Khi mặt trời bắt đầu lặn, chiếc trực thăng hải quân cất cánh khỏi sông Mississippi và bay qua khỏi thị trấn nhỏ Port Sulphur. Ở trên cao, không có nhiều thứ giúp Lorna thôi nghĩ về kiểu di chuyển này. Nếu như gắng sức chút, không chừng cô sẽ quen với việc đi lại bằng máy bay, nhưng lòng bàn tay đẫm mồ hôi và sự khó thở đang đánh đố khả năng thích ứng của cô.
Để trấn an bản thân, cô tập trung nhìn vào cảnh vật bên dưới, đếm những cột mốc và ước chừng thời gian cô phải tiếp tục ở trên máy bay.
Ở phía dưới, Port Sulphur dễ bị lướt qua vì chỉ rộng chưa đến sáu dặm vuông, được che chở bởi hệ thống đê đã xói mòn vì thời tiết. Nơi đó từng là một thị trấn - công ty[3] khá lớn chuyên hỗ trợ Freeport Sulphur, một công ty lo về hàng hóa tại cảng; nhưng từ những năm chín mươi khi các hoạt động khoan lọc dầu đã chấm dứt, thị trấn dần suy sụp, chực chờ cơn bão Katrina đến đóng bia cho nó. Một bức tường nước cao gần bảy mét đã quét qua thị trấn, cuốn trôi tất cả. Chỉ còn lại một số ít trong khoảng ba nghìn cư dân ngụ tại đây trở về mảnh đất trước kia là nhà của họ.
Nếu Lorna chưa nghiên cứu về thị trấn ấy với nỗi băn khoăn, có lẽ cô đã không thấy nó. Họ vừa bay qua khỏi thị trấn đó trong tích tắc và lại bay ngang qua vùng nước khác – một hồ nước nông, rộng gọi là vịnh Lanaux. Họ đáp xuống nhanh chóng. Chuyến bay thật ngắn và chiếc trực thăng trông như con quạ bay đến từ New Orleans, lướt qua bốn mươi dặm trong chưa đầy mười lăm phút. Dù ngắn ngủi, Lorna vẫn luôn chờ giây phút thoát khỏi con chim ấy.
Căng thẳng, cô khẽ nhảy xuống ngay khi giọng nói ồm ồm của Jack lọt qua tai nghe của cô. Jack ngồi phía trước cùng với phi công. Còn cô ngồi cùng với hai nhân viên CBP[4] khác. Họ đã giới thiệu tên nhưng cô đã quên mất vì trong đầu cô lúc đó chỉ nghĩ được việc phải quyết tâm vượt qua chuyến bay.
Jack giải thích: “Chúng ta sẽ đi bằng tàu của CBP để vào những con kênh phía nam hồ. Chiếc tàu này sẽ được dùng làm căn cứ hoạt động trong nhiệm vụ này. Hai chiếc xuồng bay nhỏ hơn sẽ ở dọc hai bên hỗ trợ thăm dò những con rạch nhỏ hơn ở cả hai phía. Và khi cần, chúng ta có thể dùng cặp xuồng này để di chuyển vào những nơi hẹp hơn.”
Lorna chằm chằm nhìn về phía lực lượng hải quân tập hợp ngay khi chiếc trực thăng đáp xuống nước trên chiếc phao riêng. Chiếc trực thăng thứ hai to hơn đã cất cánh bay khỏi hồ. Nó đã chở đến thêm nhiều thành viên trong đội của Jack và một số tài năng địa phương. Chiếc tàu CBP bên cạnh nhìn tương tự với cái trước, cũng thuộc loại tàu quân đội dùng để di chuyển trong lục địa hoặc ngoài biển. Một cặp xuồng bay nhỏ hơn được đẩy bởi những cánh quạt quá khổ bọc xa hơn ở bên ngoài, lao vút đi trên mặt nước.
Sau khi họ đáp xuống, khung cảnh trở nên lộn xộn vì người và vũ khí được chuyển từ trực thăng xuống tàu. Khi đến được đuôi tàu CBP, Lorna cảm thấy không thoải mái với đám đàn ông cao to, vạm vỡ, người sặc mùi dầu thơm cạo râu rẻ tiền, mùi vải da và mùi dầu bôi trơn súng. Giọng của họ cứ oang oang quanh cô kèm theo những tràng cười ầm ĩ.
Cô đi đến một góc yên tĩnh hơn, xa khỏi đám đàn ông kích động ấy.
