Sturrock kể về việc mình đi tìm hai cô gái bị mất tích, ông đã bỏ phần lớn thời giờ trong năm cho việc ấy, và đến lúc này thì không còn hy vọng bao nhiêu. Cũng như nhiều người ở Canada Thượng, Kahon’wes đã nghe qua vụ việc.
“À… hai cô con gái đã bị người Da Đỏ xấu xa bắt cóc.”
“Hoặc bị chó sói ăn thịt, mà tôi bắt đầu tin như vậy. Tuy nhiên, người cha vẫn muốn nỗ lực hết mình để tìm kiếm khắp nơi trong cả Bắc Mỹ.”
Sturrock kể cho Kahon’wes nghe mình đã thăm viếng các bộ tộc ở hai bên đường biên giới, đến gặp những người quen biết và người có quyền lực vốn trước kia đã giúp đỡ ông. Nhưng ông không nhận được tin tức gì có ích.
Kahon’wes im lặng nghe, rồi nói rằng ông sẽ hỏi han những người mình quen biết: như Sturrock hẳn phải nhận ra, có những lúc mà một câu trả lời (giống như ngữ âm và trang phục của ông) tùy thuộc vào người tiếp chuyện ông.
Vài tháng sau, Sturrock nhận được tin tức của ông nhà báo. Ông đang đi ngang qua Hồ Forest và được nghe Kahon’wes đang ở cách ông chỉ ít dặm. Vào dịp này, Kahon’wes đang mặc theo kiểu Da Đỏ; cách ăn nói cũng thay đổi. Ông đang nản chí vì các bài viết của mình không được đăng tải trên báo chí của người da trắng. Sturrock nhận ra một phong thái bốc đồng mà nếu không được khuyến khích đúng cách có thể trở thành hoang mang. Ông ngỏ ý đọc giúp một số bài báo của Kahon’wes, nhưng bây giờ có vẻ như ông này không quan tâm nhận sự giúp đỡ.
Trong dịp này, hai người nói đến một nền văn hóa Da Đỏ cổ đại, còn lớn lao và tiến bộ hơn là nền văn hóa kế tục sau đó. Kahon’wes say sưa mô tả nền văn hóa ấy, và cho dù nhất thời Sturrock không tin, dần dà ông bị lừa dối bởi tầm nhìn của Kahon’wes. Sau đó ông chỉ gặp lại Kahon’wes có một lần, vài tháng sau, ở Kingston, nơi họ không trao đổi với nhau nhiều, và Sturrock có cảm tưởng là Kahon’wes uống rượu quá nhiều. Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ cuối cùng này ông nhận được tin tức. Kahon’wes đã trao đổi với tù trưởng một bộ tộc Chippewa sống chung quanh Thác Burke’s, người cho biết tin tức về một phụ nữ da trắng đang sống với người Da Đỏ. Chỉ có thế, nhưng không tệ hại hơn là những tin tức Sturrock đã nhận được khi theo đuổi việc tìm kiếm.
Vài tuần sau, Seton và Sturrock đi đến một ngôi làng nhỏ, ở đây sau nhiều mặc cả họ được dẫn đến một trại Da Đỏ để gặp cô gái. Đã sáu năm trôi qua từ khi hai cô gái mất tích, ba năm từ khi Bà Seton qua đời vì một chứng bệnh bí ẩn, thường được cho là vì quá đau khổ. Sturrock luôn cảm thấy tội nghiệp cho Charles Seton với nỗi buồn triền miên như là vết thương kinh khủng dưới lớp mô sẹo mỏng nhất. Nhưng sự mong chờ lần này tệ hại, như thể không gì tệ hại hơn nữa. Seton hầu như không cất lên tiếng nào từ khi lên đường đến ngôi làng, mặt ông trắng như tờ giấy. Ông trông như người ốm yếu bệnh hoạn. Trước đó, ông không rõ đó là đứa con gái nào: bây giờ Eve mười bảy tuổi, Amy mười chín, nhưng không ai biết cô gái kia bao nhiêu tuổi. Không ai nói ra được cái tên, hoặc đúng hơn, hiện giờ cô mang một tên Da Đỏ.
Sturrock cố gợi chuyện cho Seton mở miệng, nhắc cho ông nhớ rằng nếu quả thực cô kia là con gái ông thì bây giờ sẽ thay đổi nhiều.
Seton nhất quyết cho rằng mình sẽ nhận ra cô, cho dù sự thể ra sao. Nhìn đăm đăm về phía trước, ông nói: “Cho đến khi chết tôi vẫn không thể nào quên được những chi tiết nhỏ nhặt nhất trên gương mặt chúng nó.”
Sturrock nhẹ nhàng nói: “Nhưng ông sẽ thấy chúng thay đổi ra sao. Tôi đã từng thấy cha mẹ không nhận ra con mình, dù chỉ sau một thời gian ngắn con họ sống với người Da Đỏ. Đó không chỉ là vấn đề gương mặt... mà là mọi khía cạnh. Cách chúng ăn nói, cách chúng đi đứng, cách hành xử.”
Seton nói: “Dù sao vẫn thế, tôi sẽ nhận ra chúng.”
Họ xuống ngựa bên ngoài các căn lều hình nón của người Da Đỏ, để cho các con vật gặm cỏ. Người dẫn đường đi vào căn lều lớn nhất, rồi một ông già tóc hoa râm bước ra, lắng nghe khi người dẫn đường nói với tiếng Chippewa.
Người dẫn đường thông dịch câu trả lời: “Ông ấy nói cô gái tự nguyện đến với họ. Bây giờ cô là người của họ. Ông ấy muốn biết có phải ông đến để mang cô gái đi không?”
Sturrock chen vào trước khi Seton có thể cất tiếng: “Chúng tôi sẽ không thúc ép cô làm gì mà cô không muốn, nhưng nếu cô là con gái ông này, thì ông muốn nói chuyện với cô. Ông đã tìm kiếm trong nhiều năm.”
Ông già gật đầu, rồi dẫn họ đến một căn lều khác. Sau một lúc, ông ra dấu cho Sturrock và Seton theo mình đi vào.
Thoạt đầu, khi đã ngồi xuống họ không thể nào phân biệt được gì cả. Không gian bên trong kín mít, tối đen và đầy khói. Chỉ dần dần họ mới nhận ra có hai bóng người ngồi đối diện: một đàn ông và một phụ nữ, đều là người Chippewa. Charles Seton thốt lên một tiếng nghe như mèo kêu, trân trối nhìn người phụ nữ trông như một cô gái trẻ.
Cô có làn da sậm, đôi mắt đen, mái tóc đen dài trông óng ánh. Cô mặc một chiếc áo ngoài chùng bằng da thú, quấn thêm một tấm chăn có sọc cho dù thời tiết ấm áp, và cô nhìn xuống đất. Thoạt nhìn, Sturrock chỉ nghĩ cô là người Chippewa. Ông đoán anh trai trẻ ngồi bên cô là chồng cô, cho dù họ không được giới thiệu với nhau. Sau tiếng kêu thảng thốt ấy, Seton không nói gì. Đó như thể ông bị nghẹn họng, miệng mở ra nhưng không thốt được nên lời.
