Sự Hiền Hòa Của Sói

Những cánh đồng của thiên đường Chương 7

p>Anh đã thất bại. Đã vài ngày qua, anh nằm thin thít trong căn phòng này, người yếu ớt hầu như không cử động nổi. Chân trái anh đau nhức từng chập, khiến cho anh phải thức dậy trong đêm. Từ chiếc giường hẹp, anh đã xem xét các bức tường quét vôi trắng, các chiếc ghế gỗ, cửa sổ không có rèm chỉ cho thấy bầu trời. Khi nhổm dậy dựa trên hai cùi tay, anh có thể thấy chóp tháp nhỏ của một ngôi nhà thờ, được sơn màu đỏ mờ đục. Trong phần lớn thời gian, bầu trời có màu xám, hoặc trắng. Hoặc đen.

Anh đã bớt run rẩy. Bây giờ anh biết mình hẳn đã lên cơn sốt sau khi rơi xuống bãi lầy. Anh đã đi băng qua một dòng nước lặng lờ có than bùn - dòng nước tĩnh lặng đến mức có những cầu vồng trông như váng dầu trên bề mặt - thế rồi khi đến bờ bên kia anh trượt chân và đâm bổ xuống vũng lầy. Anh thấy kinh khiếp bởi tốc độ mình chìm xuống, vội nắm lấy một dúm lau sậy, soài thân người rộng ra trong bùn để không bị chìm tiếp. Anh có thể thấy rõ mình bị hút xuống dưới, bùn tràn vào miệng và mũi, làm nghẹt cổ họng. Anh hét to lên, như là câu phát biểu về tình huống hơn là tiếng kêu cầu cứu - không cần làm thế, vì sự thể đã rõ ràng một cách đau đớn. Có vẻ như phải mất nhiều tiếng đồng hồ anh mới nhấc người lên được, rồi bò lên bờ qua một khoảnh cây việt quất[24]. Việt quất cho quả có vị ngon, an toàn; bộ rễ cắm sâu vào đất đá. Anh nằm mệt lả. Chân trái anh đã bị thương như thế nào đó và cơn đau ở đầu gối khiến cho anh nôn ọe khan. Anh đã không ăn đúng mức trong ba ngày - hoặc lâu hơn thế nữa? Anh không nhớ ra. Nhưng anh nhớ lại lúc người ta tìm được anh, hoặc lúc họ mang anh đến đây. Anh tỉnh lại trong căn phòng quét vôi trắng và tự hỏi có phải cái chết trông như thế hay không: một căn phòng màu trắng trống trơn, nơi các thiên thần bay lượn qua lại, nói chuyện qua đầu lưỡi.

Rồi cơn sốt hạ, và anh nhận ra căn phòng không phải là trống trơn, và các thiên thần đi đứng trông bình thường, dù anh không hiểu họ nói gì.

Có hai phụ nữ chăm sóc cho anh, bón cho anh ăn súp và làm những việc khiến cho anh ngượng ngùng khi nhớ lại. Nhưng họ hẳn ngang bằng tuổi mẹ anh, và đối xử với anh như là con cái của họ. Họ làm việc nhanh nhẹn, nghiêm túc, trải vải giường, xoa đầu anh. Hôm qua - anh nghĩ đó là hôm qua - một người đàn ông bước vào, trao đổi với một trong các phụ nữ, rồi đến nhìn anh. Ông ngang tuổi cha anh; có hàm râu rậm không hợp thời trang gì cả, và có cặp mắt lồi.

Ông hỏi trong ngữ âm kỳ lạ: “Êtes-vous Français?[25]

Francis cảm thấy đánh động là người đàn ông đã biết tên anh[26], nhưng sau đó anh mới biết đó là tiếng Pháp. Anh tự hỏi mình phải nói gì. Có nhiều điều anh không biết.

Rồi người đàn ông quay lại người phụ nữ và nói với âm thanh phát ra từ cổ họng: “Enk-lish?[27]

Francis nhìn chăm chăm người đàn ông và quyết định mình sẽ không nói năng gì cả. Có lẽ tốt nhất là như thế.

Người đàn ông và người phụ nữ nhìn nhau. Người đàn ông nhún vai, và một lúc ông khoanh hai tay lại, bắt đầu lên tiếng. Sau một phút, Francis nhận ra rằng ông đang cầu nguyện. Người phụ nữ cũng cầu nguyện, nhưng bằng cách lắng nghe người đàn ông. Trang phục của họ thật giản dị - loại vải thô với màu đen, trắng và xám, giống như bầu trời của họ.