Gần đó, khoảng nửa tá quân mặc sơ mi và quần xanh sẫm – thuộc đội Phản Ứng Đặc Biệt của Jack – vội vã lo bảo vệ số vũ khí gồm các loại đeo bên mình, súng ngắn và súng trường công kích. Họ đeo kính hỗ trợ nhìn ban đêm phía trên mũ bảo hiểm. Không ai rảnh tay được lúc nào.
Ba người khác mặc áo thợ săn và quần jeans cùng ngồi phía sau tàu nhưng họ ngồi ở phía đối diện, trên những chiếc xuồng đang lật úp. Lorna nhận ra đó là những chiếc xuồng độc mộc của người Cajun có đáy được gọt phẳng. Cả ba người – hai da đen, một da trắng – đều mang dáng dấp của những người Cajun chuyên bơi xuồng ngược dòng. Một người nhìn hao hao giống Jack, có thể là một người họ hàng. Hồi còn cặp với Tommy, cô chưa từng gặp tất cả thành viên của gia tộc Menard.
Thành viên cuối cùng trên tàu chạy lăng xăng đến, lưỡi thè ra và đuôi vẫy vẫy. Đó là một con chó săn thuần chủng, nhưng ngay cả điệu bộ cũng toát lên vẻ tự mãn lóe lên trong ánh mắt vô-tư-lự rất đậm chất Cajun của nó.
Cô thì thầm “Burt” khi những kí ức hạnh phúc ùa về. Có lẽ cô chưa từng gặp anh của Tommy nhưng cô từng nghe kể về con chó săn giỏi nhất của gia đình.
Jack từng nhắc đến việc mang theo một con chó săn đánh hơi nhưng Lorna đã không nghĩ rằng đó là Burt.
Nhận ra những cử chỉ chào đón thân thiện, cô vui vẻ khuỵu xuống đón lấy Burt. Nó chạy chậm đến, miệng chảy ít nước dãi. Một tay cô xoa xoa phía sau một trong hai cái tai dài phụng phịu của nó – nhưng một tiếng quát ngọt sắc đột ngột cất lên đã khiến cả hai sững người.
“Burt! Quay lại mau! (giọng thô lỗ) Để yên cho bonne á rien đấy.”
Con chó ngoái nhìn lại và cụp đuôi xuống. Liếc nhìn Lorna với vẻ miễn cưỡng và xin lỗi, Burt quay lại và trở về chỗ bộ ba đang ngồi bên những chiếc xuồng.
Người quát mệnh lệnh đó nhìn chằm chằm vào cô. Đó là gã nhìn hao hao giống Jack, có lẽ là họ hàng. Lorna không hiểu từ “bonne á rien” mà gã gọi cô nhưng theo kiểu khinh khỉnh trong giọng nói của gã, đó không phải là những lời để lấy lòng.
Jack đang nói chuyện với người phó chỉ huy dưới cấp của anh, nhưng anh quay ngoắt lại tiến về phía người đàn ông đó. Anh túm lấy cổ áo sơ mi bằng nỉ của gã và kéo lại, mặt đối mặt.
“Nếu như tôi nghe anh thô lỗ với Tiến sĩ Polk lần nữa, tôi sẽ nhấc mông anh ném khỏi tàu. Muốn cư xử như anh em trai hay không? Cô ấy có mặt theo yêu cầu của tôi. Dừng thái độ đó lại hoặc ra khỏi tàu.”
Lorna chăm chú nhìn cả hai. Anh trai? Cô nhìn người kia với ánh mắt khác. Như vậy anh ta là Randy, anh trai của Jack và Tom. Anh ta đang ở tù khi cô và Tom cặp với nhau, bị giam một năm vì tội xay xỉn ẩu đả trong quán rượu ở phố Bourbon. Anh ta đã đấm một cảnh sát ngoài ca trực.
Randy dường như định làm căng, thậm chí tay đã đặt lên ngực Jack như thể sẽ xô anh ra. Nhưng anh ta đã thấy gì đó trên gương mặt Jack nên đã bỏ tay xuống. Anh ta lùi lại một bước, cố nhún vai với vẻ khinh thường và tỏ ra không phục.
“Chú là sếp, chú em ạ.”
Không hài lòng, Jack ghìm anh trai một lúc, mặc cho sự căng thẳng bùng nổ.
Cuối cùng Randy đã nhượng bộ. “Mais oui! Thôi được! Anh nghe chú!”