Sturrock bắt đầu: “Xin cảm ơn đã đồng ý gặp chúng tôi.” Ông nghĩ trong đời mình chưa từng thấy điều gì tàn nhẫn như là nỗi đau trên gương mặt Charles Seton lúc ấy. “Xin cô vui lòng nhìn lên, để ông Seton nhìn rõ mặt cô, được không?”
Ông mỉm nụ cười có ý khuyến khích hai người trẻ ngồi đối diện. Anh trai trẻ nhìn lại ông, không tỏ lộ cảm xúc, rồi vỗ lên bàn tay cô gái. Cô ngẩng đầu, nhưng đôi mắt vẫn nhìn xuống. Tiếng thở của Seton nghe rộn ràng trong không gian eo hẹp. Sturrock hết nhìn Seton đến cô gái, chờ người này nhận ra người kia. Có lẽ chỉ là vô vọng. Một phút chầm chậm trôi qua, rồi thêm một phút.
Cuối cùng, Seton hít một hơi thở sâu: “Tôi không biết cô ấy là ai. Nếu tôi nhìn đôi mắt… thì tôi có thể nhận ra có phải là con gái tôi hay không...”
Sturrock kinh ngạc. Ông nhìn cô gái, vẫn giống như một bức tượng tạc, vẫn dùng tên Da Đỏ. Ông nhìn đôi mắt, mà trong ánh sáng lờ mờ ông thấy có vẻ như màu nâu.
Seton hít một hơi thở đau đớn: “Eve.” Một giọt lệ âm thầm chảy xuống má ông. Nhưng đó là một lời phát biểu. Sau sáu năm tìm kiếm, ông đã tìm ra một trong hai cô con gái thất lạc của mình.
Cô gái nhìn ông một lúc, rồi đôi mắt lại nhìn xuống. Đó có thể là cử chỉ gật đầu.
“Eve...”
Seton muốn nghiêng mình tới trước mà ôm lấy cô trong vòng tay. Sturrock có thể nhận ra điều này, nhưng cô gái vẫn bất động khiến cho Seton không dám có động thái gì. Ông chỉ gọi tên cô lần nữa, một hoặc hai lần, rồi cố trấn tĩnh: “Cái gì... Cha không biết làm thế nào... Con khỏe không?”
Đầu cô cử động lên xuống.
Bây giờ người đàn ông già lại cất tiếng, và người thông dịch nói: “Đây là chồng cô ấy. Ông già là bác cô. Ông đã nuôi nấng cô trong gia đình ông từ lúc họ tìm thấy cô.”
“Tìm thấy cô? Ở đâu? Lúc nào vậy? Cùng với Amy phải không? Amy đâu? Con bé có ở đây không? Ông biết không?”
Người đàn ông già nói gì đấy mà Sturrock nhận ra là tiếng chửi rủa.
Rồi Eve cất tiếng, lúc nào đôi mắt cũng nhìn xuống một điểm trên sàn: “Đó là năm, sáu, bảy năm về trước. Tôi không nhớ. Dường như là rất lâu rồi. Một thời gian khác. Sau khi đi dạo, chúng tôi lạc đường. Chúng tôi cứ đi và đi. Rồi chúng tôi mệt mỏi nên nằm xuống ngủ. Khi tỉnh dậy, tôi chỉ có một mình. Tôi không biết mình đang ở đâu, hai người khác đang ở đâu. Tôi sợ hãi và nghĩ mình sẽ chết. Rồi Bác ở đó, dẫn tôi đi theo ông, rồi ông cho tôi thức ăn và chỗ ở.”
“Còn Amy? Chuyện gì xảy ra với nó?”
Eve không nhìn qua ông: “Tôi không biết chuyện gì xảy ra. Tôi nghĩ chị ấy đã bỏ tôi. Tôi nghĩ chị ấy giận tôi và về nhà một mình.”
Seton lắc đầu: “Không. Không. Cha mẹ không biết chuyện gì xảy ra với hai con. Cathy Sloan trở về, nhưng không có dấu vết gì của con hoặc của Amy. Cha mẹ tìm kiếm và tìm kiếm. Từ ngày đó cha vẫn không bao giờ ngưng tìm kiếm, con phải tin như vậy.”
Sturrock nói qua bầu không gian im lặng: “Đúng vậy. Ngoại trừ khi ngủ, cha cô đã bỏ ra từng phút, và mọi thứ ông có, để tìm kiếm cô và chị cô.”
Seton nuốt nước bọt - tiếng nghe vang vọng trong căn lều nhỏ: “Cha phải cho con biết, cha lấy làm buồn rằng mẹ con đã qua đời ba năm trước vào tháng Tư. Mẹ con không bao giờ phục hồi được sau khi hai con mất tích. Bà ấy không chịu nổi.”
Cô gái nhìn lên, và Sturrock nghĩ mình đã thấy dấu hiệu đầu tiên - và cuối cùng - cảm xúc trên khuôn mặt cô. “Ma-man đã chết.” Cô thấu hiểu điều này, và nhìn qua chồng mình, nhưng Sturrock không thể đoán ra như thế có nghĩa là gì. Tuy là chai đá khi nói ra, đó là điều không may - sự hiện diện của Bà Seton, cho dù ở khoảng cách, hẳn sẽ tạo ra khác biệt cho những gì diễn ra kế tiếp.
Seton lau một giọt lệ trên khuôn mặt. Có một khoảnh khắc khi Sturrock nghĩ mình muốn tỏ lời, để giải thoát tình trạng căng thẳng kinh khủng mà ông vẫn mang nặng, và rồi sẽ có cách đi tới. Ông đang tự hỏi mình nên để sự việc diễn tiến trong bao lâu trước khi kết thúc cuộc gặp gỡ, trước khi mọi người trở nên bức xúc. Và rồi, đã là quá muộn.
Giọng nói của Seton nghe gay gắt và quá lớn tiếng trong căn lều kín mít: “Cha không màng sự việc ra sao, nhưng cha cần biết chuyện gì đã xảy ra với Amy. Con phải biết! Con vui lòng nói cho cha nghe.”
“Con đã nói rồi, con không biết. Con không bao giờ trông thấy chị con còn sống.”
Câu từ nghe có vẻ kỳ lạ, thậm chí đối với Sturrock.
Giọng của Seton căng thẳng nhưng kiềm chế: “Ý con nói... con thấy chị con đã chết?”
“Không! Con không bao giờ gặp lại chị ấy còn sống. Ý con nói vậy.”
Bây giờ, cô gái ủ rũ, rơi vào vị thế chống chế. Sturrock ước gì Seton bỏ ra ngoài vấn đề Amy; chẳng ích gì mà cứ truy vấn cô mãi về đứa con gái kia.
Đôi mắt Seton nhìn xa xăm, long lanh: “Con nên trở về với cha. Con phải trở về. Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm.”