Mới gần đây - trong khoảng một tiếng đồng hồ vừa qua - anh đã bắt đầu nhớ lại các sự việc: anh nhớ mình đã lê bước qua từng dặm rồi từng dặm dọc theo bờ sông khi con sông cắt ngang qua vùng rừng cây, đi xa hơn là anh đã từng đi trong đời, theo dấu vết của người đàn ông ấy. Từ cái đêm ở ngôi nhà gỗ anh đã không gặp lại ông ta, và anh đã tận dụng mọi kỹ năng để đi theo các dấu vết. Vùng đất đã đãi ngộ anh. Mỗi khi anh nghĩ mình đã bị lạc lối - sau khi đã đi nhiều tiếng đồng hồ, xem xét và tìm kiếm nhưng không thấy dấu vết gì trên mặt đất, ngay khi anh nghĩ mình đã đi qua ngã rẽ của ông - thì anh lại bắt gặp một dấu vết khác: vết giày da đanh trên lá cây, hoặc vũng nước tiểu làm tan sương giá. Anh đã thấy nhiều loại dấu vết của ông ta và vệt đống lửa mà ông vội quét qua. Anh không biết ông ăn khi nào. Anh chưa từng thấy ai di chuyển nhanh đến thế.

Francis chỉ dám đốt lửa một lần, và sau đó mất ngủ, e sợ người đàn ông biết mình bị theo dõi và tìm ra anh. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Anh đã cẩn thận không theo sát quá, luôn nhìn về phía trước để nhận ra một cái bẫy. Cuối cùng, tính cẩn thận đã làm hại anh. Vào ngày thứ tư, anh lạc mất khỏi dấu vết. Nó rời xa vùng rừng để hướng lên vùng cao hơn rồi rẽ về hướng tây-nam đến một khu trơ trụi, không có cây to - chỉ là vùng cao nguyên bụi rậm, lầy lội, nơi mà bùn nhão khiến anh phải đi chậm lại và thêm cơn gió từ hướng bắc thổi sắc như dao qua chiếc áo da sói. Anh đi chầm chậm; đã lớn lên quen với việc trú ẩn dưới tán lá cây, bây giờ lo lắng bị phát hiện giữa khoảng trống trải.

Sau vài tiếng đồng hồ đi như thế, anh gần rơi xuống một dòng sông khác, nhỏ hơn, chảy qua một bãi lầy. Nước đục mù mờ; anh không thấy dấu hiệu chỉ ra chỗ nào băng qua được. Rồi anh loạng choạng, không thoát ra được. Đấy là nơi mà lần đầu tiên anh thật sự sợ hãi. Dĩ nhiên là từ đầu đến giờ anh vẫn sợ hãi, nhưng bây giờ anh mới thấy vùng đất hoàn toàn thắt chặt lấy anh, sắp để mặc cho anh chết, mà người ta không bao giờ tìm ra anh. Bộ xương của anh sẽ nằm phơi dưới bầu trời, bị tẩy trắng và xối rửa như các bộ xương nai nằm rải rác chung quanh. Anh vẫy vùng, ngập đến thắt lưng, cho đến khi trời tối. Anh cũng cất tiếng kêu, cầu may người đàn ông ở gần đó - ít nhất cái chết dưới tay ông ta sẽ đến thật nhanh. Ít nhất cái chết là do con người. Nhưng bằng cách nào đó, bằng cách nào đó, anh nhấc mình lên được. Đến lúc này thì anh hoàn toàn kiệt sức.

Cuối cùng thì vẫn thế: anh đã bất tỉnh bên bờ sông ấy, đã kiệt sức và lạnh cóng. Anh đã thất bại.

Anh nghĩ bây giờ là buổi chiều: anh đã dùng ít súp một tiếng đồng hồ trước, và rồi phải ngượng nghịu với một trong hai phụ nữ, người có mái tóc đen, khi sử dụng cái bô trên giường. Anh không dám nhìn bà, và bà cười lên như thể thấy anh thực sự buồn cười, và bà không có vẻ gì là ngượng ngùng.

Anh không thấy quần áo mình ở đâu cả, nhưng không biết có nên hỏi ai không, và nếu nên hỏi thì anh không biết hỏi bằng cách nào. Anh có thể hỏi người đàn ông nếu ông này quay lại. Nhưng anh nghĩ mình sẽ không hỏi, bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh cũng thế. Viễn cảnh không nói năng gì quả là dễ sợ. Nếu anh không nói năng, thì có lẽ không ai hỏi han anh gì cả. Anh lấy làm tiếc mình đã thất bại, nhưng chỉ tiếc ít thôi - anh đã làm những gì có thể làm được. Lý do để anh rời khỏi nơi đây càng mờ mịt, từ một thế giới xa lạ. Một thế giới đau đớn, không phải là thế giới mà anh muốn trở về. Điều anh quan tâm nhất là phiến xương đang ở đâu.