Jack buông anh ta ra và liếc nhìn Lorna tỏ vẻ xin lỗi, giống như cách mà Burt đã làm. Người anh quay lại với bạn của mình. Bộ ba người đã co cụm lại ngồi ở phía xa của chiếc xuồng. Ngay khi kết thúc mệnh lệnh với đội phó, Jack đến chỗ Lorna.
“Xin lỗi cô về việc vừa rồi. Nào, trước khi cô gây thêm rắc rối, tôi sẽ chỉ cho cô về tiến trình cuộc tìm kiếm tối nay. Nhìn qua xem cô có thể đưa ra được lời tư vấn nào không. Đó là lí do cô ở đây đúng không?”
Cô bối rối một chút trước vẻ cáu kỉnh của anh nhưng vẫn không nói gì. Cô theo anh đến ca bin của người lái tàu. Ngay khi anh mở cửa ra, cô ngỡ ngàng khi biết được ca bin này được trang bị máy điều hòa, gần như lạnh cóng so với hơi nóng dai dẳng của buổi chiều tối. Mặt trời đã lặn, nhưng bầu trời phía ấy vẫn ửng lên thứ ánh sáng hồng cam.
Rồi anh dẫn cô đến chỗ tấm hải đồ. Một nhân vật khác, người duy nhất trong ca bin chính là người lái tàu. Anh mặc giống với cấp dưới của Jack, vẫn là bộ đồng phục thô kệch dùng làm nhiệm vụ của CBP, chỉ khác là không có mũ bảo hiểm. Con tàu đã hướng về vịnh Lanaux. Qua đôi ủng đi bộ của mình, cô có thể cảm nhận được bánh lái trong động cơ tàu làm boong rung rung. Dải rừng cây dọc nhánh sông trải dài trước mắt họ, âm u và không lối vào.
Jack đặt tay lên chiếc bản đồ ghim trên bàn. “Đây là hành trình của chúng ta.” Ngón tay anh vê theo đường vẽ trên bản đồ. “Chúng tôi đoán rằng khi bão qua đi, nó đã trú tại một thác nước gần vịnh Joe Wise, sau đó tiến thẳng về hướng bắc.” Rồi ngón tay anh dừng lại. “Đây là nơi chúng tôi cứu cậu bé. Con báo đã đi rất xa trong một khoảng thời gian ngắn.”
Lorna đã nghe qua thông tin về cuộc chạm trán chết người ấy. Cô hít một hơi thật sâu rồi vui vẻ đề cập kiến thức chuyên môn của mình.
Cô nói, “Loài báo đốm săn mồi trong phạm vi rất rộng, điều đó giải thích vì sao báo mẹ tiếp tục di chuyển. Bản năng tổ tiên để lại thôi thúc nó tiếp tục đi đến khi tìm thấy nơi thích hợp cho cuộc sống của mình.”
“Vậy con báo mẹ sẽ tiếp tục di chuyển một thời gian nữa?”
“Chính xác. Bản tính luôn di chuyển là nguyên nhân khiến báo đốm gặp nhiều mối họa trong đời sống hoang dã. Con người đang xâm lấn và tàn phá những cánh rừng nhiệt đới nơi chúng sinh sống. Báo đốm bị buộc phải lang thang đến nơi khác, sự biến mất của những cánh rừng đã dẫn chúng đến những cuộc chạm trán nguy hiểm với con người.”
Cô từng đọc về một dự án môi trường đang triển khai nhằm thiết lập một chuỗi các cánh rừng hoang dã trải dài qua hai lục địa, nối liền Mexico và Nam Mỹ. Đó là một khu vực rộng lớn giúp loài báo đốm sinh sôi và di chuyển tự do. Nơi đó tên là Paseo de Jaguar hay Con đường Báo đốm.
Cô nghiên cứu bản đồ, cố gắng tìm hiểu về con đường paseo dành riêng cho loài báo này. Cô phát hiện một đầu mối quan trọng.
Lorna nhấn mạnh, “Chúng ta cần nhớ rằng báo mẹ mang theo một con nhỏ. Vì vậy nó sẽ tìm một nơi có nhiều nguồn thức ăn, đủ để nuôi sống cả hai.”
Jack đứng ngay đó cùng nghiên cứu bản đồ với cô. “Nhưng ở đâu? Nếu như báo mẹ tiếp tục tiến lên phía bắc, nó sẽ vượt qua khu vực giữa vịnh vùng Adam và hồ Washington. Nơi đó ở sâu trong vùng đầm lầy. Vậy chúng ta phải bắt đầu cuộc tìm kiếm ở đâu?”