Sturrock nghiêng người qua Seton, đặt bàn tay lên cánh tay ông để làm ông dịu đi. Ông thấy Seton chẳng nhận biết.
Sturrock nói với mọi người: “Xin vui lòng, tôi nghĩ chúng ta cần... Tôi xin lỗi. Đó là do đầu óc căng thẳng. Quý vị không thể tưởng tượng ra trong mấy năm gần đây ông ấy đã khổ sở đến thế nào. Ông ấy không nhận thức được mình nói gì...”
“Trời đất! Ông à, dĩ nhiên là tôi biết mình nói gì!” Seton giơ bàn tay ra trong một cử chỉ mạnh bạo: “Con bé phải trở về. Nó là con gái tôi. Không có cách nào khác...”
Rồi ông đưa tay về phía cô trên ngọn lửa, và cô né lùi ra sau. Với cử động này, cô cho thấy điều mà tấm chăn có sọc cho đến giờ vẫn che giấu: cô mang thai đã nhiều tháng.
Anh trai trẻ đứng dậy, chặn ngang giữa Seton và cô vợ: “Các ông phải về đi.” Anh nói tiếng Anh giỏi, nhưng rồi nói tiếng bản địa với người thông dịch.
Seton đang vừa thở gấp gáp vừa thổn thức, cảm thấy sốc, nhưng cương quyết: “Eve! Không cần biết. Cha tha thứ cho con! Chỉ cần về với cha. Hãy trở về với cha! Con yêu quý nhất! Con phải...”
Sturrock và người thông dịch lôi kéo Seton ra khỏi căn lều và đi đến chỗ các con ngựa. Họ cố đưa ông ngồi lên yên. Ký ức của Sturrock đã phai mờ về vụ việc, nhưng ông nhớ họ đã thuyết phục được Seton quay về. Ông này không ngừng gọi đến cô.
Một năm sau, Seton qua đời vì một cơn đột quỵ, hưởng thọ năm mươi hai tuổi. Trước đó, ông không bao giờ gặp lại Eve, và dù tìm kiếm thêm họ vẫn không có manh mối nào về Amy. Có nhiều lúc Sturrock nghĩ cô này chưa từng hiện hữu trên đời. Ông cảm thấy xấu hổ về vai trò của mình trong vụ việc: ông đã muốn dừng cuộc tìm kiếm, bởi vì không thể đáp ứng với nỗi ám ảnh của Seton; cuộc gặp gỡ với Eve đã cho ông thấy điều đó. Tuy thế, ông vẫn không đành lòng dứt ra: Seton đã quá đau khổ. Thế là Sturrock bất đắc dĩ phải tiếp tục tìm kiếm, mà không hữu ích và cũng không giúp nguôi ngoai được. Sau đó, ông nghĩ mình có người khác để làm thay cho ông. Nhưng không hiểu sao buổi chiều ở Thác Burke’s đã gắn kết hai người đàn ông trong mối liên minh thầm lặng, bởi lẽ điều lạ lùng nhất là như thế này: Seton không thừa nhận mình đã gặp Eve; ông cho biết đó là thông tin sai lạc, đó là một cô gái khác, ông thuyết phục Sturrock cũng giữ kín vụ việc, và Sturrock bất đắc dĩ phải nghe theo. Chỉ có Andrew Knox được biết về bí mật này, và đó là do tình cờ.
Một, hai lần Seton nói đến việc quay lại Thác Burke’s để cố thuyết phục Eve trở về, nhưng có vẻ ông không quyết tâm lắm. Sturrock nghi ông sẽ không chịu đựng được. Một tuần sau, Sturrock quay lại để nói chuyện với cô một mình mà không báo cho Seton biết, nhưng không thấy họ ở đâu cả. Ông nghĩ nếu có gặp họ lần nữa thì cũng chẳng ích gì.
༺༒༻
Mọi người bị thu hút theo đường đi về hướng bắc dọc theo con sông. Có lời đồn đại rằng bây giờ có thêm nhiều người đang chuẩn bị lên đường. Người tìm kiếm này tiếp nối người tìm kiếm kia. Dĩ nhiên là cô không ở trong số này. Nhưng cô cũng cảm thấy bị thu hút - chính vì thế mà cô đang ở đây. Một cơn gió sắc lẻm cắt vào mặt Maria khi cô đi theo con đường mòn dọc bờ sông. Cây cối thưa thớt; lá rụng trên đường biến thành sình lầy, lớp tuyết dơ bẩn. Cô nhìn thấy khu đất lõm xuống của Ghềnh Đầu ngựa phía trước, phía dưới dòng nước chảy cuộn. Vào mùa hè, cô và Susannah thường đến đây bơi lội, nhưng vài năm trước việc này đã chấm dứt. Maria không còn bơi lội nữa kể từ khi cô nhìn thấy nó trong nước.
Cô không phải ở trong số người tìm ra nó - đó là một nhóm những anh trai trẻ đến câu cá, nhưng tiếng la thét của họ khiến cho Maria và anh bạn thân nhất của cô lúc ấy là David Bell phải chú ý. David là một học sinh ở trường đã đặc biệt chú ý đến cô; hai người không phải là đôi tình nhân, nhưng là hai người lạc lõng chơi thân với nhau trong thái độ chống đối cả thế gian còn lại. Họ đi thơ thẩn trong rừng, hút thuốc và bàn luận về chính trị, sách báo và những nhược điểm của giới đồng lứa. Maria không thích hút thuốc lắm nhưng chỉ muốn làm việc bị cấm đoán, nên cô phải cố làm.
Khi nghe tiếng kêu khẩn cấp, hai người chạy lên theo bờ sông, và thấy các anh trai trẻ đang nhìn xuống dòng nước. Bọn họ đang cười cợt, trái ngược với tiếng kêu đánh động lúc đầu. Một anh quay sang nói với David: “Tới xem này! Bạn chưa từng thấy cái gì như vậy!”
Hai người bước đến bờ sông, nụ cười đã nở trên khuôn mặt háo hức, và rồi họ thấy hiện diện trong dòng nước là cái gì.
Maria lấy hai bàn tay che mặt trong cơn sốc.
Dòng sông đang chơi khăm họ. Từ làn nước sâu màu nâu, hai bàn tay nhô lên cử động lượn lờ, da trắng nhạt và hơi trương phù. Rồi cô nhìn ra cái đầu phía dưới, lúc quay mặt về phía họ, lúc quay mặt đi. Ký ức cô vẫn còn nhớ rõ gương mặt lúc bấy giờ, nhưng cô không thể diễn tả được: đôi mắt đang nhắm hay mở, miệng như thế nào cô cũng không rõ. Có một vẻ khủng khiếp lạ lùng trong chuyển động lờ đờ của thi hài bị vướng trong dòng nước xoáy; qua ngẫu nhiên kỳ dị mà thi hài quay tròn ở một chỗ, đôi tay giơ cao khỏi đầu như đang trong một điệu vũ quay theo truyền thống, và cô cũng như những người khác không thể ngưng nhòm ngó. Cô biết người này đã chết, nhưng không nhận ra đó là ai. Ngay cả sau này, khi được cho biết đó là Bác sĩ Wade, cô không thấy gương mặt chìm trong nước tương đồng với ông già Scotland mà cô nhớ lúc còn sống.
