Chú Joe không thích trẻ em, nhưng các nhóm dã ngoại mang lại nguồn thu dồi dào.
Chú đứng trước thềm nhà với một chai bia Budweiser cao, lạnh buốt đặt trên lan can. Cái nắng cháy da ban ngày dường như càng nóng và bức hơn khi mặt trời lặn đi. Ở ngoài này không khí cũng vậy. Giờ đầu tiên sau khi mặt trời lặn, hơi nóng dường như không tan biến khỏi, cứ lưu lại mãi. Nhưng từ từ khi đêm buông xuống, nhiệt độ bắt đầu giảm, không khí trở nên dễ thở hơn.
Ông thấy thoải mái vào thời điểm đó của buổi đêm.
Dĩ nhiên, bia bọt cũng hữu ích.
Ông tu một hơi dài và nhìn chăm chăm về mảnh đất rộng ba mươi mẫu của mình. Ở đằng xa, một địa điểm cắm trại mới vừa được dựng lên ngoài bìa khu rừng bách lâu năm bên cạnh. Nó vừa được nhóm trại sinh Boy Scouts đến từ Baton Rough đặt đến hết tuần. Lửa trại bập bùng ở các lều và các giỏ đèn lồng trang hoàng khu cắm trại. Nhạc xập xình vọng từ buổi xế chiều hòa vào tiếng ồm oàm của ễnh ương, thi thoảng có tiếng kêu của loài cú hay tiếng bao tử sôi ọc ọc từ một con cá sấu.
Trải dài giữa ngôi nhà gỗ của ông và khu cắm trại là tám cái ao và hồ của trại nuôi cá sấu. Ông cũng trưng bày mèo rừng và có một cái ao nông nuôi con Gipper, một giống rùa lớn ăn tạp. Dọc theo nông trại có các cầu đi bộ và đài quan sát ở bên trên.
Ông nhìn nông trại đầy vẻ tự hào. Nó tiêu tốn của ông khoảng nửa triệu đôla để phát triển nông trại từ một hồ nuôi chỉ vài cá sấu đẻ thành một điểm tham quan độc nhất ở vùng đầm lầy. Chỉ trong năm rồi, ông đã thu lại tiền lời gấp ba vốn đầu tư bỏ ra.
Dĩ nhiên, một phần tiền trong đó là tiền hối lộ. Là nhân viên khu bảo tồn, ông không được phép bán cá sấu để lấy da hay thịt, nhưng chú không tốn nhiều tiền để “bôi trơn” lực lượng bảo vệ địa phương bảo họ phớt lờ đi. Và đối với nhiều người đi câu giàu có, cá sấu con vừa mới nở được xem là mồi câu cá tốt nhất.
Dọc theo nông trại, chú Joe nhìn một cặp tuần tra đi trên cầu đi bộ, vác súng trường trên vai. Họ là dân quân địa phương mới được chú thuê hôm nay sau khi nghe đồn có vài con báo lớn lởn vởn gần bờ biển. Ông đã nghe cảnh báo qua điện đàm sơ tán khu vực, nhưng vùng Vịnh nằm cách đó rất xa. Và ông sẽ mất hàng nghìn đôla đặt cọc thuê trại chỉ tính riêng từ nhóm Scout nếu ông sơ tán khu vực.
Hơn nữa, cảnh báo đơn giản chỉ là cảnh báo, không phải mệnh lệnh. Ông đã không để cho bão Katrina đuổi mình đi thì không lí do gì lại để cho con báo nào làm điều tương tự. Để củng cố quyết định của mình, ông đã thuê bốn người từ phòng cảnh sát trưởng thuộc khu giáo xứ. Vào thời buổi khó khăn này, mọi người luôn dành thêm thời gian kiếm cơm. Những bước chân tiến về phía ông. “Cha ơi, con muốn xuống cho Elvis ăn.”
Ông nhìn lại phía cô con gái đứng ở trước hiên. Cô mang một khay bánh quy chất ngập thịt gà. “Đừng cho nó ăn nhiều quá, sáng mai chúng ta có lịch biểu diễn cho các trại sinh. Cha muốn để nó đói.”
“Cha không thể bỏ đói người bạn già như vậy,” cô khẽ trách cha.
