,” tôi thở hổn hển. Chúng tôi đứng tụm lại dưới tán cây. “Tôi nghĩ là chúng ta đã làm được rồi.” Tôi đưa mắt nhìn ra xung quanh. Trời tối, tôi chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy phía bên tay phải vài ngôi nhà lụp xụp, tối om và chắc là không có người ở. Trên cái bóng của bức tường thành đổ trên mặt đất có một vệt bánh xe chạy dài, và cách cổng thành khoảng hai mươi mét, một con dê đang bị buộc dưới gốc cây. Ngoài ra, không có lấy một bóng người. Tôi quay đầu lại và thở phào nhẹ nhõm. “Đúng vậy, đúng là chúng ta đã làm được.”
Thu Kim không trả lời. Mặt cô ấy hình như không sưng lên nhưng hơi cau lại và có gì đó rất căng thẳng. Không chỉ là nỗi sợ hãi. Cô ấy gần như chẳng nói một lời suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua.
“Thu Kim, mình ổn chứ?”
Cô ấy gật đầu nhưng tôi để ý thấy cô ấy tránh không nhìn vào mắt tôi. Mối bất an trong lòng tôi lại dâng lên. Tôi biết là chúng tôi không nên nghỉ lại ở đây mà phải tìm tới ngôi nhà của vị thương gia buôn muối càng nhanh càng tốt. “Đi nào,” tôi nói và chìa tay ra cho cô ấy, “Chúng ta phải tiếp tục thôi.”
Chúng tôi chất hết các thứ lên xe, bước ra khỏi gốc cây và bắt đầu di chuyển, quan sát xung quanh với vẻ khó tin, ngạc nhiên rằng chúng tôi đã ở đây, giống như những đứa trẻ lạc vào thế giới ma thuật. Phố xá ở đây hẹp hơn, nhà cửa thưa thớt hơn và con đường dưới chân thì bẩn thỉu và ngập rác. Núi Tử Kim sừng sững bên tay phải chúng tôi, che khuất cả những vì sao, còn xa xa phía bên tay trái là đống đổ nát đen kịt của thành phố Nam Kinh. Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và say sưa với ý nghĩ là chúng tôi đã được giải thoát khỏi Nam Kinh.
Chúng tôi rảo bước, thỉnh thoảng lại dừng lại nghe ngóng. Ánh lửa cháy bập bùng phía sau năm hòn đảo trên hồ Tuyên Vũ. Chúng tôi đoán rằng đó là một doanh trại lính Nhật, và quyết định rời khỏi đường chính rẽ về phía chân núi, men theo một trong các mương nước lớn, ngập úng do mưa bão gây ra. Thỉnh thoảng tôi phải bỏ Thu Kim, trườn theo các bờ kè nhỏ để kiểm tra cho chắc là chúng tôi vẫn đi song song với đường lớn. Nếu cứ tiếp tục thế này chúng tôi sẽ tới được Xóa Lộ Khẩu.
Chúng tôi không nhìn thấy một ai, không một bóng người, không một bóng thú, nhưng lòng tôi vẫn không yên. Tôi càng lúc càng thấy lo cho Thu Kim. Chưa bao giờ cô ấy có vẻ căng thẳng đến thế. Thỉnh thoảng cô ấy lại quên mất, đặt tay lên xoa bụng.
“Nghe này,” tôi đi chậm lại và thì thào với cô ấy. “Lần sau, lúc nào tuyết quang một lúc thì để ý xem đường này rẽ đi đâu.”
“Cái gì cơ?”
“Ở kia kìa, mình có thấy không, chỗ mấy cái cây ấy?”
Cô ấy nheo mắt nhìn ra xa. Trên một cánh đồng mía dại đã cháy trụi thấp thoáng bóng một chiếc ròng rọc phủ đầy tuyết trông rất ma quái, như một con nhện quắp lấy cái giếng nước ở phía dưới. Bên cạnh nó là một hàng rào cây bụi dùng để phân chia mốc giới.
“Một vườn dâu. Nếu chúng ta tới được đó chúng ta có thể nhìn thấy vùng ngoại ô của Xóa Lộ Khẩu. Chúng ta đã rất gần rồi. Đó là tất cả những gì mình sẽ phải làm, chỉ còn mấy bước nữa thôi...”
Tôi chợt dừng lại.
“Trùng Minh?”
Tôi đặt tay lên môi, nhìn xuống đoạn dốc đang chìm trong bóng tối. “Mình có nghe thấy gì không?”
Cô ấy nhíu mày, vươn đầu ra phía trước chăm chú nghe ngóng. Một lúc sau cô ấy quay lại nhìn tôi. “Cái gì vậy? Mình nghĩ là mình đã nghe thấy gì?”
Tôi không trả lời. Tôi không thể nói rằng tôi vừa nghe thấy cái tiếng động quen thuộc của tên quỷ dữ vang lên đâu đó gần đây trong bóng tối.
“Cái gì vậy?”
Từ phía rặng cây ở phía trái con đường xuất hiện một vệt đèn pha rồi tiếng động cơ gầm rú xé tai. Một chiếc môtô xuất hiện, cách chúng tôi khoảng hai trăm mét, nhảy chồm lên một bờ đất, rồi lấy lại thăng bằng trên một mô đất cao hơn, xoay một vòng, tuyết bắn ra tung tóe từ dưới bánh xe. Nó dừng lại như thể đang chờ để tiến thẳng về phía chúng tôi.
“Chạy thôi!” Tôi chộp lấy tay Thu Kim, đẩy cô ấy lên con dốc ở phía trước rồi kéo xe chạy theo sau. “Chạy đi! Chạy đi!”
Sau lưng tôi, tên lái môtô đang nổ máy. Tôi không biết hắn có nhìn thấy chúng tôi hay không nhưng hình như hắn đang có ý định đi về cùng hướng với chúng tôi. “Chạy tiếp đi, chạy tiếp đi.” Tôi bước loạng choạng trên nền tuyết cứng, chiếc xe kéo oằn oèo sau lưng chỉ chực lật nghiêng.
“Phía nào cơ?” Thu Kim gọi với lại. “Phía nào cơ?”
“Đằng trước ấy, về phía núi.”