Ngay cả bây giờ, trong cả mấy năm sau này, cô phải thu can đảm nhìn xuống vực nước sâu thẳm. Để biết chắc là không có gì.
Khi hai người rời khỏi con sông, David cầm lấy tay cô trên đường về nhà. Anh im lặng, là điều bất thường đối với bản chất của anh, và trước khi hai người đi ra khỏi khu rừng cây, anh kéo cô đến gần một thân cây và hôn cô. Có một vẻ vô vọng trong ánh mắt anh khiến cho cô sợ hãi; cô không biết ý nghĩa của ánh mắt ấy là gì. Tê cứng người, không thể đáp ứng và không hiểu sao lại cảm thấy khó chịu, cô rời xa anh rồi bước đi về nhà trước anh. Sau đó, tình bạn giữa hai người không bao giờ thân thiết như trước, và mùa hè năm sau gia đình anh trở về miền đông. Anh là đứa con trai duy nhất muốn hôn cô, cho đến lúc sau này là Robert Fisher.
Sau gần một tiếng đồng hồ, cô đến ngôi nhà gỗ của Jammet và xuống ngựa. Cô bước qua lớp tuyết thối rữa để đi vòng đến cửa trước. Mái nhà lạnh lẽo vẫn còn có tuyết bên trên; ngôi nhà gỗ trông nhỏ nhoi, buồn nản. Có lẽ vụ án mạng sẽ khiến cho không ai muốn mua ngôi nhà, trong khi vụ chết đuối thì không thế.
Có nhiều vết chân vòng quanh ngôi nhà gỗ, phần lớn là của trẻ con chơi trò thách thức nhau. Nhưng ngay phía trước cánh cửa, mặt đất trơn tru - gần đây không có ai bước vào. Maria cả quyết tiến đến. Một sợi dây kẽm giữ cánh cửa đóng lại. Cô tháo sợi dây kẽm ra, làm sướt một ít da trên ngón cái. Cô chưa từng đi vào đây; người ta vẫn nghĩ con gái gia đình danh giá không nên làm bạn với Jammet. Cô thì thầm lời xin lỗi hương hồn anh, hoặc đại khái như thế, vì tội xâm nhập. Cô đang tự nhủ mình chỉ đến kiểm tra để đảm bảo tấm thẻ xương không bị bỏ sót trong một góc kẹt nào đó. Người ta dễ dàng không để ý đến một vật nhỏ như tấm thẻ. Cô cũng đang thu can đảm để làm việc mà cô sợ, tuy là chính xác sợ cái gì thì cô không rõ.
Chỉ có ánh sáng yếu ớt chiếu qua khung cửa sổ bằng tấm da hoẵng; cả không gian tạo cảm tưởng kỳ quái như là được phủ dưới một tấm màn the. Vô cùng yên ắng. Không có gì bên trong, ngoại trừ một tủ chè và chiếc lò trong gian bếp, đang chờ bàn tay mới để hồi sinh. Và bụi bặm, trông như một lớp tuyết mỏng trên sàn nhà. Hai bàn chân cô đang in dấu vết bước đi trên đó.
Hóa ra là khi bạn nhìn rõ thì mới thấy một ngôi nhà dù xem trống vắng vẫn còn phô bày nhiều thứ: những món vật dụng nhà bếp cũ kỹ, những trang giấy báo, một dúm đinh, một nùi tóc đen (khiến cho cô rùng mình), một sợi dây cột giày ủng... Tất cả những thứ mà người ta không màng mang đi bởi vì chẳng có giá trị gì cả; bởi vì không ai cần đến, ngay cả người đã ở đây.
Chúng ta đã để lại quá ít.
Bây giờ không có cách gì biết được con người Laurent Jammet là như thế nào; cô lại càng không biết. Cô đi xem xét kỹ càng trên lầu, nơi có vài chiếc hộp bằng gỗ đựng nửa đầy các món. Không có gì trông giống như tấm thẻ xương, nhưng cô tìm ra một thứ gì khác, một cái gì đó được nhét vào cái khe giữa khung cửa và bức tường (điều gì đã khiến cho cô tìm kiếm ở đây?).
Một mẩu giấy màu nâu, giống như thứ bạn thấy để gói hàng ở cửa hàng của Scott, mà ai đó đã phác họa Laurent Jammet bằng viết chì. Maria thẹn đỏ mặt: trên bức họa, Jammet nằm trên giường, hẳn là đang ngủ, khỏa thân. Lúc ấy hẳn là mùa hè, vì một tấm chăn mỏng quấn quanh chân anh, như thể trong đêm anh đã đạp nó ra. Nhà họa sĩ không giỏi nhưng có hoa tay, và cho cảm tưởng về sự thân mật giữa người này và Jammet. Khi nhìn sự thể hiện một người đàn ông khỏa thân, Maria cảm thấy không những xấu hổ nóng bừng, mà còn ân hận như thể cô đã xâm phạm cõi riêng tư, được ẩn giấu sâu kín nhất trong tâm tư ai đó. Bởi vì cô tin chắc rằng người phác thảo bức họa, dù người phụ nữ này là ai, đã đem lòng yêu Jammet. Rồi cô nhận ra nét gì đó trông giống chữ ký, viết nguệch ngoạc. Trông giống như Françoise. Cô tin chắc không có chữ cái “e”. Không phải là Francoise.[63]
Và rồi lập tức cô nghĩ đến Francis Ross.
Cô đứng đó nắm lấy mẩu giấy, không nhận ra là trời đã gần tối. Cô hoảng hốt nhìn thấy máu của mình đã bết thành một vệt trên mảnh giấy. Ý tưởng mạch lạc đầu tiên của cô là nên đốt mảnh giấy này, kẻo người khác tìm thấy và đi đến cùng kết luận. Rồi với ít xúc động trong con tim, cô nhận ra rằng nên trao bức họa cho Francis, bởi vì nếu là cô thì cô sẽ muốn nhận lại (nếu đôi má cô không còn cháy bỏng). Cô có cảm nhận kỳ lạ, xốn xang một cách sâu sắc, rồi cẩn thận gấp mảnh giấy lại, mặt bức họa bên trong, trước khi cho vào túi áo. Rồi cô lại rút ra, mường tượng em gái mình thò bàn tay vào túi mà tìm thấy. Thay vào đó, cô nhét mảnh giấy bên trong áo lót, nơi chỉ có mình cô chạm đến. Ở đó, kế bên quả tim, mảnh giấy cháy bỏng như than hồng, khiến cô cảm thấy một luồng hơi nóng vì hổ thẹn lan đến cổ họng. Cuối cùng, cô vội vàng nhét mảnh giấy vào một bên chiếc giày ủng, nhưng ngay cả từ nơi đó những tia nóng tỏa lan lên chân khi phi ngựa quay về Caulfield trong bóng tối đang ập xuống.
