Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 19

Quả là lý thú khi theo dõi sự thăng trầm của người làm việc tại thương điếm. Cách thức họ được phân chia ra hoặc nhập chung với nhau. Từ quan sát của riêng mình, tôi thấy rõ rằng Olivier không được những nhân viên khác yêu mến lắm. Anh làm việc bên cạnh Stewart, chạy việc vặt cho ông, thậm chí còn rập khuôn theo kiểu cách của ông. Về phần những người khác, người da trắng và người bản địa cách biệt nhau, và Olivier bị xem là kẻ bỏ hàng ngũ vì về hùa với phe kia. Ban đầu tôi nghĩ họ kính trọng Stewart hoặc thậm chí yêu mến ông. Bây giờ tôi không chắc. Có sự kính trọng nhưng theo cách thận trọng cảnh giác, với thái độ mà người ta đối phó với một con thú có thể trở nên nguy hiểm. Norah ghét ông, và trong khi có thái độ chăm sóc Nesbit, cô đều bất lịch sự với cả hai người. Cô đối xử với Stewart qua cung cách xấc xược đến nỗi tôi tự hỏi có phải cô nắm trong tay một thứ quyền lực nào đấy hay không - nếu không thì tôi không hiểu được làm thế nào cô không bị kỷ luật. Và một đôi lần tôi trông thấy người phụ nữ đẹp ấy - Nancy - trong hành lang ở đây. Vì có vẻ như cô không có nhiệm vụ quét dọn hoặc hầu hạ, nên tôi không rõ cô có nhiệm vụ gì. Có lẽ là nấu ăn.

Tôi đang trông chờ một chuyện nào đấy xảy ra. Toán người tìm kiếm đã trở về được hai tiếng đồng hồ. Tôi đang lượn lờ giữa phòng mình, nhà bếp và phòng ăn - tôi cố tìm ra việc này việc kia để làm như đi tìm mồi nhúm lửa (vì tôi đã ném nó ra ngoài), hoặc lau chùi chỗ cà phê đổ tháo. Vì thế mà Norah không hề thích tôi, nhưng sau sáu giờ chiều tôi đạt mục đích khi nghe tiếng cãi cọ trong văn phòng của Stewart.

Nesbit đang cuồng loạn cất cao giọng: “Vì Chúa, tôi vẫn nói với ông tôi không biết! Nhưng chuyện đã qua rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.”

Tiếng thì thầm của Stewart.

“Chúa ơi, tôi không màng, ông đã hứa mà! Ông phải giúp tôi.”

Thêm tiếng thì thầm - chuyện gì đấy về “sơ suất”.

Tôi đang ở trong hành lang, đang rón rén đến gần hơn, cầu trời đừng tạo tiếng động trên mặt sàn.

“Đúng là một người trong bọn họ. Ai khác làm chuyện này? Và còn một chuyện nữa... Nửa Người[60] - ông nên kiểm soát nó kỹ hơn.”

Tiếng thì thầm nhỏ hơn. Không hiểu sao, chuyện này khiến cho tôi lạnh người còn hơn là bất kỳ chuyện gì khác. Tôi không dám bước đến gần hơn. Nesbit gọi “Nửa Người” là có ý gì? Có phải anh đang sỉ nhục Stewart không? Hoặc sỉ nhục một người nào khác?

Những bước chân người nặng nề tiến đến cánh cửa. Tôi hấp tấp đi qua, đi đến phòng ăn kịp lúc trước khi có người đi ra.

Moody đang ngồi trên chiếc ghế gần lò sưởi, ngước nhìn khi tôi bước vào: “Bà Ross. Tôi có chuyện muốn bàn với bà.”

“Chờ một chốc...” Tôi đặt bình cà phê xuống. Bên ngoài, có vẻ như tất cả đều yên ắng. “Xin lỗi anh Moody, có lẽ tôi quên cái gì đó. Chờ tôi một chút.”

Anh xịu mặt khi tôi đóng cánh cửa.

Tôi đi ngược trở lại dọc hành lang. Cánh cửa phòng Stewart đóng chặt. Tôi đưa tay lên gõ.

“Chuyện gì vậy?” Giọng của Nesbit. Rất cáu bẳn.

“À, tôi đây, Bà Ross. Tôi vào được không?”

“Ngay lúc này tôi khá bận.”

Tôi vẫn mở cánh cửa. Nesbit ngồi ở bàn viết nhìn lên - tôi có cảm tưởng anh đã nằm ườn trên đó và mới ngồi bật dậy. Mặt anh đẫm mồ hôi và nhợt nhạt, tóc bù xù hơn bao giờ. Trong tôi nổi lên nỗi thông cảm. Tôi nhớ lại tâm trạng này là như thế nào.

“Tôi đã nói...”

“Tôi biết. Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi vừa làm vỡ bình sữa, tôi rất tiếc.”

Nesbit nhíu mày nhìn tôi, tỏ vẻ vừa khó hiểu vừa bực bội: “Trời đất, không sao hết. Xin bà làm ơn...”

Tôi bước thêm một bước vào căn phòng và đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Nesbit nao núng. Đôi mắt anh toát vẻ dữ tợn như muốn giết người; một con thú bị dồn đến chân tường.

“Anh bị mất món gì không? Tôi biết chuyện này làm anh bực mình như thế nào. Có lẽ tôi giúp anh được không?”

“Bà? Bà nói chuyện gì vậy?”

Nhưng ngay khi tôi vừa đóng cánh cửa, anh đã có ý tưởng. Bây giờ tôi đã được anh chú ý lắng nghe.

“Do đâu bà đoán tôi mất món gì?”

“Ông ấy giữ dùm anh, phải không? Ông ấy bắt anh phải van xin.”

Đấy giống như là tôi đã lột đi chiếc mặt nạ; mặt anh tái đi, gần như đổi màu xanh. Anh nắm tay lại; anh muốn đấm tôi nhưng không dám.

“Nó ở đâu? Bà đã làm gì với nó? Đưa cho tôi.”

“Tôi sẽ đưa cho anh, nếu anh nói cho tôi nghe một chuyện.”

Anh nhíu mày, nhưng lộ vẻ hy vọng. Anh đứng dậy, bước một bước đến tôi, nhưng không đến gần hơn.

“Nói cho tôi biết ai phải được kiểm soát. Ai không được nói đến?”

“Cái gì?”

“Đêm đầu tiên, tôi nghe anh bảo một phụ nữ không được nói đến người đó. Anh đang nói đến ai? Mới lúc nãy, anh bảo Stewart nên kiểm soát kỹ hơn người nào đó. Anh bảo đó là Nửa Người. Ai thế? Nói cho tôi biết là ai, rồi tôi sẽ trả nó lại cho anh.”

Anh xịu xuống. Anh quay mặt qua bên này bên kia. Anh khẽ mỉm cười. Có cái gì đấy trong anh được nhẹ nhõm.

“À. Chúng tôi không muốn Moody biết được. Nếu chuyện này lan đến Công ty... Một nhân viên chúng tôi đã nổi điên. Đó là Nepapanees. Stewart cố bảo vệ anh ấy, bởi vì gia đình anh ấy...”

“Nepapanees? Ý anh nói anh ấy chưa chết hay sao?”

Nesbit lắc đầu: “Anh ấy tự kiếm sống, như là một người hoang dã. Chỉ vài tuần trước anh ấy còn ổn, nhưng bây giờ đã nổi cơn điên. Có thể nguy hiểm. Chuyện này sẽ khiến cho gia đình anh rất xấu hổ. Stewart nghĩ nếu họ tin anh đã chết thì tốt hơn.” Anh lại lắc đầu: “Chỉ có thế. Hà... Ý tôi nói, quả là kinh khủng.”

“Và lúc gần đây anh ấy đã đi vắng, phải không?”

“Anh ấy đi đi về về.”

“Ba tuần trước...”

“Tôi không rõ anh ấy đi đâu. Khoảng mười ngày trước, anh trở về.”

Tôi không biết nói gì thêm. Hoặc hỏi gì thêm.

Anh nhìn tôi một cách lẩn lút: “Bà trả nó lại cho tôi nhé?”

Trong một khoảnh khắc tôi định ném cái chai xuống sàn nhà, bởi vì có chuyện gì đấy không ổn nhưng tôi không biết rõ là gì.

Tôi rút từ trong túi cái chai và giơ ra: cái chai tôi lấy ra dưới tấm nệm của anh ngày hôm qua trong khi anh đang trò chuyện với Moody. Anh giật lấy cái chai, kiểm tra xem tôi có lấy đi phần nào không - một hành động nhất thời theo phản xạ - rồi quay mặt đi mà đưa cái chai lên miệng tu một hơi. Một chút phẩm giá còn sót lại vẫn muốn giữ chút ít riêng tư. Phải mất một lúc để đạt điều này, nhưng có lẽ anh không còn cách nào khác. Anh vẫn đứng như thế, nhìn đến tấm màn cửa.

