Bên ngoài trời lạnh cóng. Tuyết rơi xối xả như đang trong một cơn bão. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi tôi ở trong câu lạc bộ mà tuyết đã kịp rơi kín vỉa hè và phủ đầy trên nóc những chiếc ôtô đang đỗ bên vệ đường. Tôi đứng trong một góc khuất của tòa nhà, ngay cạnh chiếc cầu thang máy và nhìn ra bên ngoài. Trong màn tuyết trắng xóa, tôi chỉ có thể nhìn thấy những gì ở cách tôi từ hai mươi mét trở lại nhưng tôi có thể cảm nhận được cả khu phố đang im lặng một cách bất thường. Không thấy ai đi trên vỉa hè, không thấy chiếc xe ôtô nào trên phố, chỉ có con quạ chết đóng băng bên miệng cống. Như thể Mama Strawberry đã đúng khi nói có một điềm xấu đang luồn lách khắp Tokyo.
Tôi giở tiền ra đếm. Tay tôi run bắn khiến tôi phải đếm đi đếm lại hai lần mà vẫn nghĩ là mình nhầm. Tôi đứng lặng đi một lúc, nhìn chằm chằm vào đống tiền trên tay. Đó không phải là tiền lương cho một tuần như tôi đoán. Strawberry đã đưa cho tôi ba trăm nghìn yên, gấp năm lần số tiền bà phải trả. Tôi nhìn xuyên qua màn tuyết lất phất lên tầng thứ năm mươi của tòa nhà, lên cái câu lạc bộ nơi nàng Marilyn vẫn đang đung đưa trên chiếc xích đu. Tôi nghĩ tới Strawberry trong bản sao những chiếc đầm của Marilyn Monroe và một cuộc đời vây quanh bởi những tay găngxtơ và những người bồi bàn trẻ tuổi. Tôi chợt nhận ra tôi chẳng biết gì về bà. Tất cả những gì tôi biết là bà có một người mẹ đã qua đời, một người chồng đã chết và ngoài hai người đó ra thì bà hoàn toàn đơn độc trên thế giới này. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ thật sự nhận ra những người vẫn quan tâm tới bạn cho tới tận khi họ đột ngột ra đi.
Ở ngã tư, một chiếc xe hơi đang từ từ lướt qua, tuyết bay rào rào trước đèn pha. Tôi thụt sâu vào gần tường, kéo cổ áo khoác lên và siết chặt lớp vải mỏng quanh cổ, người run lên vì lạnh. Strawberry có ý gì khi bảo tôi không nên dùng chiếc thang máy bằng kính? Bà có thật sự nghĩ rằng tay chân của Fuyuki đang rình mò trên phố? Chiếc xe ôtô biến mất sau tòa nhà và phố xá lại trở nên yên tĩnh. Tôi ngó ra ngoài. Cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và mạch lạc. Hộ chiếu, sách vở và mọi ghi chép của tôi vẫn nằm trong con hẻm bên hông ngôi nhà. Tôi không thể gọi điện cho Jason vì chắc là mụ Y Tá sẽ nghe trộm. Tôi phải quay trở lại ngôi nhà đó. Chỉ một lần thôi.
Tôi vội vã đếm lại số tiền của Strawberry và chia nó ra làm hai phần, mỗi bên một trăm năm mươi ngàn yên và để vào hai bên túi áo khoác. Rồi tôi đút tay vào túi và rời khỏi tòa nhà. Tôi bước nhanh ra khu phố phía sau và có cảm giác như mình đang lạc vào một thế giới kỳ diệu, những bông tuyết trắng rơi lất phất trên những cục điều hòa gắn bên ngoài, trên những hộp thức ăn bằng sơn mài xếp bên ngoài cửa hậu để những người giao hàng tới lấy đi. Tôi lại ăn mặc không phù hợp, áo khoác thì quá mỏng cộng thêm đôi giày cao gót để lại những dấu vết kỳ quặc phía sau. Đây là lần đầu tiên tôi đi giày cao gót trên tuyết.