༺༒༻
Line đang bận rộn nhóm một đống lửa. Sau tiếng nổ của súng trường, không có gì khác xảy ra. Họ chờ đợi, ban đầu trò chuyện, kích xúc, vui vẻ, rồi im bặt, xúm xít ngồi bên nhau gần đống lửa. Ngọn lửa bắt đầu tàn lụi quá nhanh; bóng tối lan đến những hốc rễ và gốc cây mục. Line nấu nước và cho đường vào, rồi bắt hai đứa trẻ uống trong khi nước còn nóng, khiến chúng gần bị bỏng miệng. Cô làm món hầm gồm bột yến mạch, dâu rừng và thịt lợn phơi khô, rồi họ ăn trong im lặng, chờ đợi tiếng những bước chân và một thân người hiện ra giữa lùm bụi. Phần ăn của Espen khô cứng lại trong chiếc ấm. Nhưng anh vẫn chưa quay lại.
Line né tránh các câu hỏi của hai đứa trẻ, sai chúng nhặt thêm cúi để duy trì đống lửa cho sáng hầu anh có thể nhận ra từ xa. Rồi cô dựng chỗ trú ẩn cho chúng ngủ. Lúc đó chúng mới thôi hỏi han.
Nhưng, sau khi Anna đã cuộn mình trong giấc ngủ quanh một bên đùi Line, Torbin phía bên kia thì thầm với cô. Cậu bé đã im lìm trong một, hai ngày qua, từ lúc họ đánh rơi chiếc la bàn. Không như bản chất bình thường của nó.
Giọng cậu bé run run: “Ma-man, con xin lỗi.”
Cô vuốt tóc nó với bàn tay không mang găng: “Suỵt. Ngủ đi.”
“Con xin lỗi đã bỏ chạy, nếu không thì chúng ta đã không mất la bàn, phải không? Và Espen không phải đi như thế này. Và bây giờ bác ấy cũng đi lạc...” Cậu bé nức nở: “Tất cả là do lỗi của con.”
Line nói mà không nhìn đến đứa con trai: “Đừng có ngốc. Hoàn cảnh là vậy. Ngủ đi.”
Nhưng cô mím môi lại một cách nghiêm khắc: sự thật là, chính vì lỗi của nó mà họ mất chiếc la bàn. Chính vì lỗi của nó mà họ đi lạc trong vùng rừng lạnh lẽo; chính vì nó mà, một lần nữa, cô mất người đàn ông của đời mình. Bàn tay cô vẫn vuốt đầu cậu bé một cách máy móc, và cô không để ý là Torbin đã co cứng người lại; không để ý là cô đang làm nó đau, nhưng nó không dám bảo cô dừng tay lại.
Cô không ngủ được, nên cô ngồi gần cửa lều trú ẩn nhìn ra ngọn lửa với hai đứa trẻ cuộn tròn quanh lưng và chân cô. Cô cố không suy nghĩ gì cả. Quả là dễ khi Torbin và Anna còn thức và cô phải trấn an chúng, nhưng khi một mình, chỉ còn lại nỗi sợ hãi thì khó mà ngăn chặn được. Dù cho đang lạc đường, lạnh giá, ở sâu trong rừng, chung quanh là tuyết và có Trời mà biết còn những gì khác, nỗi sợ hãi lớn nhất là Espen bỏ rơi cô. Khi còn ngồi trong chuồng gia súc ở Himmelvanger, cô biết mình có thể gây áp lực bắt buộc anh làm theo ý mình, dù cho anh không toàn tâm toàn ý. Bây giờ cô chợt nghĩ ra rằng anh lấy tiếng súng trường là cái cớ; rằng anh đã bỏ đi mà không định quay về; và lần này cô không biết tìm anh ở đâu.
Gần đó, hai con ngựa đứng nối đuôi nhau, đầu cúi xuống. Có lúc, khi cô cảm thấy rất lạnh, một con tỏ ra hoảng sợ cái gì đó giữa đám cây cối. Nó dỏng tai ra hai bên, đầu lắc lư qua lại như thể nó nhận ra sự đe dọa nhưng không biết đích xác ở đâu. Con ngựa kia - con đang bị bệnh - hầu như bất động. Sau cơn sốc ban đầu gần đứng tim, Line cố nhìn ra bóng tối, hy vọng nghe tiếng Espen, nhưng biết rằng con Jutta hẳn không phản ứng như thế nếu đó là anh. Cô không nghe gì cả. Cuối cùng, cô không thể chờ đợi và cũng không thể chống chọi cơn buồn ngủ, nên cô nằm xuống bên cạnh hai đứa con, lấy tấm khăn choàng phủ lên mặt.
Hầu như lập tức, cô mơ thấy Janni. Anh đang bị rắc rối và dường như gọi đến cô. Anh ở nơi đâu đó tối tăm, xa xôi và lạnh lẽo. Anh nói rất tiếc đã tỏ ra ngu xuấn, đã nghĩ có thể kiếm tiền theo cách đó, bằng cách trộm cắp và nổi loạn. Bây giờ anh đang trả giá bằng cuộc đời mình. Cô có thể trông thấy anh qua một khoảng cách xa xăm, và có vẻ như anh đang nằm trên nền tuyết, một vết sẫm màu nhỏ xíu trên nền trắng mênh mông. Cô khát khao muốn đến với anh, nhưng không được. Rồi tất cả đều thay đổi: anh ở sát bên cô, gần gũi đến nỗi cô có thể cảm nhận hơi ấm của anh, hơi thở ẩm trên mặt cô. Trong giấc mộng, cô nhắm mắt lại và mỉm cười. Hơi của của anh hôi hôi nhưng ấm ấm, đúng là hơi thở của anh. Cô không hề mơ thấy Espen.
Cô thức giấc trước khi trời sáng hẳn. Đống lửa đã tắt, chỉ còn lại một đống tro than lộn xộn; bầu không khí ẩm ướt và có mùi đặc biệt khi tuyết tan gây ra. Cô không thấy hai con ngựa đâu; hẳn chúng đã đi đến phía sau căn lều, tìm nơi gặm cỏ. Không có dấu hiệu gì của Espen - nhưng rồi, cô đã không nghĩ sẽ có. Cô chống hay khuỷu tay ngồi dậy, đôi mắt cô quen dần với khung cảnh màu xám. Và rồi cô nhìn ra khoảnh tuyết bị giẫm đạp và dơ bẩn chỉ cách không tới hai mươi mét.
Ban đầu, cô không muốn tin vết màu đỏ sậm là máu, rồi cô đúc kết các chi tiết: một đường màu đỏ hình vòng cung trên mặt tuyết; ở đây là một vết màu đỏ, và có những dấu chân ngựa dẫm sâu xuống lớp tuyết dày. Cô không dám gây tiếng động. Không nên để cho hai đứa trẻ thấy, kẻo chúng hoảng loạn... Rồi cô nhìn xuống.