“Bây giờ anh ấy đang ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi hy vọng là xa khỏi nơi đây.”

“Đúng như thế không?”

“Đúng.”

Tôi chỉ có thể nhìn cái chai trong tay anh. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi giật cái chai đó mà uống cạn?

Anh không nhìn đến tôi nữa. Giọng anh nhỏ nhẹ, đã lấy lại bình tĩnh, giúp cho tôi trở lại với chính mình. Tôi để mặc anh đứng gần bàn viết, quay lưng về phía mình, nhưng với đôi vai vuông và thách thức.

Tôi quay trở lại phòng ăn. Nepapanees người điên. Nepapanees kẻ điên dại giết Jammet? Dường như đấy là điều mà tôi muốn tìm. Nhưng tôi không cảm nhận chiến thắng. Không thỏa mãn. Tôi không biết nghĩ gì, nhưng không thể gạt khỏi đầu óc hình ảnh của Elizabeth Bird ngồi trên nền tuyết, cố tình làm bỏng thịt da mình vì tiếc thương.

༺༒༻

Stewart đi đến nhà cô khi họ trở về. Trông ông lo lắng, giống như một người cha có đứa con lêu lổng; sẵn lòng chiều chuộng nhưng đến chừng mực nào đó thôi.

“Elizabeth, tôi xin chia buồn.”

Cô gật đầu. Còn dễ hơn là nói nên lời.

“Tôi đã cố nghĩ chuyện gì đã xảy ra. Cô tìm ra địa điểm chứ?”

Cô lại gật đầu.

“Tôi tin chắc hương hồn anh ấy sẽ tiêu diêu, cho dù ở đâu.”

Bây giờ cô không gật đầu. Người bị sát hại không được tiêu diêu.

“Nếu cô lo lắng... Dĩ nhiên là cô có thể ở đây. Cô không phải lo về tương lai. Lúc nào cô cũng có nơi cư ngụ ở đây nếu cô muốn.”

Không cần nhìn thẳng đến ông, cô vẫn nhận ra đôi mắt xanh lam kinh khiếp của ông, như ruồi xanh lấp lóe bu trên xác chết. Ông đang chăm chăm nhìn cô, cố làm cho sức lực cô mòn mỏi, cố dập tắt ý chí của cô theo ý ông. Được thôi, cô sẽ không nhìn ông, cô sẽ không để cho ông được dễ dàng hành động. Cô nghiêng đầu qua một bên, hy vọng ông sẽ bỏ đi.

“Tôi để cho cô nghỉ. Nếu cần bất cứ thứ gì, cô cứ đến hỏi tôi.”

Cô gật đầu lần thứ ba.

Cô nghĩ: hỏi nơi Địa ngục.

Bên ngoài, cô nghe Stewart nói với anh lính mới tò te bằng tiếng Anh: “Nếu là anh thì tôi để cho cô ấy nghỉ ngơi. Cô vẫn còn bị sốc.”

Tiếng nói xa dần.

Elizabeth nhảy dựng lên, ngược với bản chất mình, và đi ra: “Anh Moody... Xin mời anh vào, nếu anh muốn.”

Hai người đàn ông quay người, kinh ngạc, vẻ mặt Moody đầy thắc mắc.

Không rõ tại sao mình hành động như thế, Elizabeth cảm thấy ngốc nghếch.

Moody nhất quyết ngồi trên sàn nhà như cô, tuy rằng cử động của anh có phần cứng nhắc.

Cô nhìn qua hông anh, nơi cô băng bó vết thương cho anh bốn ngày trước: “Anh ổn chứ? Có thấy khá hơn không?” Tưởng chừng như đã lâu lắm, khi cô còn là người vợ. “Vết thương khá nặng. Có ai đó muốn giết anh hả?”

Anh cười: “Không. À, đó chỉ là khoảnh khắc sôi nổi, rồi hối tiếc sâu sắc. Một câu chuyện dài. Tôi đến đây để thăm xem cô ra sao. Nếu tôi giúp gì được...”

“Cám ơn anh. Ngày nọ anh đã tử tế.”

“Không...”

Elizabeth rót nước trà vào hai chiếc cốc bằng sứ. Cô lại nếm nước con sông kia, vị chát đắng vì lừa dối. Có lẽ con nai là một dấu hiệu: tôi bị giết. Và em phải đi tìm tôi.

Cô ước gì có thể cầu nguyện để được dẫn dắt, nhưng cô không thể đi đến ngôi nhà nguyện xây bằng gỗ. Đó là nhà nguyện của Stewart, và cô có ác cảm với nơi này. Trước đây, cô không bao giờ suy nghĩ nhiều về đức tin của mình. Cô cho rằng nó hiện diện dưới bề mặt, vẫn tiếp tục hiện diện mà không cần nỗ lực có ý thức, như cách lá phổi cô thở. Có lẽ cô đã bỏ bê đức tin của mình. Bây giờ, khi cô cần đến đức tin thì dường như nó tàn tạ đi.

“Anh có cầu nguyện không?”

Moody ngạc nhiên nhìn cô. Anh cân nhắc câu trả lời. Anh không muốn chỉ nói điều mình nghĩ nên nói, mà muốn nói ra ý tưởng tự nhiên. Cô thích thế, cùng với cách anh không vội để lấp đầy tất cả khoảnh khắc im lặng.

“Có, tôi có cầu nguyện. Không thường xuyên như đòi hỏi. Ít khi thôi.”

Ngay lúc ấy, đứa con gái nhỏ của cô loạng choạng đi qua cửa trước. Cô bé mới tập đi.

“Amy, đi vào với Mary. Mẹ đang nói chuyện.”

Cô bé chăm chăm nhìn Moody trước khi chập chững đi vào trong.

“Chúng tôi chỉ...” Giọng nói anh nhỏ dần: “Ý tôi nói là chúng tôi chỉ cầu đến Thượng đế khi gặp khổ sở hoặc cần phù hộ, và tôi chưa bao giờ lâm vào cảnh này. Chưa gặp, cám ơn Thượng đế.”

Anh mỉm cười. Bây giờ anh có vẻ khổ sở, lúng túng. Ngôn từ anh chậm lại, như thể khó mà sắp xếp ý tưởng. Có chuyện gì đó đã xảy ra.

“Tôi không làm được.”

Anh nhìn cô, dò hỏi: “Việc cầu nguyện? Cô sinh ra là người Cơ đốc phải không?”

Cô mỉm cười: “Khi lên hai mươi, tôi được các nhà truyền giáo rửa tội.”

“Vậy là cô biết... những thượng đế khác. Cô có cầu nguyện với họ không?”

“Tôi không biết. Trước đây tôi không bao giờ cầu nguyện. Anh nói đúng. Tôi chưa bao giờ cần phù hộ.”

Moody đặt cốc trà của anh xuống, bắt chéo hai bàn tay phía trước đầu gối: “Khi còn là đứa trẻ, tôi đi lạc trên các ngọn đồi gần nhà. Tôi lạc mất một ngày một đêm. Tôi khiếp sợ mình sẽ đi lang thang trên các ngọn đồi cho đến lúc chết đói. Lúc đó tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện rằng Thượng đế chỉ cho tôi đường về nhà.”

“Rồi thì sao?”

“Cha tôi tìm được tôi.”

“Thế là lời cầu nguyện của anh được đáp ứng.”

“Đúng. Tôi đoán có một số lời cầu nguyện không thể được đáp ứng.”

“Tôi không muốn cầu nguyện cho chồng tôi được hồi sinh. Tôi chỉ muốn cầu nguyện cho công lý.”

“Công lý?” Anh tròn mắt nhìn cô, như thể cô có một vết nhọ nồi trên mặt. Trong hồi lâu cả hai không nói gì, chỉ nhìn vào ngọn lửa với âm thanh xì xào và lách tách.

“Amy. Đó là cái tên đẹp.”

“Con bé không hiểu tại sao cha nó không có ở đây.”

Moody thở dài, rồi mỉm cười: “Tôi xin lỗi. Cô hẳn nghĩ tôi không phải phép. Tôi vừa có một ý nghĩ rất lạ lùng. Nếu tôi sai thì cô làm ơn cho tôi biết, nhưng tôi phải nói ra.” Anh lúng túng cười, mắt vẫn nhìn cô: “Tôi biết bây giờ là không phải lúc. Nhưng tôi vẫn nghĩ... Tên của con gái cô. Và tên của cô... Tôi không biết nói thế nào... Lúc trước, có phải cô thuộc gia đình Seton không?”