Tôi bước đi lặng lẽ, băng qua ngã tư gần đền Hanazoro với những chiếc đèn lồng màu đỏ ma quái rồi lại chui vào một ngõ nhỏ. Tôi đi qua những cửa sổ sáng đèn, những chiếc quạt sưởi bốc hơi. Tôi nghe thấy tiếng tivi và tiếng người trò chuyện, nhưng suốt cả quãng đường tôi chỉ nhìn thấy một hoặc hai người. Tokyo dường như đang đóng kín mọi cánh cửa. Ai đó trong thành phố này, ai đó ở sau một trong những khung cửa kia, đang có trong tay thứ mà tôi tìm kiếm. Một thứ gì đó không lớn lắm. Chỉ nằm vừa vặn trong một chiếc lồng kính nhỏ. Thịt người. Nhưng không phải là cả một cái xác. Có lẽ chỉ là một bộ phận nào đó. Người ta có thể giấu một miếng thịt người ở đâu chứ? Và tại sao? Tại sao lại có người muốn đánh cắp nó? Tôi chợt nhớ đến một câu trong cuốn sách ngày xưa tôi đã đọc, hình như là của Robert Louis Stevenson thì phải: “Những kẻ đi cướp xác, không coi những quy luật tự nhiên ra gì vẫn thường bị hấp dẫn bởi tính an toàn và dễ dàng của việc làm này...”
Tôi đi theo một đường vòng cung quanh Takadanobaba để về nhà bằng con hẻm nhỏ nằm giữa hai tòa nhà. Tôi dừng lại, nấp sau một chiếc máy giải khát tự động Calpis đang phát ra những quầng sáng màu xanh nhấp nháy, thận trọng thò đầu ra quan sát con hẻm. Con hẻm vắng ngắt. Tuyết vẫn rơi lặng lẽ, lấp lánh dưới ánh sáng của những ngọn đèn lồng treo bên ngoài một nhà hàng xúp ramen. Ở phía bên trái tôi là ngôi nhà tối om và lạnh lẽo, che kín cả bầu trời. Tôi chưa bao giờ nhìn ngôi nhà từ vị trí này, nó có vẻ lớn hơn tôi nghĩ, sừng sững như một khối núi, lớp ngói cong cong trông gần như gớm ghiếc. Tôi nhận ra mình đã quên kéo rèm cửa sổ phòng, và tôi nghĩ tới chiếc đệm đang nằm trong im lặng, nghĩ tới những bức tranh Tokyo trên tường, tới hình ảnh câm lặng của tôi và Jason đang đứng dưới những dải thiên hà.
Tôi thò tay vào túi lôi ra chùm chìa khóa. Tôi cẩn thận nhìn quanh lần nữa trước khi bước vào con hẻm nhỏ, đi sát vào bên hông của ngôi nhà. Tôi nhìn lên khe hở giữa hai tòa nhà và ngó lên chiếc máy điều hòa. Chiếc túi du lịch của tôi vẫn nằm đó, chìm trong bóng tối và phủ đầy tuyết. Tôi tiếp tục bước đi sát ngôi nhà, ngay dưới cửa sổ phòng tôi. Khi chỉ còn cách khúc ngoặt khoảng mười mét thì có cái gì đó khiến tôi dừng lại. Tôi nhìn xuống chân mình.
Tôi đang đứng trong một cái rãnh dài và đen màu nhựa đường. Tôi chớp mắt nhìn. Không hiểu sao linh tính lại mách bảo tôi đứng lại. Và rồi tôi nhận ra, dĩ nhiên, đó là một vệt bánh xe ôtô. Một chiếc ôtô vừa đỗ ở đây không lâu. Mạch tôi đổ dồn. Các dấu vết bắt đầu hiện ra một cách rõ ràng. Chiếc xe hơi hẳn đã đỗ ở đây khá lâu vì vết bánh xe còn hằn lại rất rõ, một đống đầu lọc thuốc nằm trên mặt đất, ngay dưới vị trí cửa sổ của lái xe, như thể những người trong xe đã cố tình chờ đợi cái gì đó. Tôi vội vàng quay trở lại trong bóng tối, máu đông lại. Vệt bánh xe chạy dài ra đằng trước về hướng phố Waseda nơi thường có một hoặc hai chiếc xe ôtô im lìm chạy dưới tuyết. Ngoài vệt bánh xe này ra thì cả con hẻm vắng hoe. Tôi thở phào và ngước nhìn những ô cửa sổ trên ngôi nhà cũ kỹ xiêu vẹo, chỉ thấy thấp thoáng những ánh đèn vàng lấp lóe. Mọi chuyện có vẻ bình thường. Không có gì nghiêm trọng, tôi tự nhủ, liếm đôi môi nhức nhối và nhìn chằm chằm xuống vệt bánh xe trên mặt đất. Chẳng có gì đáng phải lo. Mọi người vẫn thường đỗ xe trong ngõ đấy thôi vì tìm được một chỗ vắng vẻ riêng tư ở Tokyo đâu phải chuyện dễ.