Ông vẫy cô đi, cảm thấy tình yêu và niềm tự hào dâng trào về đứa con duy nhất của mình. Ở tuổi hai mươi hai, Stella vừa được nhận vào một trường kinh tế ở Tulane. Cô là người đầu tiên trong gia đình vào được đại học. Cô định lấy bằng cử nhân MBA, nhưng cũng học thêm cả luật về môi trường. Trong khi nỗ lực bảo tồn của chú tại nông trại đơn thuần vì lợi nhuận, con gái ông lại là người bảo tồn đúng nghĩa. Cô biết những giao dịch hối lộ của cha, nhưng cô cũng rất hiểu thời cuộc. Đây là Louisiana. Không có việc gì diễn ra lại không cần những cuộc ra giá đằng sau. Bên cạnh đó, nhiều khoản lợi nhuận bất hợp pháp của cha được đầu tư vào nông trại và nhiều chương trình bảo tồn khác.
Cô đi xuống thang đến chỗ cầu đi bộ đầu tiên băng ngang những cái ao. Những bước chân lại vang phía sau ông kèm theo tiếng sàn rung nhẹ. Vợ ông đến bên cạnh, đặt đôi tay múp míp lau sạch chồng đĩa. Bà lấy chai bia của ông, lắc nhẹ xem còn lại bao nhiêu, sau đó bà nhấc một chai mới từ chiếc túi ở tạp dề và đặt vào tay ông.
“Cảm ơn, Peg.”
Bà đứng cạnh chú, cúi người tựa vào lan can. Bà tu nốt phần bia thừa còn lại. Bà là người phụ nữ phương phi, nhưng ông thích vẻ mập mạp đó. Ông không hẳn là người gầy gò vì bụng chú cứ to dần, to dần, vượt khỏi vòng dây nịt của ông mỗi năm, và bên dưới chiếc mũ bóng LSU, mái tóc mỗi lúc một thưa dần cùng với chiếc bụng đang phình ra.
“Em ước gì nó mặc áo nhiều vải hơn,” vợ ông nói.
Ông nhìn Stella băng về phía chiếc ao ở giữa. Ông hiểu nỗi lo của vợ mình. Cô con gái mặc chiếc quần cắt ngắn và áo khoác bó đến sát ngực, để lộ chiếc bụng của mình. Thậm chí cô không cần mang giày. Và cô hoàn toàn không thừa hưởng gen mập nào từ họ. Nhìn cô săn chắc và thon gọn, mái tóc cô dài vàng óng như Vệ nữ của vùng đầm lầy. Joe không chú ý đến những ảnh hưởng của cô đối với đám thanh niên địa phương. Không phải vì cô không dành thời gian nói chuyện với họ.
Thật ra, cũng hơi kì lạ rằng đã lâu rồi ông chưa có dịp đổi tên nông trại từ Chú Joe sang Ông Joe. Ông ngờ rằng niềm vui của Stella không phải là đám thanh niên mà ở nơi khác. Cô nói quá nhiều về người bạn ở Tulane, một cô gái tên Sandra luôn mặc áo da chạy xe đạp và mang giày bốt.
Nhưng có thể chỉ là phỏng đoán.
Ông nuốt ực một hơi.
Giá như cô con gái quen bạn trai phù hợp.
* * *
“Nào, cậu bé to xác, ai muốn thêm bữa ăn khuya nhẹ nào?”
Stella đứng trên đài quan sát cái trên cái ao lớn nhất của nông trại. Ánh sáng duy nhất của cô phát ra từ một chiếc đèn lồng treo trên sào. Ánh sáng phản chiếu mỗi màu nước đen ngòm bên dưới, che đi thứ gì ẩn nấp bên dưới làn nước đó. Cô gỡ móc khóa ở hàng rào bằng một tay, tay kia giữ thăng bằng chiếc khay thịt gà. Cô tự mình làm thịt bốn con gà. Máu vẫn còn ấm, chảy tràn ra khỏi khay xuống cánh tay cô.
Cô nhăn mặt bước về phía tấm gỗ đang phơi mình ra khỏi ao như một chiếc cầu nhảy ở bể bơi. Cô đi đến cuối tấm ván và rướn người ra mặt nước đến khi cô có thề thấy bóng mình trên ao.