Elizabeth đăm đăm nhìn ngọn lửa; tiếng hát vang trong tai cô che lấp câu nói kế tiếp của anh. Có cái gì đó như tiếng cười ha hả nổi lên khiến cho cô gần nghẹn họng.

Đôi môi anh mấp máy; cô nghĩ anh đang xin lỗi mình. Những sự việc cô nghĩ mình đã quên từ lâu bỗng hiện về trong suốt như pha lê. Cha. Chị. Mẹ. Không, không phải chị cô. Cô không bao giờ có chị.

Chầm chậm, cô lại nghe tiếng anh: “Có phải cô là Amy Seton không?” Moody nghiêng người tới trước, mặt đỏ hồng vì kích xúc, thêm nỗi sướng thỏa vì sắp có phát hiện quan trọng: “Tôi sẽ không nói cho ai biết, nếu cô không muốn. Tôi hứa danh dự sẽ giữ bí mật chuyện này. Cô có cuộc sống ở đây, các con cô... Tôi chỉ muốn biết thôi.”

Cô không muốn cho anh mãn nguyện. Chuyện này không phải là của anh mà cho anh. Cô không phải là của rơi ngoài đường cho ai nhặt cũng được.

“Anh Moody, tôi không hiểu anh nói gì. Tên tôi là Elizabeth Bird. Chồng tôi bị cố sát. Tôi phải làm gì? Anh định làm gì?”

“Cố sát? Chuyện gì làm cô nói vậy?”

Cô thấy anh trông như lảo đảo từ một phấn khích này sang một phấn khích khác. Nó không giống bản chất của anh; anh không chịu đựng được. Có vẻ như cô đang nhìn anh từ một khoảng cách xa trong khi anh há hốc miệng, tay ôm chặt lấy bụng, mặt nhíu lại vì khổ não. Mặt anh đỏ bừng. Đáng lẽ anh không nên hỏi chuyện riêng tư như thế.

Một lúc sau, anh định thần trở lại, thở gấp gáp như một con chó: “Cô nói gì? Cô nói là... Stewart giết chồng cô hay sao?”

“Vâng.”

“Tại sao ông ấy làm vậy?”

“Tôi không biết tại sao.”

Cô nhìn anh. Hẳn anh biết chuyện nào đó; cô có thể thấy anh đang tính toán sau đôi mắt.

Rồi anh cất tiếng: “Xin lỗi tôi phải hỏi... Chồng cô có bị bệnh tâm thần không?”

Elizabeth chăm chăm nhìn, rồi cảm nhận mình nhỏ nhoi và yếu đuối. Cô đang suy sụp, tan rã: “Ông ấy nói như vậy hả?”

Nước mắt tuôn chảy trên đôi gò má, cô không biết do tức giận hay đau buồn, nhưng thình lình mặt cô ướt đẫm: “Anh ấy không bị điên. Đó là nói dối. Hỏi mọi người ở đây đi. Nửa Người là người điên duy nhất.”

“Nửa Người? Ai là Nửa Người?”

“Người mà ông ấy không muốn chúng tôi nói tới!” Elizabeth đứng dậy. Trong một lúc có quá nhiều chuyện. Cô bước vòng quanh ngọn lửa: “Nếu anh thông minh đến thế, nếu anh có thể nhìn ra nhiều việc đến thế, tại sao anh không chịu mở mắt ra?”

༺༒༻

“Nếu thời tiết cho phép, ngày mai tôi sẽ ra về.”

Tôi há hốc miệng nhìn Parker. Có một sức nặng đè lên ngực tôi, như lúc bạn bị bệnh bạch hầu thanh quản; một cơn co thắt khó chịu đến mức tôi không thở được. Nhịp thở của tôi đã nhanh lên từ lúc ông gõ cửa phòng tôi và tôi để cho ông bước vào, tự hỏi ông muốn gì.

“Ông không về được! Công việc chưa xong.”

Ông nhìn lại tôi một lúc, có thái độ thách thức nhưng không phải là ngạc nhiên. Bây giờ ông hẳn đã hiểu rõ tôi. “Tôi nghĩ đó là cách duy nhất để xong công việc.”

Lúc tôi nói, tôi không biết mình có ý nói gì, nhưng bây giờ tôi biết: “Làm thế nào ông xong công việc được?” Tất cả chúng tôi đã trông cậy nơi Parker để dẫn đường, từ lúc tôi gặp ông lần đầu tiên ở Sông Dove cho đến bây giờ. Moody cũng trông cậy nơi ông, tuy anh không thích.

Parker ngập ngừng. Bây giờ khuôn mặt ông trông khác đi: dịu dàng hơn, kém bình thản, hoặc có lẽ đấy chỉ là do ánh sáng mờ của ngọn đèn.

“Sáng mai, bằng cách nào đó tôi sẽ cho Stewart xem các dấu hiệu bà cho tôi. Rồi nếu chưa biết thì ông ta sẽ biết rằng tôi thân cận với Jammet. Tôi sẽ nói với ông ta rằng tôi sắp ra về, và nếu tôi nghĩ đúng...” Đến đây ông ngưng lại. “Và nếu ông ta là con người mà tôi đã đoán, thì ông sẽ không thể cưỡng lại ý muốn đi theo tôi, hy vọng tôi dẫn ông ta đến chỗ cất giấu lông thú.”

“Nhưng nếu ông ta đã giết Jammet... ông ta cũng có thể giết ông.”

“Tôi sẽ sẵn sàng.”

“Việc này quá nguy hiểm. Ông không thể đi một mình. ông ta sẽ không đi một mình - ông ta sẽ có… Nửa Người đi cùng.”

Parker nhún vai: “Bà nghĩ tôi nên dẫn theo Moody hay sao?” Ông mỉm cười khi nghĩ đến điều không thể này: “Anh ấy cần ở lại. Anh cần phải thấy Stewart đi theo tôi. Rồi anh ấy sẽ biết.”

“Nhưng, ông sẽ...”

Tôi cố sắp đặt lại thứ tự các sự kiện. Bằng chứng... sẽ có bằng chứng nào, trừ khi Stewart chịu thú nhận?

“Ông không thể đi một mình. Tôi đi với ông. Tôi có thể là đôi mắt thứ hai cho ông. Tôi có thể... ông cần nhân chứng. Một nhân chứng có thể xác nhận những gì ông nói. Ông không nên đi một mình!”

Đôi má tôi nóng bỏng. Parker lại mỉm cười, nhưng hiền hòa. Bàn tay ông đưa ra gần chạm đến mặt tôi, nhưng dừng lại. Tôi có thể nhận ra lệ đầy trong khóe mắt mình, đe dọa rửa trôi sự điềm tĩnh của tôi, phẩm giá của tôi; mọi thứ.

“Bà nên ở đây. Moody cần bà. Anh ấy bị hoang mang.”

Tôi nghĩ: Còn tôi thì sao? Câu nói nghe như lớn tiếng nên tôi không chắc mình có nói ra hay không, nhưng không có gì cho thấy Parker nghe được.

Tôi cố giữ giọng nói mình được lưu loát: “Tôi không biết ông nghĩ Stewart sẽ cho bằng chứng gì, ngoài việc giết ông. Có lẽ đấy là bằng chứng kết thúc. Và... và nếu ông ta sai người đi giết ông - thì làm sao ta kết nối chuyện đó với ông ta? Nếu ông đi một mình mà không trở về, tôi nghĩ anh Moody sẽ không hài lòng. Việc này sẽ không chứng tỏ được gì cả.”

Parker nhìn xuống, giọng có vẻ thiếu kiên nhẫn: “À... sáng ngày mai chúng ta sẽ thấy. Có lẽ Stewart sẽ nói cho chúng ta biết tất cả. Chúc ngủ ngon, Bà Ross.”

Tôi cắn lưỡi, đau đớn và tức giận. Có lẽ Parker không nhận ra điều này: có hai người trong phòng không chịu bỏ cuộc cho đến khi kết thúc.

“Chúc ngủ ngon, ông Parker.”

Ông đi ra, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại sau lưng. Trong vài phút tôi đứng chôn chân tại chỗ, thắc mắc - trong số những việc tôi có thể hoặc phải thắc mắc - là ông biết tên riêng của tôi hay không.

Đêm ấy, tôi nằm mơ.

Tôi mơ thấy Angus, theo cách thức lãng đãng nhưng bấn loạn. Tôi lắc đầu qua lại, muốn tránh mặt chồng mình. Anh không trách móc tôi. Không thể trách móc được.