Giữa hai khuỷu tay cô, ép xuống lớp tuyết bên ngoài căn lều, là một dấu vuốt. Chỉ có một. Rộng ít nhất mười phân, với những lỗ của móng vuốt phía trước. Một vết màu đỏ sậm nhuộm hai lỗ bị lún xuống.
Giật nẩy người, cô nhớ lại lời Espen đã gọi cô: ma nữ - đó là một phụ nữ sống cùng đàn sói. Miệng đắng chát, cô nhớ lại hơi thở hôi hôi ấm ấm trong giấc mộng, và còn nhớ mình cảm thấy thích hơi thở ấy. Con sói hẳn đã đứng ngay phía trên cô, dựa người vào bên trong, hơi thở phả vào mặt cô khi cô đang ngủ.
Line bật đứng dậy. Cô đá cho tuyết sạch che lấp các dấu vết, tung tuyết lên các vệt máu. Cô có thể thấy một vệt dấu khi Bengi cố chạy thoát, theo sau là đàn sói - hẳn phải có hơn một con. May mắn là vệt dấu dẫn từ hướng họ đã xuất phát về đến đây; họ sẽ không phải nhìn những dấu vết ấy dẫn đến đâu hoặc chấm dứt thế nào.
Cô thấy một vệt dấu khác, và trân trối nhìn: một dấu giày ủng in sâu kế một thân cây tuyết tùng. Phải mất một lúc lâu cô mới nhận ra rằng đó là dấu giày ủng của Espen, từ hôm qua. Anh đang đi về hướng tây, trong khi đường đi của họ là về hướng nam. Từ lúc anh đi, tuyết không rơi thêm nữa, không có gì che phủ dấu vết anh. Anh đã có thể lần theo dấu vết của mình và quay lại với ba mẹ con, nhưng không hiểu sao anh đã không làm thế.
Line nhảy dựng lên, tim đập thình thịch, vừa lúc đó con Jutta từ trong khoảnh rừng chạy ra, và Line thở dài nhẹ nhõm khi con ngựa cọ mũi vào nách cô. Cả người và ngựa đều cảm giác nhẹ nhõm như nhau.
Line nói với con vật một cách sôi sục: “Ta sẽ ổn. Ta sẽ ổn. Ta ổn thôi.”
Cô nắm lấy bờm con ngựa cho đến khi cô ngừng run rẩy, rồi đi vào đánh thức hai đứa trẻ, để bảo chúng phải tiếp tục đi.
༺༒༻
Donald nhìn dõi theo Parker và Bà Ross rời khỏi thương điếm. Họ bước qua cánh cổng rồi đi theo hướng tây-bắc mà không nhìn ngoái lại. Nesbit và Stewart chúc hai người lên đường bình an, rồi trở vào văn phòng. Nesbit ném ánh mắt khó chịu, có ý nghĩa qua Donald, tỏ vẻ chê bai Bà Ross và Parker, mà cũng chê cả Donald. Tuy cố chịu đựng, Donald vẫn bực tức. Anh nghĩ Parker là người ngu xuẩn khi cố phân bày lý lẽ của ông, và còn tệ hơn khi ông nói Bà Ross sẽ đi cùng ông, dù đấy cũng là ý muốn của bà. Anh đã kéo bà qua một bên mà cho bà biết ý kiến của anh. Bà có thấy buồn cười vì anh không, hay đó chỉ là do anh tưởng tượng? Cả Parker và bà đều cố thuyết phục anh rằng cần thiết phải theo dõi những động thái của Stewart, và cho dù anh không thấy cần thiết, anh nghĩ mình sẽ làm theo.
Anh nhìn dõi theo Stewart đi đến ngôi làng để hỏi han về Elizabeth. Mặc cho cô tỏ thái độ thù nghịch u uẩn, Stewart không ngừng để ý đến cô. Phần mình, anh không thể trấn áp nỗi thôi thúc đến thăm cô lần nữa. Anh càng thêm hiếu kỳ mãnh liệt về cô từ lúc anh tin cô là một trong hai con gái nhà Seton, dù dựa trên cơ sở mong manh là tên con gái của cô. Không, không phải chỉ có thế; anh còn dựa theo vóc dáng bên ngoài của cô cho thấy chắc chắn là người da trắng, và anh thấy rõ cô có phần giống Bà Knox. Sau khi Stewart đã quay về văn phòng ông, anh đứng bên ngoài căn lều cô, chờ đợi một dấu hiệu để bước vào.
Ngọn lửa làm mắt anh cay sè, anh phải thở qua miệng để thích ứng với làn khói và mùi cơ thể chưa tắm rửa.
Elizabeth ngồi xổm gần lò sưởi, đang lau mặt cho đứa bé gái đang khóc. Cô ném nhanh tia nhìn khinh thường về phía Donald, rồi nhấc đứa bé đang kêu la mà trao cho Donald: “Anh nhận nó đi. Nó đang làm khổ thân tôi.”
Elizabeth đi vào phía sau bức vách ngăn phòng ngủ, để lại Donald với đứa bé gái vẫn còn giẫy đạp trên tay anh. Anh bối rối xóc nhẹ cô bé lên xuống, và nó nhìn anh.”
“Amy, đừng khóc. Này, này.”
Nếu không kể kinh nghiệm của anh với đàn con của Jacob, đây là lần đầu tiên anh bế một đứa nhỏ. Anh ôm lấy cô bé như thể nó là một sinh vật nhỏ khó lường với hàm răng bén nhọn. Tuy nhiên, nhờ phép mầu nào đó mà cô bé nín khóc.
Khi Elizabeth quay lại, Amy đã tìm ra chiếc cà vạt của Donald, cảm thấy lạ lẫm và đang đùa nghịch. Elizabeth nhìn họ một lúc, rồi thình lình hỏi: “Điều gì khiến cho anh nghĩ đến nhà Seton? Chỉ là cái tên thôi hà?”
Donald nhìn lên, cảm thấy bất ngờ. Anh đã định hỏi cô về Stewart.
“Tôi nghĩ vậy. Nhưng câu chuyện là trong đầu tôi, cô xem, bởi vì gần đây có người hiểu rõ câu chuyện này nói cho tôi nghe.”
“À.” Nếu cô có mối quan tâm, thì quả thực cô đã che giấu giỏi.
“Gần đây tôi quen biết gia đình của Andrew Knox. Vợ ông ấy là, à, bà ấy...” Anh đang chăm chú quan sát cô, trong khi đứa bé nắm chiếc cà vạt của anh giật mạnh khiến anh gần nghẹt cổ, “... bà ấy là em của Bà Seton, mẹ của cô gái.”
Cô lại nói: “À.”
“Bà là một người phụ nữ vui vẻ, hiền hòa. Người ta có thể nói rằng sau nhiều năm, bà rất đau khổ đối với vụ mất tích.”
Bầu không gian im lặng bao trùm, chỉ có tiếng lửa lách tách làm ngắt quãng.