Thậm chí cô không thấy có gợn sóng, nhưng cô biết Elvis lặn ở dưới. Con cá sấu đực ở nông trại này lâu nhất so với các con khác, là một trong những cư dân đầu tiên sinh sản trong ao này; khi đó cha cô vừa mua lại nơi này. Vì Elvis bị bắt ngoài đời sống hoang dã, không ai có thể đoán được chính xác tuổi của nó, nhưng một nhóm các nhà sinh học đoán con cá sấu đã gần ba mươi tuổi. Các nhà khoa học từng đến thu thập mẫu máu từ cư dân đã thuần hóa của ao. Hiển nhiên, loại prôtêin tìm thấy trong máu con cá sấu hứa hẹn cho ra đời một dòng kháng sinh mới cực mạnh, giết được cả các loại siêu bọ kháng thuốc.
Nhưng cả các nhà sinh học cũng không dám tiếp cận Elvis. Nó dài gần sáu mét, nặng hơn nửa tấn. Không ai quấy rầy Elvis. Trải qua tuổi sinh sản, nó được dành cho chiếc ao riêng và luôn thích được như vậy.
Nó thật là hư hỏng.
Cô đặt khay bánh qui xuống cạnh bên và khụy chân xuống ớ cuối sàn gỗ. Tay nhấc một miếng thịt rỏ máu, cô giang rộng tay ra mặt nước. Những giọt máu rơi xuống và khẽ bắn lên khỏi mặt nước bên dưới, làm lăn tăn gợn sóng.
Cô đứng đợi - nhưng không lâu lắm.
Dọc cái ao, những lăn tăn gợn sóng mới có hình chữ V tiến về phía cô. Chóp mũi con cá sấu là thứ duy nhất nhìn thấy được. Nó trượt nhẹ nhàng đến chỗ cô, không vội vàng nhưng quả quyết. Dáng vẻ khệ nệ của Elvis biểu hiện qua tiếng sột soạt từ cái đuôi to lớn của nó, nó vẫn trốn dưới nước. Đó là một cử chỉ, gần như là gợi cảm theo cách lắc lư đó, khiến con cá sấu mang biệt danh đó.
“Nhanh nào, Elvis. Ta không có cả đêm đâu.” Cô lắc miếng thịt gà.
Như thể muốn trì hoãn mệnh lệnh của cô, con cá sấu chìm xuống nước. Tất cả gợn sóng biến mất. Stella tức giận. Một chuyển động ở khóe mắt khiến cô chú ý về phía kia của ao. Chỉ vừa thoáng nhìn thấy, đó là thứ gì đó sáng vụt qua cánh rừng, phản chiếu ánh trăng rồi vụt mất vào bóng tối. Cô nhìn chằm chằm về phía đó, bắt đầu nghi ngờ mình thấy gì đó. Vùng đầm lầy có nhiều câu chuyện đồn thổi về ma, thường là gắn với ánh lửa hơi gas phát ra từ đầm lầy, thứ mà người Cajun gọi là feu follet, tức ngọn lửa điên loạn.
Nhưng đó không phải là hơi gas đầm lầy.
Cô đảo mắt nhìn xem có dấu hiệu khác không, tập trung cả hai mắt và tai - sau đó một tiếng ùm lớn vang lên phía sau cô. Nước bắn về phía trước, cùng với làn sóng nước từ nửa tấn thịt trong lớp vảy cứng đó. Chiếc hàm đang há hốc đó, trong là hàm răng vàng lởm chởm, chồm về phía cô, đủ gần để cô cúi xuống và ngắt mũi sinh vật đó.
Elvis có thể nhảy chồm khỏi mặt nước, thậm chí chỉ dùng chân sau. Stella thả miếng gà xuống chiếc hàm đang há to đó. Nó kẹp miệng lại phát ra một tiếng chẹp. Trọng lực kéo Elvis chìm xuống. Nó làm bắn nước tung tóe và lặn đi cùng phần thưởng của mình.
Stella thả hai miếng gà còn lại xuống nước. Thông thường, cá sấu cần nghe thấy chuyển động để thu hút chúng đến ăn, nhưng Elvis đã quen với việc được cho ăn bằng tay. Nó sẽ đánh hơi hai miếng còn lại khi rảnh. Nhớ lời cha dặn, cô để lại bốn miếng gà trên khay.
Cho ăn xong, cô thu khay bánh quy lại và quay trở về. Một bóng dáng lớn khóa cổng lại. Giật mình, cô lùi lại một bước, gần như ngã khỏi đầu kia tấm ván.