Tôi thức dậy giữa đêm khuya, trong bầu không gian tĩnh lặng nặng nề đến mức tôi cảm thấy mình không thể bước ra khỏi giường dù có muốn. Có những giọt lệ đang khô đi trên mặt tôi, lạnh lẽo, khiến cho làn da tôi ngứa ngáy.

Từ lâu tôi đã thắc mắc tại sao anh xa cách với mình. Tôi đoán đấy là do việc gì đó mình đã làm. Và rồi, khi Parker kể cho tôi nghe về Jammet, tôi nghĩ đấy là do Francis, bởi vì anh đã biết và ghét chuyện ấy.

Thật ra, sự việc đã bắt đầu một thời gian lâu trước đó.

Tôi vùi mặt trong chiếc gối tỏa mùi ẩm. Lớp áo gối lạnh như đá cẩm thạch. Chỉ nơi đây, một mình và trong bóng tối, tôi mới cho phép những ý nghĩ ấy ngự trị trong đầu. Ý nghĩ không đến từ đâu cả, mà từ những giấc mơ, giữ tôi trong vòng kiềm tỏa điên cuồng. Tôi mong ngủ trở lại, bởi vì chỉ trong giấc mơ tôi mới có thể lẩn tránh những mối ràng buộc có thể xảy ra và đúng đắn.

Nhưng, như tôi vẫn thường thấy trong đời, cái gì mà bạn thật sự ao ước lại xa rời tầm tay của bạn.

༺༒༻

Donald ấn bàn tay lên tấm kính cửa sổ. Hơi ấm làm tan chảy lớp sương giá đọng bên trong, để lại một hình ảnh rõ ràng: trời càng lạnh thêm. Mùa đông đã đến thật sự; họ phải ra về nhanh, nếu không sẽ bị tuyết giam hãm ở Nhà Hanover.

Ngày hôm qua, anh đã viết xong lá thư cho Maria. Sáng hôm nay, anh đọc lại; anh nghĩ nội dung đã theo đúng hướng, không có gì quá say đắm, nhưng sau khi giãi bày cảm nghĩ của mình - quả là nhẹ nhõm khi nói ra được điều mình nghĩ - anh nồng nàn cho biết ý muốn gặp lại cô và nối lại cuộc trò chuyện lý thú. Anh gấp tờ thư vào một phong bì, nhưng để trắng phong bì. Anh có nỗi kinh hãi về việc người khác đọc thư mình. Anh tin chắc Bà Ross, lúc đến thăm anh với cử chỉ tọc mạch và quấy rầy, đã để ý đến một lá thư lúc trước anh viết cho Susannah.

Susannah. À... vì trước đây chưa từng lâm vào hoàn cảnh này, Donald không biết phải xoay xở thế nào. Anh nghĩ cô sẽ không bị thất tình - anh tự nhủ dù gì đi nữa thì anh đã không tỏ tình gì cả, thật sự là thế. Không có gì gọi là hứa hẹn. Anh cảm thấy bứt rứt bởi vì theo bề ngoài đấy không phải là hành vi đáng khen, và Donald rất muốn được khen. Nhưng bây giờ ở cách xa Caulfield, anh thấy rõ hơn rằng Susannah là một con người cứng cỏi. Ngay cả khi biết điều này, anh vẫn tự dằn vặt mình vì đã lấy nó làm niềm an ủi. Có lẽ anh sẽ không cho phép gửi đi các lá thư anh viết cho cô. Có lẽ anh nên viết lại các lá thư này, để gột rửa mong ước bị trùng lặp.

Đến ngả rẽ này, trong khi Donald vẫn còn đang ngồi ở bàn, chung quanh là những thư từ gửi cho hai chị em nhà Knox, có tiếng gõ cửa. Đó là Parker.

Stewart đang ngồi trong văn phòng, một bình cà phê đặt trên bàn, lửa cháy trong lò sưởi, nhưng vẫn không chống đỡ lại cái lạnh buốt xương len lỏi vào qua cửa sổ, cửa cái và thậm chí các bức tường.

Donald cảm thấy đây là nơi anh nắm quyền chủ động, nên đã bàn trước với Parker và Bà Ross, và bây giờ anh đằng hắng nghe khá hùng hồn: “Ông Stewart, xin lỗi cho giờ giấc sớm sủa. Chúng tôi cần trao đổi với ông.”

Stewart nghe giọng điệu nghiêm túc trong câu nói của anh, nhưng vẫn mỉm cười và mời ba người vào. Ông kêu mang thêm cốc - lần này là Nancy đáp lại tiếng chuông và lo phục vụ. Donald nhìn xuống sàn nhà trong khi cô hiện diện trong phòng, hy vọng không ai thấy má anh đang nóng bừng. Dù sao chăng nữa thì không ai nhìn đến anh cả.

Donald bắt đầu: “Tôi nghĩ ông hẳn biết lý do thực sự chúng tôi đến đây.” Anh phớt lờ ánh mắt của Bà Ross. Anh không nhìn ra thái độ của Parker, vì ông này ngồi bên cạnh Stewart trước cửa sổ, nên bị khuất trong bóng tối. “Chúng tôi đã theo dõi một dấu vết. Nó đi từ Sông Dove lên hướng bắc, và chúng tôi có đủ lý do mà tin rằng nó dẫn đến đây.”

“Ý anh nói đó không phải là con trai Bà Ross hả?”

“Đúng vậy. Ít nhất không đi xa đến đây. Và ở đây có những người mà chúng tôi không được gặp.”

Stewart gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng, đôi mắt nhìn xuống: “Tôi tin rằng đã có người nói gì đó khiến cho quý vị hiểu sai. Tôi xin lỗi về việc này. Để tôi nói cho quý vị những gì tôi biết; có lẽ lúc đó quý vị có thể bổ sung vào các khoảng trống. Điều tôi đã nói là sự thật - Nepapanees là một trong những nhân viên giỏi nhất của tôi. Một nhân viên tốt, một tài công có kỹ năng, một người theo dấu vết xuất sắc. Nhưng hơn một năm trước, có chuyện gì đó xảy đến cho anh ấy. Thường đó là rượu, như tôi tin chắc quý vị đã thấy...”

Ông liếc qua Donald, tuy có vẻ như muốn bao gồm mọi người: “Nhưng không phải trong trường hợp này. Ít nhất, ban đầu là vậy. Tôi không biết đó là gì, nhưng anh ấy trở nên loạn trí. Anh không nhận ra vợ mình. Anh không nhận ra các con mình. Mùa xuân năm nay, anh đi ra khỏi pháo đài và dường như đang sống trong hoang dã. Đôi lúc anh ấy trở về, nhưng nếu anh ở cách xa thì tốt hơn. Vài tuần trước, anh đi xa nhiều ngày. Tôi có linh cảm đó mạnh hơn khi quý vị đến. Nhưng đến lúc này...”

Ông nhún vai, để cho hai bờ vai sụp xuống: “Tôi không muốn mang thêm nỗi tủi nhục cho vợ anh ấy cùng gia đình. Tôi muốn tránh cho họ hoàn cảnh đó. Nesbit và tôi đồng ý với nhau là... giấu diếm chuyện này. Để giả vờ là anh ấy đã chết. Đây là chuyện điên rồ, tôi biết chứ.”

Đôi mắt ông nhìn lên, trông như lóng lánh với nước mắt: “Theo một cách nghĩ, tôi ước gì anh ấy ở đây. Anh là con người tội nghiệp, đã làm cho những người yêu mến anh phải khổ sở nhiều.”

“Nhưng làm thế nào ông bảo vợ anh ấy rằng anh ấy đã chết? Làm thế nào ông khiến cho cô ấy khổ sở đến thế?” Bà Ross đang nghiêng người tới trước, mắt bà nhìn sâu vào mắt Stewart, khuôn mặt bà nhợt nhạt và căng thẳng, một ít cảm xúc - có lẽ tức giận - toát ra từ bà như là một lực từ tính.

“Bà Ross à, tin tôi đi, tôi suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tôi quyết định rằng cái chết sẽ bớt đau đớn cho cô ấy và các đứa trẻ so với việc anh còn sống.”

“Nhưng làm thế nào ông nghĩ có thể giấu diếm sự hiện diện của anh ấy? Hai ngày trước, người ta trông thấy anh ấy ở đây.”