“Bà ấy nói gì về chuyện này?”
“À, đó là... cha mẹ họ rất buồn. Họ không bao giờ nguôi ngoai.”
Donald cố nhìn ra cảm xúc trên gương mặt cô, nhưng cô càng tỏ vẻ bực tức thêm.
“Họ - hai ông bà Seton - bây giờ đã qua đời.”
Cô gật đầu. Donald đã ngừng thở, và bây giờ anh thở ra.
Khẽ thở dài, cô nhỏ nhẹ nói: “Kể cho tôi nghe về Dì Alice.”
Donald cảm thấy rộn ràng. Anh cố không lộ ra ngoài, hoặc nhìn cô quá chăm chú. Cô nhìn đến đứa bé, tránh ánh mắt của anh.
“À, họ sống ở Caulfield, bên Vịnh Georgian. Ông Knox là quan tòa ở đó, một người có danh giá, và họ có hai con gái là Susannah và Maria.” Cảm thấy bạo dạn thêm, anh hỏi: “Cô còn nhớ hai người này không?”
“Dĩ nhiên. Lúc đó tôi mười một tuổi, không phải là em bé.”
Donald cố kiềm hãm nỗi kích xúc thoát ra ngoài cửa miệng, nhưng làm thế lại khiến anh ôm đứa bé quá chặt. Nó nắm tay lại đẩy vào cặp kính anh đang mang để trả đũa.
“Susannah... Tôi không nhớ là người nào. Lần cuối tôi gặp hai người, thì một người chỉ là em bé nhỏ. Người kia không lớn hơn hai hoặc ba tuổi.”
Anh nói: “Maria lúc đó hai tuổi.” Anh có cảm giác nồng ấm khi nhắc đến tên cô.
Elizabeth nhìn vào những bóng tối, và anh không rõ cô đang nghĩ gì. Anh gỡ những ngón tay mạnh mẽ đến đáng ngạc nhiên của đứa trẻ trong miệng mình.
“Tất cả họ đều khỏe mạnh, và... họ là một gia đình dễ mến. Cả gia đình. Họ rất tử tế với tôi. Ước gì cô có thể gặp họ. Gia đình sẽ rất vui được gặp cô... mà cô không tưởng tượng được.”
Cô mỉm cười một cách lạ kỳ: “Tôi nghĩ anh sẽ kể cho họ về tôi.”
“Chỉ khi cô muốn.”
Cô quay đầu đi, nhưng khi cất tiếng giọng nói của cô vẫn không thay đổi: “Tôi phải nghĩ đến các con tôi.”
“Dĩ nhiên rồi. Cô hãy suy nghĩ. Tôi biết họ không thúc ép cô làm việc mà cô không muốn.”
Cô lặp lại: “Tôi phải nghĩ đến các con tôi. Bây giờ, không có một người cha...”
Phải khó khăn lắm Donald mới rút ra chiếc khăn tay từ phía dưới thân người đứa bé. Nhưng khi Elizabeth quay lại, mắt cô vẫn khô ráo.
“Họ có nói cha tôi đã tìm ra tôi không?”
“Cái gì? Họ bảo không bao giờ tìm được cô!”
Nét mặt cô thoáng hiện vẻ gì đó - đau khổ? hồ nghi? “Ông ấy nói như vậy hả?”
Donald không biết trả lời ra sao.
“Tôi từ chối trở về với ông ấy. Tôi vừa kết hôn chưa lâu. Ông ấy luôn hỏi về Amy. Có vẻ như ông đổ lỗi cho tôi vì chị ấy đã không có mặt ở đó.”
Donald không thể giấu vẻ bị sốc.
“Anh không hiểu sao? Họ mất hai con gái, nhưng tôi mất tất cả! Gia đình của tôi, mái ấm của tôi, quá khứ của tôi... Tôi còn phải học lại tiếng nói! Tôi không thể tách ra khỏi bất cứ thứ gì tôi đã biết... một lần nữa.”
“Nhưng...” Anh không biết nói gì.
“Mặt ông ấy lộ vẻ kinh hoàng khi ông thấy tôi. Ông ấy không bao giờ quay lại sau lần đó. Ông đã có thể quay lại. Chính Amy là người ông hy vọng tìm được. Lúc nào ông cũng cưng chị ấy hơn.”
Donald nhìn qua đứa trẻ vô tư, giúp anh không bị áp đảo vì lòng thương hại.
“Ông ấy bị sốc… Cô không nên trách ông vì đã hỏi. Ông ấy cứ tiếp tục tìm kiếm cho đến khi chết.”
Cô lắc đầu, mắt nghiêm khắc như muốn nói: Anh thấy hay sao?
“Cô là…” anh cố nói cho thông suốt hơn bí ẩn lớn nhất vào thời đó! “Cô trở nên nổi tiếng, ai cũng biết trường hợp của cô. Nhiều người ở khắp Bắc Mỹ gửi thư tới, mạo nhận là cô - hoặc đã trông thấy cô. Thậm chí có người ở Tân Tây Lan cũng gửi thư đến.”
“À.”
“Tôi đoán cô không nhớ chuyện gì đã xảy ra.”
“Bây giờ thì có quan trọng không?”
“Nếu tìm ra sự thật thì lúc nào cũng quan trọng, phải không?” Anh nghĩ đến Laurent Jammet, nghĩ đến việc họ đi tìm sự thật - tất cả những sự kiện ấy va vào nhau như hàng quân cờ domino - tất cả dẫn anh đi qua khu đồng bằng phủ tuyết để đến ngôi nhà nhỏ này.
“Tôi nhớ... Tôi không biết anh nghe kể ra sao, nhưng chúng tôi đi dạo chơi. Đi hái dâu, tôi nghĩ vậy. Chúng tôi cãi cọ nhau về việc nên dừng lại ở đâu; cô kia, tên chị là gì, Cathy thì phải? - chị ấy không muốn đi xa; chị bảo sợ mặt bị rám nắng bởi vì lúc ấy trời nóng. Thật ra, chị sợ lùm bụi.”
Đôi mắt Elizabeth nhìn đến một điểm quá vai Donald. Anh không dám cử động, kẻo làm cô đứt mạch hồi ức.
“Tôi cũng cảm thấy sợ. Sợ người Da Đỏ.” Cô khẽ mỉm cười. “Rồi tôi tranh cãi với Amy. Chị ấy muốn đi xa hơn, và tôi lo lắng về việc không nghe lời cha mẹ. Nhưng tôi cũng đi bởi vì không muốn ở lại một mình. Trời tối dần và chúng tôi không thể tìm ra con đường mòn. Amy luôn miệng nói tôi đừng ngu ngốc. Rồi chúng tôi bỏ cuộc và ngủ thiếp đi. Ít nhất, tôi nghĩ... Và rồi...”
Sự im lặng kéo dài, lấp đầy ngôi nhà nhỏ với những hồn ma.
Donald ngừng thở.
“… chị ấy không còn ở đó nữa.”