Tôi tiếp tục men theo con hẻm, tránh cái bóng của chiếc xe ôtô như thể nó là một cái bẫy ma quái. Tôi đi sát vào tường, vai quệt vào những đám tuyết đậu trên hàng rào sắt của tầng trệt ngôi nhà. Tới khúc rẽ, tôi nép vào tường, hé mắt nhìn ra phía cửa chính của ngôi nhà. Cửa đóng im ỉm y như lúc tôi bỏ đi, tuyết chất thành đống ở đằng trước. Tôi liếc nhìn con phố vắng tanh trước mặt thêm lần nữa. Dù không nhìn thấy một bóng người, tôi vẫn không khỏi run lập cập khi bước tới cửa ngôi nhà và hấp tấp tra chìa khóa vào ổ.
Jason vẫn để tivi. Từ dưới bậu cửa phòng Jason tuôn ra một dòng ánh sáng màu xanh nhấp nháy, nhưng chiếc đèn hành lang đã bị mụ Y Tá đập nát nên ngôi nhà tối om một cách bất thường. Tôi chậm rãi leo lên cầu thang, trống ngực đập thình thịch, lúc nào cũng tưởng tượng ra có cái gì đó đang từ trong hành lang lao vút về phía mình. Tới đầu cầu thang, tôi dừng lại dưới ánh đèn mờ ảo, thở hắt ra, những ký ức đêm qua chợt hiện về, giống như những chiếc bóng đang chạy dài trên bức tường trước mặt. Cả ngôi nhà im ắng. Không một hơi thở hay một tiếng cót két. Ngay cả tiếng lá cây xào xạc trong vườn cũng bị vùi trong tiếng tuyết rơi.
Tôi tới phòng của Jason, răng va vào nhau lập cập. Tôi nghe thấy tiếng anh ta thở trong chiếc tủ đựng quần áo, một tiếng thở tắc nghẽn, đặc máu, trở nên gấp gáp hơn khi tôi đẩy cánh cửa. “Jason?” Tôi gọi khẽ. Căn phòng lạnh ngắt và tràn ngập một thứ mùi hữu cơ rất khó chịu, giống như mùi phân của động vật. “Anh có nghe thấy không.”
“Ừ.” Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta xê dịch một cách đau đớn trong tủ quần áo. “Cô có nói chuyện được với ai không?”
“Họ đang trên đường tới đây,” tôi nói khẽ rồi trèo qua chiếc bàn và lặng lẽ thả người vào trong phòng. “Nhưng anh không thể ngồi đây mà đợi, Jason, anh phải ra khỏi đây ngay bây giờ. Mụ Y Tá đang quay trở lại.” Tôi đứng cạnh tủ quần áo, đặt tay lên cánh cửa. “Đi nào, tôi sẽ giúp anh xuống cầu thang và...”
“Cô định làm gì thế? Cô định làm cái chết tiệt… Lùi lại ngay. Tránh xa cái tủ quần áo ra.”
“Jason! Anh phải đi khỏi đây ngay lập tức!”
“Cô nghĩ là tôi không nghe thấy cô nói gì sao. Tôi nghe thấy rồi. Giờ thì tránh xa cái cửa tủ khốn kiếp này ra!”
“Nếu anh tiếp tục la hét tôi sẽ không đi đâu cả. Tôi chỉ muốn giúp anh.”
Anh ta phát ra một âm thanh giận dữ rồi tôi nghe thấy tiếng anh ta lùi sâu vào phía trong, hơi thở gấp gáp. Một lúc sau khi đã bình tĩnh hơn một chút, anh ta ghé miệng gần cánh cửa. “Nghe này, hãy nghe cho kỹ...”
“Chúng ta không có thời gian để mà...”