Stewart ngồi bất động một lúc, rồi ngẩng đầu lên, lộ vẻ lúng túng: “Đó là điên rồ. Tôi đã cho phép mình... Đôi lúc, trong mấy năm gần đây đặc biệt là vào mùa đông, tôi cảm thấy mình đã mất năng lực phán xét. Nhưng nếu bà nhìn thấy anh ấy với con cái... nhìn chúng chạy đến anh ấy, thét lên lời lẽ lăng mạ bẩn thỉu nhất, đầy hậm hực và sợ hãi... Chỉ có Trời biết anh ấy nghĩ bọn chúng là quỷ sứ ra sao. Quả là kinh khiếp khi trông thấy gương mặt của bọn chúng.”

Đôi mắt Stewart như là bị quỷ ám, như thể ông vẫn trông thấy bọn chúng. Donald cảm thấy dâng trào niềm cảm thông. Có Trời biết, anh có thể tưởng tượng ra sự căng thẳng của mùa đông bất tận này tiếp nối mùa đông bất tận khác.

Bà Ross nhìn qua Parker, rồi nhìn lại Parker. Cứ như là Donald không hiện diện ở đây. “Ai là Nửa Người?”

Stewart mỉm nụ cười đau khổ: “À. Bà biết đấy...” Ông nhìn lên, lần này nhìn thẳng đến Bà Ross: “Nửa Người là một trường hợp vô phúc khác. Người luôn uống rượu. Anh ấy là chồng của Norah, nên thỉnh thoảng chúng tôi cung cấp thực phẩm cho anh ấy. Anh làm nghề đặt bẫy, nhưng không giúp ích được nhiều.”

Có một vẻ trần trụi trên gương mặt ông khiến cho Donald cảm thấy bất an. Họ có quyền gì mà bắt buộc người đàn ông này phải nói ra mấy chuyện rắc rối của ông?

“Tôi phải xin lỗi lần nữa vì đã lừa dối quý vị. Người ta muốn được nghĩ - nhất là trong một công ty như thế này...” Ông lại nhìn qua Donald, khiến cho anh này cúi mặt trong vẻ bối rối. “Người ta muốn được nghĩ đến như là một nhà lãnh đạo tốt, một người cha tốt, theo vài cách nhìn, đối với người dưới quyền. Tôi không phải là một người cha tốt của nhân viên ở đây. Thật là khó, nhưng đó không phải là lý do để biện minh.”

Bà Ross đang ngả người trên chiếc ghế, lộ vẻ hoang mang và cách xa. Vẻ mặt của Parker thì không rõ ràng, trong bóng tối của chính ông.

Donald chen vào: “Tình trạng này xảy ra khắp nơi. Có tật say xỉn và có chứng bệnh điên. Nếu có người đi chệch đường thì không phải là do sự lãnh đạo của ông.”

Stewart cúi đầu: “Anh tử tế mà nói vậy, nhưng không hẳn vậy. Dù sao chăng nữa, điều liên quan tại anh là người anh theo dõi... mà tôi cho là do người này gây ra chuyện gì đó. Chuyện... tội ác phải không?”

Donald gật đầu: “Chúng tôi cần phải tìm ra và hỏi han người này, dù cho tình trạng người này có ra sao.”

“Tôi không rõ anh ấy đang ở đâu, tuy chúng tôi có thể tìm ra. Nhưng nếu anh đang truy lùng một nghi can, thì anh sẽ không tìm ra. Anh ấy không nhận thức được mình làm gì.”

Trong khi Stewart đang cất tiếng, Parker rút ra từ túi áo chiếc dọc tẩu và thuốc lá. Cùng lúc, một mẩu giấy rơi xuống sàn giữa hai chiếc ghế ông và Stewart đang ngồi. Parker không nhận biết, kéo ra một nhúm sợi thuốc lá rồi cho vào dọc tẩu. Stewart nhìn thấy, cúi xuống nhặt mảnh giấy lên. Ông dừng tay lại trong tích tắc rồi trao mảnh giấy cho Parker mà không hề nhìn đến mặt ông này.

“Tôi sẽ điều một vài người đi tìm kiếm anh ta. Họ biết cách theo dõi dấu vết.”

Parker đặt mảnh giấy vào túi áo trong khi vẫn nhồi thuốc lá vào dọc tẩu. Tất cả diễn ra có lẽ chỉ trong vòng ba giây. Hai người đàn ông ngồi kế bên nhau trong suốt cuộc trao đổi mà không nhìn nhau.

༺༒༻

Đến gần cuối hành lang, Parker quay sang tôi: “Tôi sắp sẵn sàng.”

“Ông sắp đi hay sao?”

Tôi đã đoán những thắc mắc của ông được giải đáp. Tôi quả là dốt; dĩ nhiên là ông không hề tin vào những gì Stewart đã nói.

“Ông Stewart không hề nói ông ấy không phái Nepapanees đi Sông Dove.”

Vẻ chắc chắn của ông làm cho tôi bứt rứt, nên tôi không trả lời. Ông nhìn tôi với xúc cảm đờ đẫn kỳ lạ, không cho biết chi tiết hoặc ngay cả đại thể ra sao. Nhưng chính vì những nét cố hữu của khuôn mặt ông khiến cho người ta suy đoán về sự giận dữ và bạo lực ẩn giấu bên trong; bây giờ tôi biết không phải thế. Hoặc có lẽ tôi đã ru ngủ mình vào cảm nhận bình an nhưng sai lạc.

“Ông vẫn còn giữ chiếc áo ở Chỏm Elbow chứ?”

“Dĩ nhiên là còn giữ. Tôi cho vào đáy chiếc túi của tôi, dưới chiếc áo choàng lót lông thú.”

“Ông tìm lại đi.”

Giữa khu đất trống phía sau các nhà kho, mặt trời ló dạng qua một khe trống trên tầng mây. Một cột ánh sáng dày như là một cầu thang dội xuống vùng đất phẳng phía sau vách đá, chiếu sáng một trảng cây liễu nhỏ, đan xen với tuyết và lấp lánh với những tinh thể băng. Ánh sáng chiếu rọi sâu rộng; màu trắng làm nhức nhối đôi mắt. Cũng bất chợt như là một nụ cười, mặt trời làm cho quang cảnh xinh tươi bật lên giữa vùng bình nguyên u uẩn. Vượt quá tầm khoảng một trăm mét, những nét thiếu hoàn hảo đều bị che khuất. Vượt quá vách đá là một quang cảnh hoàn hảo giống như bức điêu khắc trên muối, kết tinh thể và thuần khiết. Cùng lúc, chúng tôi bước qua lớp bùn đất loáng và khuấy đục, lại bị hai con chó giẫm đạp và làm nhơ bẩn thêm.

Người quả phụ ở trong ngôi nhà gỗ với một trong các con trai, một cậu bé trông nghiêm trang khoảng tám tuổi. Cô đang ngồi luộc thịt bên bếp. Trong mắt tôi, cô trông gầy và xơ xác hơn lần trước tôi gặp cô, và có vẻ bản địa hơn cho dù với tất cả đường nét cô rõ ràng mang hai dòng máu.

Cô nhìn lên mà không biểu lộ cảm xúc gì khi Parker bước vào không gõ cửa, rồi nói câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Cô đáp lại bằng một thứ tiếng khác. Tôi nổi lên phản ứng bất thần và mãnh liệt do ghen tị, khiến cho tôi ngừng thở.

Cô nói một cách ơ thờ: “Ngồi xuống đi.”

Chúng tôi ngồi trên những tấm chăn trải chung quanh lò sưởi. Cậu con trai luôn chằm chằm nhìn tôi - tấm áo choàng mùa đông khiến cho việc ngồi trên sàn nhà trông không được thanh nhã lắm, nhưng tôi cố xoay xở theo cách tốt nhất. Parker bắt đầu bằng cách nói chuyện quanh co, hỏi han về các đứa trẻ và ngỏ lời chia buồn, và tôi khẽ nói đồng thuận theo.

Cuối cùng, ông đi đến chủ đề: “Chồng cô có nói gì về lông thú của người Na Uy không?”

Elizabeth nhìn ông, rồi nhìn tôi. Có vẻ như cô không nhận biết gì về việc này: “Không. Anh ấy không nói gì với tôi cả.”

“Và lần cuối cùng anh ấy ra đi... với mục đích gì?”

“Stewart muốn đi săn. Ông ấy thường dẫn anh đi theo, bởi vì anh là người theo dõi dấu vết giỏi nhất.” Có vẻ hãnh diện trầm lặng trong giọng nói của cô.

“Cô Bird, tôi xin lỗi phải hỏi việc này: chồng cô có bị đau yếu không?”

Mắt cô nhìn lên sắc lẻm: “Đau yếu? Chồng tôi không bao giờ đau yếu. Anh ấy khỏe như ngựa. Ai nói như vậy? Stewart đã nói vậy phải không, hả? Có phải vì vậy mà chồng tôi đi trên mảng băng mỏng mà bình thường anh không bao giờ đi, phải không?”