Đôi mắt cô định thần trở lại, bắt gặp ánh mắt của anh. “Tôi nghĩ chị ấy đã tìm đường về và để tôi ở lại trong rừng vì chị giận tôi. Và không ai đi tìm tôi… cho đến khi bác tôi - bác người Da Đỏ của tôi - tìm thấy tôi. Tôi nghĩ gia đình đã bỏ mặc cho mình chết.”
“Họ là cha mẹ cô. Họ thương yêu cô. Họ không bao giờ ngưng tìm kiếm.”
Cô nhún vai: “Tôi không biết. Tôi chờ đợi trong một thời gian dài. Không ai đến. Rồi, khi gặp lại người cha, tôi nghĩ ‘bây giờ cha đến khi con đang hạnh phúc, khi đã quá muộn’. Và ông ấy luôn hỏi về Amy.” Giọng nói cô nhẹ như gió thoảng khàn khàn.
“Thế là Amy... mất tích trong rừng phải không?”
“Tôi nghĩ chị ấy đã trở về nhà. Tôi nghĩ chị bỏ tôi ở lại.”
Elizabeth - dù chuyện gì xảy ra, anh vẫn nghĩ đến cô như là Eve - nhìn anh, một giọt lệ lăn dài trên má: “Tôi không biết chuyện gì xảy ra với mình. Tôi kiệt sức. Tôi ngủ thiếp đi. Tôi nghĩ mình nghe tiếng chó sói, nhưng có thể tôi nằm mơ. Tôi quá sợ nên không dám mở mắt. Tôi hẳn nhớ nếu mình la hét hoặc khóc lóc, nhưng không có gì. Tôi không biết. Tôi không biết.”
Giọng nói cô nhỏ dần cho đến khi mất hẳn.
“Cảm ơn cô đã kể cho tôi nghe.”
“Tôi cũng mất chị ấy.”
Cô cúi mặt xuống cho đến khi khuôn mặt khuất trong bóng tối. Donald cảm thấy xấu hổ với chính mình. Cha mẹ cô đã là đối tượng cho nhiều lòng cảm thông; mọi người đều cảm thấy choáng vì sự mất mát của họ. Nhưng người thất lạc cũng đau buồn.
“Cô ấy có thể còn sống ở đâu đó. Chỉ vì ta không biết mà không có nghĩa là cô ấy đã chết.”
Elizabeth không trả lời và cũng không ngẩng đầu lên.
Donald chỉ có một người anh mà anh chưa bao giờ thật sự thương mến; viễn cảnh anh ấy biến mất hẳn trong rừng quả là hấp dẫn. Donald nhận ra chân phải mình đã tê dại, và gây đau đớn khi phải cử động. Anh cố lấy giọng vui vẻ: “Và đây là Amy...” Đứa trẻ trong lòng anh đang vô tư lự đưa tay kéo lấy đôi bít tất. “Tôi xin lỗi đã khiến cho cô nói ra chuyện ấy.”
Elizabeth ôm lấy đứa bé, lắc đầu. Cô đi tới đi lui một chốc.
“Tôi nhờ anh kể cho họ nghe về tôi.” Cô hôn Amy, ép mặt đứa bé vào cổ mình.
Bên ngoài ngôi nhà, hai người phụ nữ đang thảo luận sôi nổi. Một người là Norah.
Donald quay sang Elizabeth: “Xin nhờ cô một việc nữa. Cô có thể cho biết, họ đang nói chuyện gì vậy?”
Elizabeth nở nụ cười mỉa mai: “Norah lo lắng cho Nửa Người. Anh ấy đang đi đâu đó cùng với Stewart. Norah bảo anh ấy từ chối, nhưng anh không chịu.”
Donald nhìn về phía tòa nhà chính, tim anh như chợt nhảy lên cổ họng. Chuyện này đang xảy ra hay sao?
“Anh ấy có nói ở đâu, hoặc tại sao không? Đây là chuyện quan trọng.”
Elizabeth lắc đầu: “Đi xa. Có lẽ đi săn... tuy rằng anh ấy thường say rượu nên khó bắn cho trúng.”
“Stewart nói ông ấy sẽ đi tìm thi hài chồng cô.”
Cô không buồn trả lời. Anh tính toán nhanh chóng: “Tôi sẽ đi theo họ. Tôi phải xem họ đi đâu. Nếu tôi không quay lại, cô sẽ biết rằng lời cô nói là sự thật.”
Elizabeth lộ vẻ ngạc nhiên - lần đầu tiên cô có thái độ này: “Nguy hiểm lắm. Anh không đi được.”
Donald cố phớt lờ vẻ chế giễu trong giọng nói của cô: “Tôi phải đi. Tôi cần chứng cứ. Công ty cần chứng cứ.”
Ngay khi đó Alec, đứa con trai đầu lòng của cô, đi ra từ một nhà láng giềng với một đứa trẻ trai khác, và hai người phụ nữ rời xa nhau, Norah quay lại tòa nhà chính. Elizabeth cất tiếng gọi thằng bé, và nó đi về phía mẹ nó.
Cô nói với nó bằng tiếng bản địa một lúc, rồi bảo Donald: “Alec đi với anh. Nếu không anh sẽ lạc đường.”
Donald há hốc miệng. Đầu thằng bé chưa đến vai anh. “Không, tôi không thể... Tôi tin chắc mình sẽ ổn. Không khó đi theo dấu vết.”
Cô nói đơn giản, dứt khoát: “Nó sẽ đi với anh. Nó cũng muốn thế.”
“Nhưng tôi không thể...” Anh không biết nói thế nào - anh cảm thấy mình thiếu kỹ năng chăm sóc được ai trong thời tiết này; thậm chí không chăm sóc được chính mình, huống hồ một đứa trẻ. Anh nhẹ giọng: “Tôi cũng không thể nhận trách nhiệm đối với nó. Nếu có chuyện gì xảy ra thì sao? Tôi không thể cho phép nó đi cùng.” Anh cảm thấy nóng bừng vì xấu hổ và vô dụng.
Elizabeth chỉ nói đơn giản: “Bây giờ nó là một người đàn ông rồi.”
Donald nhìn sang đứa trẻ; nó ngước mặt nhìn anh mà gật đầu. Donald không thấy nó giống Elizabeth chút nào: da ngăm đen, mặt dẹt, mắt hình quả hạnh dưới làn mi dày. Nó hẳn phải giống cha nó.
Sau đó, khi anh đang đi về phòng mình để chuẩn bị hành trang, Donald nhìn ngoái lại, thấy Elizabeth đang đứng ở ngạch cửa, nhìn anh.
“Cha cô chỉ muốn có câu trả lời. Cô biết vậy, phải không? Không phải là ông ấy không thương cô. Bản chất con người là muốn có câu trả lời.”
Cô đăm đăm nhìn anh, đôi mắt nheo lại trong ánh chiều tà trông như thép nguội. Đăm đăm nhìn nhưng không nói gì cả.
[63] François - Françoise: trong tiếng Pháp, François là tên của phái nam, còn Françoise là tên của phái nữ.