“Tôi nói là hãy nghe đây! Tôi muốn cô đi vào trong bếp. Có một đống giẻ ở dưới bồn rửa bát. Hãy lấy cho tôi càng nhiều càng tốt, rồi lấy cho tôi cả khăn tắm hay bất cứ cái gì cô tìm thấy.” Anh ta đang cố gắng đứng lên. Từ phía trong tủ quần áo một vũng nhầy nhầy, sền sệt lẫn cả với tóc, trượt xuống sàn nhà rồi đóng băng lại. Tôi không thể rời mắt khỏi chúng. “Rồi lấy chiếc túi ở trên móc treo quần áo, và vali của tôi nữa, nó vẫn còn ở ngoài cửa chứ?”
“Vâng.”
“Mang cho tôi tất cả mọi thứ trong cái vali rồi tôi muốn cô tắt đèn và rời khỏi đây. Tôi sẽ tự lo liệu phần còn lại.”
“Tắt đèn à?”
“Đây không phải là một cuộc triển lãm quái dị. Tôi không cần cô giương mắt ra nhìn tôi.”
Lạy Chúa, tôi nghĩ rồi trèo qua chiếc bàn ra ngoài. Mụ ta đã làm gì anh? Có phải giống như mụ ta đã làm với Bison. Ông ta đã chết. Chết vì những gì mụ ta đã làm. Trên các cửa sổ, những cánh cửa chớp đều mở tung. Ngoài vườn, tuyết vẫn rơi, những bông tuyết màu xám to như nắm đấm xoay tròn và rơi chồng lên nhau, bóng chúng trải dài trên sàn nhà. Chiếc túi nylon vắt trên cành cây chiếu trên tường một cái bóng dài, như hình chiếc đèn lồng. Tôi không thể nhớ nổi ngôi nhà đã bao giờ lạnh đến thế này chưa, như thể không khí đã đóng băng trong các phòng. Tôi ôm lấy một đống giẻ trong bếp rồi đi lấy khăn tắm trong phòng tắm. Tôi run rẩy trèo qua chiếc bàn.
“Để chúng ở gần tủ. Tôi đã nói là đừng có nhìn về phía tôi.”
“Còn tôi thì nói là đừng có hét lên!” Tôi lại trèo ra ngoài kéo chiếc vali của anh ta về phía cửa, nhấc nó lên bàn rồi thả xuống sàn. Sau đó tôi ra chỗ mắc áo ở đầu cầu thang để lấy chiếc túi treo phía dưới những chiếc áo khoác. Trong khi nhấc đống áo khoác và jacket ra khỏi mắc để lấy chiếc túi, tôi vẫn dỏng tai lên nghe mọi âm thanh vang lên từ phía con hẻm bên ngoài, lúc nào cũng tưởng tượng ra cảnh mụ Y Tá lặng lẽ đi dọc theo con phố tới trước cửa nhà chúng tôi nhìn lên các cửa sổ và quyết định sẽ làm gì để...
Tôi chợt sững lại.
Chiếc túi của Jason.
Tôi đứng bất động nhìn chăm chăm vào chiếc túi, chỉ có lồng ngực phập phồng theo hơi thở dưới lớp áo khoác. Một ý nghĩ kỳ lạ bỗng siết chặt lấy tôi. Ngôi nhà vẫn im ắng, ngoại trừ tiếng sàn nhà kêu lách cách vì giá lạnh và tiếng Jason cựa quậy trong tủ quần áo. Anh ta đã đeo chiếc túi này trong bữa tiệc tại nhà Fuyuki. Người như mụ đi, tôi bàng hoàng nhìn dọc cái hành lang im ắng, dài hun hút rồi quay về phía cửa phòng của anh ta. Jason ư? Tôi chợt nghĩ, máu như đông lại trong huyết quản. Jason ư?