Khi một trong hai phụ nữ quay lại - người có mái tóc khô vàng hoe và tiếng cười vang vang - anh cố diễn đạt bằng ít điệu bộ. Bà khiến cho anh liên tưởng đến mẹ của Ida - có cùng tính cách thực tiễn trần tục. Trong khi bà đang tất bật quanh anh, tấn chăn giường, sờ trán anh, anh bắt lấy ánh mắt của bà, rồi đưa hai bàn tay lên cánh tay đối diện, ra dáng điệu đang khoác vào chiếc áo, rồi giơ bàn tay ra hiệu hỏi. Bà hiểu, níu lấy chiếc váy của mình để trả lời, và líu lo một tràng. Anh mỉm cười, mong muốn có người bên mình. Rồi anh ra dấu viết trên lòng bàn tay, và vẽ hình thù một tấm thẻ trong không khí. Bà nhíu mày, rồi có vẻ như hiểu ra. Bà nhìn anh với vẻ không tán thành, nhưng bước ra khỏi căn phòng.

Một buổi tối, nhiều tháng trước, Laurent đã lấy ra mảnh xương từ nơi anh cất giấu (lúc ấy anh đang say) và cho Francis xem, rồi hai người cùng nhau nghiên cứu những hoa văn nhỏ hình gậy vẽ con người và những dấu hiệu có góc cạnh, trông tương tự như chữ viết. Laurent nghĩ Francis có thể biết đấy là gì Francis cố nhớ lại về những gì đã học ở trường: kiểu chữ tượng hình Ai Cập, chữ Hy Lạp cổ đại, hình vẽ trong các quyển sách của mẹ anh, nhưng không thể nhớ cái gì tương ứng với những dấu hiệu ấy. Cách duy nhất để có thể xác định chiều đứng là từ những người hình gậy xếp hàng dọc theo rìa. Laurent bảo rằng anh đã nhận được mảnh xương từ một nhà buôn ở Mỹ, rằng anh đã gặp một quý ông ở Toronto ngỏ ý muốn mua với một khoản tiền lớn. Hai người cùng cười cợt về tính điên rồ của người có tiền. Rồi, sau đó, Laurent bảo Francis có thể nhận lấy mảnh xương. Francis từ chối, vì lo âu đối với món gì đó mà mình không hiểu được. Ai biết được - có lẽ đó là một lời nguyền? Nhưng Laurent đã trao cho anh, thế nên khi anh nhận thì như vậy thực sự không phải là ăn cắp. Còn mấy chuyện kia, anh phải chấp nhận để được sống sót. Anh cũng sẽ mang theo súng, nếu anh trông thấy nó. Phần kia trong anh - phần mà anh đã chịu đựng trong những năm dài ở trường làng - hỏi nếu có súng thì anh sẽ làm gì? Thậm chí anh còn không nhẫn tâm bắn một con thỏ.

Khi anh mở mắt lại, người đàn ông có bộ râu đang ngồi kế giường anh. Ông đặt một quyển sách xuống - ông đã chờ cho đến khi anh tỉnh dậy. Francis nhìn tựa sách, nhưng ngữ văn trông như một mớ phụ âm lộn xộn. Người đàn ông mỉm cười với anh. Răng ông cáu màu, càng thêm tương phản với màu đỏ của đôi môi. Francis chăm chăm nhìn lại ông, nhưng vẻ gì đó trên khuôn mặt ông đã dịu đi, bởi vì mặt ông sáng lên do vui mừng và ông vỗ vai anh. Ông lại hỏi anh là người Pháp hay người Anh. Anh chợt có ý nghĩ là những người tìm ra anh có lẽ đã trông thấy người mà anh đang theo dõi. Ai biết được, có lẽ người ấy đã đến đây? Anh có thể bỏ qua ý tưởng về đối thoại, nhưng như thế anh sẽ phải bỏ qua luôn hy vọng của mình. Anh ngạc nhiên mà nhận ra mình không sẵn sàng để bỏ qua.

Anh liếm đôi môi đang khô khốc và cáu bẩn. Anh nói giọng khàn khàn: “Người Anh.”

Người đàn ông vui mừng: “Người Anh! Tốt. Anh biết tên anh là gì không?”

Francis lưỡng lự một giây đồng hồ, rồi nói ra mà không nghĩ ngợi: “Laurent.”

“Laurent? À, Laurent. Vâng. Tốt. Tôi là Per.” Ông quay mặt gọi lớn: “Britta! Đến đây.”

Người phụ nữ có nước da trắng trẻo xuất hiện từ đâu đó gần đấy, mỉm cười với anh. Per trao đổi với bà trong ngôn ngữ của họ.