Không muốn cậu bé nghe được, Parker nói nhỏ nhẹ: “Ông ấy nói chồng cô đau yếu và không nhận ra con cái.”

Khuôn mặt Elizabeth nhăn nhó với cảm xúc - ghê tởm hoặc khinh bỉ, hoặc giận dữ, hoặc tất cả những cảm xúc này - và cô nghiêng người tới trước, khuôn mặt nhuộm màu đỏ-cam sinh động từ ánh lửa: “Đó là lời dối trá độc ác! Anh ấy luôn là người cha tốt nhất.” Có vẻ gì đó kinh sợ từ cô, cứng cỏi, nhưng tôi thấy dường như là thật.

“Cô thấy chồng cô lần cuối khi nào?”

“Chín ngày trước, khi anh ấy đi với Stewart.”

“Còn lần cuối anh ấy đi xa là khi nào?”

“Mùa hè. Cuộc hành trình cuối cùng là đi đến Hồ Cedar vào cuối mùa.”

“Tháng Mười và đầu tháng Mười một thì anh ấy ở đây phải không?”

“Phải. Suốt thời gian đó. Tại sao ông hỏi tôi?”

Tôi nhìn qua Parker. Chỉ còn một việc nữa.

“Cô Bird, tôi xin lỗi phải hỏi chuyện này: cô có một chiếc áo sơ mi của anh ấy không? Chúng tôi muốn xem qua.”

Cô trừng trừng nhìn Parker như thể đây là sự xấc láo không chấp nhận được. Tuy thế, cô đứng phắt dậy và đi vào bên trong ngôi nhà gỗ, phía sau một tấm màn.

Cô trở ra với một chiếc áo sơ mi gấp lại trên tay. Parker đón lấy rồi mở ra, trải trên sàn. Tôi mở ra cuộn áo dơ bẩn được gói trong một tấm vải; tôi trải tấm áo ra, thô cứng và lấm lem, những vết sậm màu tỏa ra mùi hôi thối. Cậu con trai trang nghiêm nhìn chúng tôi. Elizabeth khoanh tay đứng nhìn chúng tôi với đôi mắt giận dữ.

Ngay lập tức tôi thấy chiếc áo sạch nhỏ hơn nhiều so với chiếc áo kia. Không thể nào nói rằng hai chiếc áo thuộc về cùng một người.

Parker trao lại cho cô chiếc áo của người chồng: “Cám ơn, Cô Bird.”

Cô vẫn khoanh tay: “Không ích gì cho tôi. Bây giờ không ai mặc được.” Đôi môi cô cong lại trông khó chịu: “Ông đã hỏi thì cứ giữ.”

Parker chưng hửng. Đó là một trải nghiệm mới của tôi: lần đầu tiên tôi thấy ông không biết xoay xở ra sao.

Lần đầu tiên tôi cất tiếng: “Cảm ơn, Cô Bird. Chúng tôi xin lỗi đã hỏi han cô, nhưng cô đã giúp ích rất nhiều. Cô đã minh chứng rằng những gì Stewart đã nói đều là dối trá.”

“Tôi quan tâm làm gì? Tôi cóc cần giúp các người! Việc này có giúp chồng tôi sống lại hay không?”

Tôi đứng lên và nhặt lấy chiếc áo bẩn. Parker vẫn còn cầm chiếc áo kia.

“Tôi xin lỗi.” Đứng ngang cô, chỉ cách hai bước, tôi nhìn vào mắt cô, nâu-xám trong trẻo, dưới lớp mặt nạ điên tiết và thất vọng. Tôi cảm thấy héo hắt: “Tôi thật tình xin lỗi. Chúng tôi định...”

Tôi chờ cho Parker nói phụ thêm và giải thích chúng tôi định làm gì. Ông cũng đứng dậy, nhưng có vẻ như vui lòng mà để cho tôi nói tiếp: “Chúng tôi định đi tìm công lý.”

Cô cười to, nghe như tiếng hằm hè: “Công lý! Còn chồng tôi thì sao? Stewart đã giết chồng tôi. Còn anh ấy thì sao?”

“Công lý đối với anh ấy nữa.” Tôi đang bước trở ra cánh cửa, nóng lòng muốn rời đi hơn là lưu lại và tìm hiểu do đâu cô tin chắc về chuyện kia.

Elizabeth Bird nhăn nhó - trông như đang mỉm cười, nhưng không phải. Cử chỉ khiến cho xương sọ dưới làn da nổi lên, tạo vẻ bề ngoài như một đầu lâu của người chết, còn cử động nhưng không phải còn sống; nhợt nhạt, không còn máu, chỉ rực hận thù.

Khi bước về tòa nhà chính, Parker trao cho tôi chiếc áo sạch, như thể ông không muốn vướng bận thêm với nó. Ông cảm thấy có lỗi vì đã làm cho cô tức giận.

Tôi nói: “Chúng ta sẽ cho Moody xem các món này. Rồi anh ấy sẽ hiểu.”

Parker khẽ lắc đầu: “Như vậy không đủ. Chiếc áo đó có thể nằm ở đằng kia vài tháng.”

“Ông không tin như thế! Và ông cũng tin cô ấy nữa - về cái chết của chồng cô, phải không?”

Parker thoáng nhìn tôi: “Tôi không biết.”

“Thế thì ông đi đi.”

Parker tán thành mà không nói gì. Tôi cảm nhận sức nặng quen thuộc ấy lại chèn ép lồng ngực mình, hơi thở xem dường nghẽn lại trong cổ họng cho dù chúng tôi chỉ mới đi vài chục bước.

“Nếu ông ấy giết người hướng đạo của mình thì quả là điên rồ nếu ông đi một mình. Tôi sẽ mượn một khẩu súng. Nếu ông không cho tôi đi cùng thì tôi sẽ đi theo dấu vết của ông, chỉ có thế thôi.”

Trong một lúc Parker không nói gì, rồi lại nhìn tôi với thái độ mà tôi nghĩ có phần mỉa mai: “Nếu người ta thấy chúng ta ra đi với nhau thì bà nghĩ họ sẽ bàn tán hay không?”

Sức nặng trong lồng ngực tôi nhẹ nhõm hẳn đi. Thình lình tôi thấy ngay cả quang cảnh khuôn viên cũng xinh tươi, mặt trời phết lên lớp tuyết đọng bên bờ rào một màu xanh-trắng óng ánh. Nhất thời tôi tin chắc dù có nguy hiểm ra sao, chúng tôi có thể hành động mà không ai ngăn cản được.

Cảm nhận ấy vẫn kéo dài cho đến khi tôi bước về phòng mình.

༺༒༻

Laurent thường đi xa lo công chuyện. Cũng như những người khác, Francis biết rất ít về những lần anh kia vắng mặt. Vào mùa hè, loài sói biến mất trong vùng rừng cây, nên lúc ấy Laurent lo chuyện buôn bán. Mùa hè năm ấy, anh đặc biệt bận rộn - hoặc có lẽ đó là lần đầu tiên mà Francis tỏ ra quan tâm anh có ở đó hay không - và đi đến Toronto hoặc Sault St Marie. Khi Francis dọ hỏi về mấy chuyến đi này, Laurent tỏ ra xởi lởi hoặc lảng tránh hẳn. Anh đùa cợt về việc nằm say bí tỉ trong quán bar, hoặc tìm gái mãi dâm. Hoặc có lẽ đấy không phải là chuyện đùa. Lần đầu tiên anh nói đến nhà thổ, Francis lặng người trân trối nhìn anh với vẻ kinh hoàng, cảm thấy nỗi đau ngập tràn khủng khiếp trong tim. Laurent nắm lấy đôi vai anh và cười to, lắc mạnh bạo cho đến lúc Francis nổi nóng và hét lên; những chuyện đau lòng mà sau này Francis không nhớ. Họ lời qua tiếng lại bằng ngôn từ lăng mạ, rồi thình lình im bặt, đăm đăm nhìn nhau, như bị thôi miên và choáng váng. Francis cảm thấy đau khổ và bị tổn thương. Laurent có cách tàn nhẫn gây thất vọng, nhưng rồi sau đó xin lỗi, tỏ ra nghiêm túc dịu dàng và cầu khẩn - lần đầu tiên anh quỳ xuống cho đến lúc Francis phải cười to và nồng nhiệt thứ lỗi. Francis cảm thấy lớn lên - thậm chí như lớn tuổi hơn Laurent.