Tôi sờ tay lên chiếc túi và nhìn nó đăm chiêu. Nghe này, anh ta nói khi tới phòng tôi sau khi trở về từ bữa tiệc. Lúc đó anh ta cũng đeo chiếc túi này. Tôi nhớ rất rõ. Hai chúng ta đều có đúng cái mà người kia cần. Và anh sẽ kể cho em một chuyện mà em sẽ rất thích. Đột nhiên tôi không còn tưởng tượng ra mụ Y Tá đang lảng vảng ngoài ngõ nữa, mà thay vào đó, là cảnh mụ đang vội vàng đi qua một bể bơi phản chiếu bầu trời đêm đen thẫm, một chiếc đèn báo động màu đỏ nhấp nháy phía trên đầu mụ ta. Đêm hôm qua, tôi đã không nhìn thấy Jason đi cùng mụ Y Tá khi Fuyuki lên cơn sốc. Đúng là chỉ có vài phút thôi, nhưng trong lúc rối loạn, mọi chuyện đều có thể xảy ra…
Thận trọng, chậm rãi, tôi rón rén mở khóa và thò tay vào bên trong chiếc túi. Tay tôi chạm vào những chiếc khăn giấy, những bao thuốc lá và một đôi tất. Tôi thò tay vào sâu hơn. Một chùm chìa khóa và một cái bật lửa. Và rồi trong góc túi có cái gì đó giống như lông thú. Tôi dừng tay lại. Một vật gì đó có lông và rất lạnh, cỡ bằng con chuột. Tôi đứng im, tóc gáy dựng ngược lên. Jason? Đây là cái gì vậy? Tôi sờ vào vật đó lần nữa, chạm phải một lớp bề mặt giống như da của động vật chết và rồi tôi chợt nhớ ra một chuyện. Tôi hít một hơi dài rồi kéo cái vật đó ra ngoài, kinh ngạc nhìn nó chằm chằm. Đó là một con gấu nhồi bông làm bằng da thật dài khoảng mười lăm centimet. Ở mũi nó có xỏ một chiếc nhẫn tết bằng dây màu vàng và đỏ, và tôi nhận ra ngay đó là con gấu chiến bị mất của Irina. Anh chàng đó là một người rất kỳ lạ. Tôi nhớ có lần cô ấy nói. Anh ta toàn xem những bộ phim kinh khủng và anh ta còn có tật ăn trộm. Cô có biết không? Lấy trộm con gấu của tôi, găng tay của tôi, thậm chí cả bức ảnh của ông bà tôi nữa...
“Này, chuyện quái quỷ gì ở đó thế?” Jason đột nhiên kêu lên.
Tôi không trả lời. Tôi vụng về nhấc chiếc túi ra rồi quay trở lại phòng của anh ta. Tôi dừng lại trước cửa, nhìn chằm chằm vào chiếc vali đang nằm trên sàn. Tôi nhớ lại mấy tuần trước đây, anh ta đã xòe tay vào mặt tôi để bắt chước con rồng đang nổ tung của Sử Trùng Minh. Anh ta biết là tôi đang tìm kiếm một cái gì đó. Nhưng - Tôi không hề biết em là một người hoàn hảo đến thế, cho tới đêm nay...
Dĩ nhiên rồi, đó là Jason. Tôi nghĩ, đầu gối như khuỵu xuống. Dĩ nhiên là thế rồi. Nếu anh tìm thấy thuốc của Fuyuki, thì đó đúng là thứ anh thích... Anh là một tên trộm, có đúng thế không? Một kẻ chỉ lấy trộm vì khoái cảm.
Chiếc vali của anh ta vẫn chưa được sắp xếp lại, đồ đạc bên trong thòi cả ra ngoài, một chiếc quần thể thao, quần jean và một chiếc thắt lưng. “Đúng vậy,” tôi lẩm nhẩm một mình khi mọi chuyện bắt đầu trở nên rõ ràng trước mắt tôi. “Giờ thì tôi đã hiểu.” Các câu hỏi và câu trả lời đang đan cài vào nhau một cách hợp lý. Sáng hôm nay, trong đống đồ vứt vung vãi ngoài hành lang của Jason, có cái gì đó đã đập vào mắt tôi, máy ảnh, giấy tờ, vài cái ảnh. Hộ chiếu của anh ta. Hộ chiếu của anh ta?
“Jason,” tôi thì thào, “tại sao tất cả những thứ này...” Tôi chỉ vào chiếc vali. “Những thứ này... Anh đã sắp xếp hành lý từ đêm hôm qua đúng không? Sắp xếp hành lý. Tại sao anh lại xếp hành lý nếu anh không biết trước rằng...”
“Cô đang nói cái chết tiệt gì vậy?”
“Nếu anh không biết trước là mụ ta sẽ tới?”
“Đặt các thứ xuống đất rồi đi đi.”
“Đúng là như thế, có phải không? Anh đã nhận thức được việc làm của mình. Anh đột nhiên nhận ra sự nghiêm trọng của nó, biết là mụ ta sẽ tìm tới đây vì anh đã đánh cắp...”