Nhưng đó là một trong những tay súng mà cha cô thuê. Anh ta mang khẩu súng trường, một khẩu súng quân đội cỡ 12 vác trên lưng và gập người về phía cột cổng. “Cho con thú đó ăn xong chưa? Thấy cô vẫn còn dư gà kìa.” Anh ta nhích lại để ánh đèn chiếu sáng chỗ mình. Lớn hơn cô mười tuổi, anh ta to như con bò mộng, mặc dù chỉ là con bò bị bỏ bê. Anh ta đội mũ phớt đã bẩn, nhưng không che được những mái tóc màu nâu bùn bóng mỡ. Anh ta ngậm tăm và nói gì đó. Một tay đặt trên cái khóa thắt lưng to đùng có hình như những cái sừng bị cắt.
Cô quắc mắt nhìn về cái cổng. “Anh không phải đang tuần tra sao? Đó là điều cha tôi trả tiền cho các anh làm mà.”
Anh ta gập người xuống, hoàn toàn chắn ngang lối của cô. “Tại sao em không làm cô gái ngoan, quay lại vào nhà và làm cho anh vài món gà ngon, em yêu.”
Ánh mắt anh ta đảo lên đảo xuống nhìn cơ thể cô, như thể anh ta thèm thuồng cô hơn cả món gà. Sự ghê tởm trỗi dậy, nhưng cũng kèm theo chút sợ hãi. Cô đủ nhận thức về vẻ bên ngoài của mình - không chỉ vì phần làn da hở ra mà còn do cô đứng chênh vênh trên ván gỗ.
Cô cũng đủ hiểu về người đàn ông này nên mới sợ. Garland Chase - thường được biết đến qua biệt danh “Gar” vì vẻ ngoài giống với loài rắn cá dơ bẩn luôn phiền nhiễu tại vùng đầm lầy - là con trai của cảnh sát trưởng. Mọi người ở giáo xứ Pasquamish biết rằng cha anh ta làm ngơ các hoạt động không hợp pháp của con trai, bao gồm cả hoạt động tống tiền bảo kê của cậu. Cha Stella tình nguyện trả một khoản thu nhập hàng tháng vào “quỹ trẻ em mồ côi của cảnh sát” trực tiếp vào tay tên khốn này.
“Cha tôi trả công anh hậu hĩnh để gác ban đêm,” cô nói. “Vậy nên anh có thể tự làm bữa tối cho mình.”
Cô giả vờ can đảm hơn bình thường, cô đứng thẳng vai và đi về phía cái cổng. Cô không để anh ta dọa dẫm cô thêm nữa. Anh ta đứng sang một bên, nhưng chỉ một bước. Cô cố đẩy anh ta qua, nhưng vào phút cuối anh ta lại chặn đường bằng cánh tay to lớn đó.
Anh ta chồm đến gần. Cô ngửi thấy hơi thở đó. Anh ta đang say.
Anh ta hỏi, “Có gì không ổn à? Hay vì lesbian không biết nấu ăn? Hay cô bạn gái của cô mới là người nấu ăn? Thứ cô cần là người đàn ông thực sự... ai đó có thể huấn luyện cô thành người vợ ngoan biết vâng lời.”
Trong khoảnh khắc, nỗi sợ đã biến thành cơn thịnh nộ. “Tôi thà làm chuyện ấy với Elvis.”
Người đàn ông sững người, đôi môi dày của anh ta chuyển thành nụ cười giễu cợt. “Có lẽ tôi nên ném cô vào đó để cô làm thử. Lúc nào chẳng có tai nạn tại vùng đầm lầy.”
Stella biết rõ đó không phải là lời đe dọa suông. Anh ta không khua môi múa mép. Gar và lũ bạn thân được biết đến vì từng gây tai nạn trong quá khứ. Đó là một trong những lí do mà cha cô không bao giờ khất tiền bảo kê.
Cô nhấc tay anh ta sang một bên, nhưng anh ta vẫn giữ chặt người, mắt anh ta nhìn trừng trừng.
Ngay lúc đó tiếng hét bắt đầu vang lên - to, thất thanh và kinh hãi.
Cả hai quay đi. Âm thanh phát ra từ trại Boy Scout.