Rồi có những người đàn ông đến gặp Laurent ở nhà. Đôi lúc, khi Francis tìm tới và huýt sáo bên ngoài ngôi nhà gỗ, không có tiếng trả lời. Có nghĩa là Laurent bận tiếp người nào đó, và họ thường qua đêm rồi quàng chiếc túi trên vai ra đi, các con chó chạy theo. Francis nhận ra trong anh nỗi ghen tức sâu thẳm và kinh khủng. Hơn một lần, anh quay lại vào buổi sáng, giấu mình trong bụi rậm phía sau ngôi nhà gỗ, chờ cho đến khi những người khác ra về, quan sát vẻ mặt họ nhưng không nhận ra dấu hiệu gì. Phần lớn bọn họ là người Pháp hoặc dân bản xứ; những người từ xa đến, có dáng dấp bất hảo vốn thường ngủ dưới bầu trời hơn là dưới một mái nhà. Họ mang đến cho Laurent lông thú, thuốc lá và đạn dược, rồi ra về theo con đường họ đã đến. Đôi lúc dường như họ chẳng mang gì đến hoặc để lại món gì. Có lần, sau một hồi cãi vã điên dại, Laurent bảo anh rằng họ đến tìm mình bởi vì họ đang thiết lập một công ty mậu dịch, và việc này phải xúc tiến một cách bí mật bởi vì Công ty Vịnh Hudson sẽ nổi giận nếu biết được, thế nên lẩn tránh thì tốt hơn. Francis vui mừng vì nhẹ nhõm, và dàn hòa với tinh thần lên cao độ, trong khi Laurent cầm lên cây vĩ cầm chơi một đoạn nhạc, rượt đuổi anh lòng vòng trong ngôi nhà gỗ cho đến khi Francis phóng ra ngoài, ngoác miệng ra cười. Có một bóng người trên con đường mòn, khá xa, và anh chạy vội vào trong. Anh chỉ nhìn thoáng qua, nhưng nghĩ đó là mẹ mình. Sau đó, qua nhiều ngày anh sống trong nỗi khiếp sợ và hoang mang, nhưng trong nhà không có gì thay đổi. Dù bà mẹ có thấy gì hay không thì bà cũng không nghĩ gì về việc này.

Mùa thu đến, thêm một học kỳ, rồi mùa đông. Anh không thể gặp Laurent thường xuyên, nhưng khi cha mẹ anh đã đi ngủ, anh đi đến ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Đôi lúc anh nghe tiếng huýt sáo đáp lại, đôi lúc chẳng nghe gì cả. Với thời gian dần trôi, anh thấy dường như tiếng huýt sáo trả lời càng ngày càng hiếm hoi hơn.

Lúc nào đó vào mùa xuân, sau khi Laurent lại đi đâu không rõ, anh này bắt đầu nói bóng gió rằng có chuyện lớn sẽ xảy ra. Rằng anh sẽ kiếm được khối tiền. Francis cảm thấy hoang mang và bứt rứt bởi lời lẽ mơ hồ, thường thốt ra trong cơn say. Có phải Laurent sẽ rời Sông Dove? Rồi Francis sẽ ra sao? Nếu Francis muốn dẫn dụ anh (mà anh nghĩ một cách khôn ngoan) hé lộ kế hoạch của anh, thì Laurent chỉ trêu cợt lại, và cách trêu cợt có thể lỗ mãng và tàn nhẫn. Anh thường nói đến người vợ và gia đình tương lai của Francis, hoặc việc đi tìm gái mãi dâm, hoặc sống ở miền nam đường biên giới.

Có một lần, lần đầu tiên trong số nhiều lần, hai người uống rượu với nhau. Đó là vào đầu hạ, những buổi tối đang ấm hơn để có thể ngồi bên ngoài. Những con ong đầu tiên đã xuất hiện từ bất kỳ nơi nào đó chúng trải qua mùa đông, bay lượn chung quanh mấy chùm hoa táo. Chỉ mới bảy tháng trước.

Laurent lại nói bóng gió đến những khối tiền trong tương lai. “Dĩ nhiên là lúc đó em sẽ kết hôn ở một trang trại nhỏ ở đâu đó, với đàn con, rồi em sẽ quên hết về tôi.”

“Em nghĩ vậy.” Francis đã học cách hùa theo những kịch bản nhỏ buồn thảm này. Nếu anh phản đối thì chỉ khiến cho Laurent làm tới.

“Tôi đoán khi em ra trường thì em sẽ không ở đây, phải không? Không có gì nhiều ở đây cho em, đúng không?”

“Ờ... Có lẽ em sẽ đi Toronto. Có lẽ thỉnh thoảng em sẽ đến thăm anh trên chiếc xe lăn.”

Laurent cười khụt khịt và nốc cạn ly rượu. Francis nhận ra là anh đang uống nhiều hơn lúc bình thường.

Rồi Laurent thở dài: “Tôi nghiêm túc đó, p’tit ami[61]. Em không nên ở đây. Nơi này chẳng là gì cả. Em bỏ đi càng sớm càng tốt. Tôi chỉ là một tên già quê mùa.”

“Anh hả? Anh sẽ giàu lên, nhớ không? Anh có thể đi bất cứ đâu anh muốn. Anh có thể chuyển đến Toronto...”

“Im đi! Em không nên ở đây! Chắc chắn em không nên ở đây với tôi. Không tốt. Tôi không tốt.”

Francis cố đè nén cơn run rẩy trong giọng nói: “Ý anh nói gì? Đừng có lố lăng. Anh say rồi, chỉ có thế.”

Laurent quay sang anh, nói rõ từng tiếng: “Tôi là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em phải cút xéo để trở về với ma-man và pa-pa của em.” Gương mặt anh trông hèn hạ, đôi mắt nhíu lại vì rượu. “Đi đi! Em còn chờ gì nữa? Cút xéo ngay!”

Francis đứng dậy, trong cơn đau khổ. Anh không muốn cho Laurent thấy mình khóc. Nhưng anh cũng không thể cứ bước ra, không thể như thế này.

Francis cố nói một cách trầm tĩnh: “Anh không có ý như vậy đâu. Em biết mà. Anh cũng không có ý gì khi nói đến nhà thổ và con rơi con rớt khắp nơi, và... tất cả những chuyện kia. Em thấy cách anh nhìn em...”

“Hà, mon Dieu[62]! Ai lại nhìn đến em như thế? Em là cái thứ đẹp nhất mà tôi từng thấy. Nhưng em là đứa nhỏ ngu ngốc chết tiệt. Tôi chán ngấy em. Và tôi đã kết hôn.”

Francis chết lặng, không muốn tin, không thể trả lời. Cuối cùng, anh nói: “Anh nói dối.”

Laurent nhìn anh một cách mệt mỏi, cũng nhẹ nhõm khi đã nói ra: “Không, nói thật đó, mon ami.”

Francis cảm thấy như lồng ngực mình vỡ toang. Anh tự hỏi tại sao mình không ngã xuống hoặc bất tỉnh, vì nỗi đau quả là khủng khiếp. Anh quay đầu rời xa ngôi nhà gỗ, rồi tiếp tục bước đi qua một trong những cánh đồng của cha anh và đi vào khu rừng. Anh bắt đầu chạy, hơi thở anh gấp gáp đến nỗi tiếng nức nở héo hắt bị khuất lấp. Sau một lúc, anh dừng lại, khuỵu xuống trên hai đầu gối trước một cây thông khổng lồ, rồi đập đầu mình vào lớp vỏ cây. Anh không biết mình ở đó bao lâu; có lẽ anh đã mê mụ, lấy làm vui về cơn đau đớn khỏa lấp nỗi dằn vặt còn kinh khủng hơn.

Ngay trước khi trời tối, Laurent tìm thấy Francis. Laurent đã lần mò theo Francis giống như theo một trong những con chó sói bệnh tật của anh, đi theo những dấu chân lộn xộn qua các lùm bụi. Anh cúi xuống, vòng tay ôm lấy Francis, các ngón tay khám phá vết thương trên trán Francis, những giọt lệ lóng lánh trên má, thì thầm xin lỗi.

Trong một thời gian ngắn, Francis nghĩ rằng sau đêm đó mình đã thắng. Dù cho Laurent đã kết hôn hoặc đã có một đứa con cũng chẳng hề gì; tất cả chỉ là quá khứ; bây giờ không quan trọng đối với hai người nữa. Nhưng Laurent vẫn chống lại nỗ lực của Francis nhằm trói buộc anh, nhằm đòi hỏi rạch ròi mọi chuyện. Sự thật là, anh không muốn Francis thay đổi gì về cuộc sống của anh trai trẻ, chỉ muốn xem Francis như là thú vui nhất thời. Với giọng nói không được thông suốt, khàn khàn, Francis kết án Laurent đã không quan tâm đến mình. Laurent xác nhận một cách tàn nhẫn.