“Tôi nói là để các thứ...”
“Bởi vì anh đã ăn trộm,” tôi cao giọng. “Anh đã ăn trộm của Fuyuki. Anh đã ăn trộm của ông ta. Đúng không?”
Tôi gần như có thể nghe thấy sự do dự của anh ta, môi anh ta mấp máy, lầm bầm những lời giận dữ. Trong một giây tôi nghĩ anh ta sẽ lao ra ngoài, nhảy bổ vào tôi với vẻ khiêu khích. Nhưng anh ta không làm thế. Thay vào đó, anh ta chỉ gắt gỏng: “Thì sao? Đừng có lên giọng giảng giải đạo đức với tôi. Tin tôi đi, nó chỉ làm tôi nghẹt thở mà thôi. Nghẹt thở vì cô và tất cả những vấn đề, những nỗi ám ảnh kỳ quặc chết tiệt của cô.”
Tôi buông chiếc túi rớt xuống đất, hai tay ôm lấy đầu. “Anh...” Tôi thở gấp, cả người run lên bần bật. “Anh... anh... Tại sao? Tại sao anh lại...”
“Bởi vì!” Anh ta nói vẻ điên tiết. “Chỉ bởi vì, vì nó ở đó. Đột nhiên cái thứ chết tiệt mà cô vẫn...” Anh ta nín thở. “Nó ở đó. Ngay trước mắt tôi, và tin tôi đi, tôi không hề biết rằng mình đã tự lao đầu vào lửa khi lấy nó, và giờ thì càng không phải lúc để phán xét tôi, hãy đặt các thứ xuống cái sàn chết tiệt đó và...”
“Ôi, Jason,” tôi choáng váng nói, “đó là cái gì?”
“Chắc chắn cô sẽ không muốn biết đâu. Giờ hãy đặt...”
“Làm ơn, làm ơn nói cho tôi biết đó là cái gì và anh đã giấu nó ở đâu.” Tôi quay ra nhìn khu hành lang vắng ngắt, trải dài rồi mất hút trong bóng đêm. “Làm ơn, điều đó đối với tôi rất quan trọng. Nó ở đâu vậy?”
“Đặt cái túi xuống sàn...”
“Nó ở đâu?”
“Và dịch chỗ khăn tắm lại gần tủ.”
“Jason, nó ở đâu?”
“Tôi nói, đẩy đống khăn tắm lại gần tủ và...”
“Nói cho tôi biết không tôi sẽ...”
“Câm đi!” Anh ta đập ầm ầm vào cửa tủ khiến nó rung lên bần bật, suýt bật ra khỏi rãnh kéo. “Quỷ tha ma bắt cô đi, quỷ tha ma bắt cô đi và quỷ tha ma bắt cái cuộc săn tìm kho báu khốn kiếp của cô. Nếu cô không muốn giúp tôi thì hoặc là xông vào mà đánh tôi bởi vì tôi sẽ nện cho cô một trận, tôi chả sợ gì mà không nện cho cô một trận, hoặc là cô biến đi và tự đi mà âu yếm một mình.”
Tôi đứng nhìn chằm chằm vào cánh cửa tủ một lúc, tim đập thình thịch. Rồi tôi quay lại nhìn về phía cuối hành lang. Phần lớn các phòng đều đóng cửa. Nhưng hành lang vẫn được chiếu sáng bởi những mảnh kính vỡ lấp lánh và những mảng giấy dán tường bị xé rách. “Thôi được, thôi được.” Tôi nói, quờ tay ra đằng trước, chuyển động những ngón tay như thể tôi sẽ túm được câu trả lời trong không khí. “Tôi sẽ đi tìm. Không cần anh giúp. Anh vừa mang nó về đêm qua, nó vẫn ở đâu đó quanh đây.”
“Hãy câm miệng lại và tắt đèn đi!”
Tôi như bừng tỉnh sau cơn mộng du. Mồ hôi túa ra sau gáy tôi. Tôi lôi cuộn tiền trong túi áo bên phải ném vào phòng cho Jason. Cuộn tiền rơi xuống đất, các tờ tiền bay lên trong ánh sáng lờ mờ. “Strawberry gửi cho anh ít tiền,” tôi nói. “Và, Jason này...”
“Gì?”
“Chúc anh may mắn!”