“Chúng ta sẽ bắt đầu từ nguồn thức ăn của nó. Vùng đầm lầy là ngôi nhà tuyệt vời cho báo đốm. Chúng thường săn mồi tại các lạch nước. Thật ra, một phần lớn trong khẩu phần ăn của chúng là hải sản. Rùa, cá, cá sấu Nam Mỹ.”
Jack liền thắc mắc, “Đứa trẻ mà chúng tôi cứu kể lại rằng cậu bé thấy con báo phá toạc nhiều lồng cua.”
Cô gật đầu. “Báo đốm là loài ăn thịt cơ hội. Chúng ăn mọi thứ. Chúng có thể giết cả bò và ngựa trưởng thành.” Và cô đáp lại vẻ hoài nghi của anh. “Chúng là cỗ máy giết mồi hoàn hảo. Trong khi các loài hổ và sư tử thường xé toạc cổ họng của con mồi, báo đốm lại giết mồi bằng cách thúc đòn chí mạng vào sọ con mồi. Chúng có bộ hàm khỏe nhất trong họ nhà mèo. Người ta tin rằng quá trình tiến hóa đã giúp báo đốm bẻ vỡ lớp vỏ cứng như thép của loài rùa.”
“Nếu như muốn ăn thịt rùa, chúng có thể tìm thấy rất nhiều tại các vùng đầm lầy. Các loại rùa cạn, rùa nước và ba ba.”
“Đúng rồi, nhưng chúng rất nhỏ và không đủ nhiều so với nhu cầu của báo đốm. Với cơ thể đồ sộ như vậy, báo mẹ sẽ tìm đến một nguồn thức ăn dồi dào và dễ tiếp cập hơn. Nó sẽ không dừng lại nếu chưa tìm thấy nơi đó.”
Đột nhiên Jack sững người lại.
Cô hỏi, “Sao thế?”
Anh cúi xuống gần tấm bản đồ và vê ngón tay dọc theo đường vẽ đó. Anh cũng tìm về hai phía của con đường. Rồi ngón tay anh dừng lại và gõ bộp bộp. Một cái tên nằm ngay đó: Đầm lầy Cook.
Jack đứng thẳng người lại và nhìn qua phía cô: “Khứu giác của báo đốm nhạy đến mức nào?”
“Cực kì nhạy. Hầu hết báo đốm săn mồi vào ban đêm nên chúng có thể lần ra con mồi bằng mùi của chúng.”
“Theo cô thì chúng có thể đánh hơi từ bao xa?”
Cô lắc đầu. “Khó xác định được. Tùy theo nơi xuất hiện mùi, độ nồng và hướng gió. Rất nhiều biến số. Có thể lên đến hàng dặm nếu các điều kiện đều thích hợp.”
“Vậy nên nếu một nơi để lại được mùi rất mạnh và gió thổi đúng hướng có thể dẫn đường cho con báo. Thậm chí nếu nó ở cách đó hàng dặm.”
“Chắc chắn rồi. Nhưng đó phải là mùi mà con báo nghĩ là thức ăn của mình.”
“Cô nói báo đốm không chỉ ăn rùa và cá mà còn ăn cả cá sấu Nam Mỹ.”
“Đúng vậy.”
“Vậy nên một nơi tập trung nguồn thức ăn này, nơi có mùi rất mạnh –
“Chắc chắn sẽ lôi cuốn nó.”
Jack lấy tấm bản đồ và mang đến chỗ người lái tàu. Anh chỉ vào, “Đây là nơi chúng ta sẽ đến. Đầm lầy Cook. Hãy điện báo cho đội xuồng bay, cho họ biết chúng ta thay đổi kế hoạch. Chúng ta sẽ tiến thẳng đến đó.”
“Vâng, thưa sếp.”
Jack quay lại, trong tay cầm theo chiếc bản đồ.
Lorna hỏi, “Có gì ở Đầm lầy Cook?”
“Một điểm du lịch. Thu hút khách tham quan quanh năm, hầu hết đều đi du tàu vào neo tại New Orleans. Họ sẽ đi theo một tour tham quan đầm lầy, đi xuồng bay và sau cùng đến tham quan Đầm lầy Cook.”
“Có gì ở đó?”
Jack nhìn chòng chọc vào cô với vẻ chắc chắn trong mắt anh. “Trại cá sấu của chú Joe.”