Cứ thế, và cứ thế. Cùng một cách đối thoại lặp đi lặp lại với những thay đổi nhỏ nhặt, lạc lõng qua nhiều đêm mùa hè. Francis không rõ mình sẽ chịu đựng cuộc tra tấn thấm thía này thêm bao lâu nữa, nhưng vẫn không muốn từ bỏ. Anh cố gắng tỏ ra bình thản và nhẹ nhàng trước sự hiện diện của Laurent, nhưng không quen cách hành xử như thế. Tận đáy lòng mình, anh biết chẳng chóng thì chày Laurent sẽ ruồng rẫy hẳn mình. Nhưng giống như con thiêu thân cứ muốn bay vào ngọn lửa, anh không thể cưỡng lại ý muốn đi đến ngôi nhà gỗ, dù cho Laurent càng ngày càng vắng nhà. Anh không hiểu được làm thế nào tình cảm của Laurent lại thay đổi đến thế, trong khi tình cảm của chính mình lại sâu đậm thêm.

Và rồi, không rõ bằng cách nào, cha anh biết được vụ việc.

Đấy là một sự kiện đầy tai biến. Nó không chỉ giống như cha anh đã kết nối các tình tiết để đi đến kết luận, kiên nhẫn quan sát và thu thập các mảnh ghép cho đến lúc toàn thể hình ảnh hiện ra. Có những lúc Francis trở về nhà sau khi cha mẹ anh đã thức dậy, và anh lí nhí viện lẽ mà thiếu sức thuyết phục rằng mình đã đi dạo buổi sáng. Rồi có lúc cha anh đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent và thấy Francis ở đó, và anh giả vờ đang học cách khắc gỗ. Có lẽ đó là lúc mà ông bố hiểu ra tự sự, dù ông không tỏ thái độ gì. Hoặc có lúc khác, Francis giải thích một cách ngu xuẩn rằng mình đã qua đêm ở nhà Ida. Cha anh đã khẽ nhíu mày nhưng không nói gì. Rồi Francis hốt hoảng viện ra một lý do để chạy qua gia đình nhà Pretty để tìm Ida. Anh không chắc mình phải nói gì với cô, nhưng bịa ra một câu chuyện là đã say rượu ở Caulfield nên cần trốn lánh cha mẹ mình. Mặt cô lạnh tanh, và dù gật đầu đồng ý, cô nhìn anh với đôi mắt bị thương tổn khiến cho anh cảm thấy hổ thẹn.

Dù cho sự việc diễn tiến theo chiều hướng nào, cha anh không thể nào khoan dung anh nữa, nhất là sau một thời gian dài ông thấy khó mà nói chuyện với Francis - hai cha con không bao giờ gần gũi nhau. Ông bố không bao giờ đề cập trực tiếp đến vấn đề, nhưng không muốn nhìn vào mặt đứa con khi nói chuyện với nó, và chỉ cất tiếng khi bảo nó làm công việc nhà hoặc sửa đổi hành vi. Có vẻ như ông lạnh lùng khinh miệt đứa con trai, như thể ông không chịu nổi khi ở chung dưới mái nhà với nó. Đôi lúc, khi ngồi ở bàn ăn trong vùng lạnh lẽo giữa người mẹ và người cha, Francis cảm nhận cơn buồn nôn trỗi dậy trong cổ họng đến mức gần như áp đảo toàn thân anh. Một lần, trong khi trò chuyện với bà mẹ về việc nào đó, anh bắt gặp người cha đang nhìn mình, và chỉ thấy trong ánh mắt đó vẻ giận dữ lạnh lùng, không gì làm nguôi ngoai được.

Một việc khiến cho anh ngạc nhiên là anh phải giữ kín đối với mẹ mình. Bà nhận rõ không khí lạnh lùng giữa hai cha con và điều này khiến cho bà buồn lòng, nhưng bà vẫn không đối xử với anh khác đi; bà vẫn là người phụ nữ thiếu kiên nhẫn, thiếu hạnh phúc cả trong thời gian dài mà anh còn nhớ được.

Đấy là vào cuối tháng Mười. Nhiều lần Francis đã nhủ lòng sẽ không đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent nữa, nhưng anh thấy mình khó làm theo được. Vào buổi tối ấy, anh thấy Laurent đang ở nhà. Sau một lúc, hai người bắt đầu một cuộc cãi cọ chua cay, dai dẳng, lặp đi lặp lại những gì họ đã nói ra lúc trước. Francis cảm thấy giận cho chính mình, nhưng không dừng được. Đôi lúc chỉ có một mình, anh mường tượng đang bước đi với phẩm giá, ngẩng cao đầu, nhưng khi đứng trong gian bếp của Laurent, đối diện với Laurent - bừa bãi, râu ria không cạo, thô lỗ - thì một cơn giận dữ dâng trào tuồng như muốn quỳ dưới chân anh mà rơi nước mắt van xin; như muốn tự tìm lấy cái chết; bất kỳ việc gì để chấm dứt cơn tra tấn này. Như muốn giết Laurent.

Francis khàn khàn hét lên như nhiều lần trước: “Em đã không đến với anh, nhớ không? Em đã không đòi hỏi chuyện này. Chính anh làm cho em như thế này... Anh!”

“Và tôi ước gì mình không bao giờ để mắt tới em. Trời ơi, em làm cho tôi buồn nôn!” Và rồi Laurent nói: “Dù sao chăng nữa thì không hề gì. Tôi sẽ ra đi. Trong thời gian dài. Tôi không biết khi nào sẽ trở về.”

Francis trân trối nhìn anh, trong một khoảnh khắc không tin lời anh nói: “Tốt thôi. Anh muốn nói gì cũng được.”

“Tuần tới tôi sẽ đi.”

Cơn tức giận đã lắng xuống trên gương mặt Laurent, và Francis có cảm giác lạnh người, buồn nôn khi nghĩ ra đó là sự thật.

Laurent quay người đi, bận rộn với một việc gì khác: “Có lẽ lúc đó em sẽ nguôi ngoai chứ? Đi tìm một cô gái đẹp người đẹp nết.”

Francis cảm thấy nước mắt chực tuôn ra. Toàn thân anh yếu ớt hẳn đi, như thể đang bị một cơn sốt hành hạ. Laurent sắp bỏ đi. Chuyện chấm hết. Anh không rõ làm thế nào mình có thể tiếp tục sống với nỗi đau này.

“Này, chuyện không đến nỗi tệ hại. Em thực sự là một đứa trẻ tốt.” Laurent đã thấy nét mặt đau khổ của Francis, và cố tỏ ra tử tế. Như thế là còn tệ hại hơn bất kỳ lời lẽ thô tục nào hoặc bất kỳ nhận xét chua cay nào.

“Xin anh...” Francis không biết nói gì thêm. “Xin anh, bây giờ đừng nói như vậy. Cứ đi đi, nhưng bây giờ đừng nói ra. Cứ đi đi. Lo việc của anh đi, cho đến khi...”

Có lẽ Laurent cũng mệt mỏi vì gây gổ, nên anh chỉ nhún vai và mỉm cười. Francis bước đến, vòng tay ôm lấy anh. Laurent vỗ về lưng Francis, giống như cha đối với con cái hơn là tình cảm gì khác. Francis níu lấy anh, ước gì mình có thể rời xa; càng ước thêm đó là mùa hè năm trước, rời xa vĩnh viễn.

Người yêu của tôi, người chán ngấy tôi đến chết.

Đêm ấy Francis ở lại nhưng không hề chợp mắt, lắng nghe tiếng thở đều của Laurent bên cạnh mình. Anh cố ngồi dậy và mặc lại quần áo mà không làm Laurent thức giấc, tuy trước khi ra về anh cúi xuống khẽ hôn trên má Laurent. Anh chàng vẫn không tỉnh giấc, hoặc giả vờ mê ngủ.

Và rồi, hai tuần sau, anh đang đứng trong ngôi nhà gỗ tăm tối, nhìn đến thi hài còn ấm đang nằm trên giường.

Và xin Thượng đế tha tội cho anh nếu ý nghĩ thứ hai của anh là: Ôi, ôi, người yêu của tôi, bây giờ anh không thể rời xa tôi được.

 

[60] Nửa Người: theo nghĩa đen trong nguyên bản: “Half Man”, một biệt hiệu chứ không phải tên người.

[61] P’tit ami: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “anh bạn thân nhỏ”.

[62] Mon Dieu: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “Trời ơi!”