Bà nói: “Laurent, chào mừng anh.”

“Bà ấy không nói được tiếng Anh nhiều. Tiếng Anh của tôi giỏi hơn. Anh biết mình đang ở đâu không?”

Francis lắc đầu.

“Anh đang ở tại Himmelvanger. Tên có nghĩa Cánh đồng của Thiên đường. Tên nghe hay, phải không?”

Francis gật đầu. Trước đây anh chưa hề nghe qua tên này. Giọng nói của anh vẫn nghe lạ lùng và yếu ớt: “Sông nào...?”

“Sông? À, chúng tôi đã tìm thấy anh... vâng. À, con sông không có tên. Jens đang đi săn... và thấy anh ở đó. Quả là đáng ngạc nhiên.” Theo cách người đàn ông ra dấu, anh kia đang đi tìm thỏ rừng nhưng thay vào đó tìm ra một trai trẻ bẩn thỉu lê lếch.

Francis cố nở nụ cười vui, đôi môi vẫn cảm thấy khó khăn: “Tôi có thể nói chuyện với Jens được không?”

Per lộ vẻ ngạc nhiên: “Chắc chắn là được. Nhưng bây giờ... anh đang đau yếu. Hãy ngủ và ăn uống. Sẽ chóng khỏi. Britta và Line chăm sóc anh tốt, phải không?”

Francis gật đầu. Anh mỉm cười với Britta, lúc ấy đang cười khúc khích.

Per nghiêng người xuống và nhặt lên quần áo của Francis: “Sạch sẽ hết, phải không? Và cái này...” Ông đưa ra chiếc túi của Laurent, và Francis cầm lấy.

“Cám ơn ông nhiều. Và cám ơn... Jens đã tìm thấy tôi. Tôi hy vọng sẽ gặp ông ấy sớm.”

Hai người kia mỉm cười và gật đầu.

Britta nói với Per, và ông này kéo lùi chiếc ghế của mình khi đứng lên với tiếng lẩm bẩm thỏa mãn: “Bây giờ anh ngủ đi, Britta bảo tôi. Nhé?”

Francis gật đầu.

Anh nghĩ về cha mẹ mình ở trang trại. Anh đoán họ đang lo lắng cho mình, tuy rằng họ có lo lắng nhiều đến mức đi tìm anh hay không lại là chuyện khác. Bây giờ người ta hẳn đã tìm ra Laurent. Họ sẽ nghĩ gì? Liệu họ có nghĩ anh làm chuyện đó không?

Ý nghĩ khiến anh gần như mỉm cười.

༺༒༻

Line đang ở bên ngoài cùng với Torbin và Anna khi Britta đi ra cho cô biết anh trai trẻ đã nói được. Line nghĩ một người Anh có tên Laurent là điều kỳ lạ. Trước đây cô có biết một người Pháp tên Laurent, khi Janni còn sống. Tiếng Anh của cô khá hơn mọi người, còn khá hơn Per, nên cô thầm lấy làm vui. Cô đã có ý nghĩ che chở cho anh từ khi Jens mang anh đến, thân người vắt ngang lưng lừa, và bây giờ cô nghĩ đó là đúng lý - cô có thể là cầu nối giữa anh và những người khác.

Torbin và Anna chạy đến cô giữa một đàn gà kêu oang oác.

Mặt đỏ hồng vì lạnh, Torbin hỏi: “Chúng con gặp chú ấy bây giờ được không?”

“Chưa, chưa được. Chú ấy còn rất yếu. Ta sẽ làm cho chú ấy kiệt sức.”

“Không đâu. Chúng con như là chuột nhắt bé nhỏ. Chuột nhắt bé tí.” Anna giả làm tiếng chuột kêu chút chít.

Line nói: “Không lâu đâu. Khi chú ấy có thể đứng dậy và đi đứng.”

Anna nói ngay: “Giống như Lazarus[28].” Cô bé muốn đặt người lạ vào khung cảnh thế giới có hình dạng Himmelvanger của cô.

“Không giống như Lazarus. Chú ấy không chết.”

“Gần như thế! Đúng không?” Torbin hy vọng có thêm chất bi kịch.

“Đúng, gần như thế. Chú ấy bất tỉnh.”

“Ừ, giống như thế này. Ma-man, xem này!” Torbin ngã xuống trên nền tuyết và giả bộ bất tỉnh, mà theo cách diễn dịch của nó, cái lưỡi thè ra một bên miệng. Trông giống như nụ cười. Lúc nào Torbin cũng có thể làm cho cô cười. Nó là đứa trẻ không kìm nén được, không lay chuyển, như một quả bóng cao su đặc. Nó không gợi cho cô liên tưởng nhiều đến Janni, trong khi Anna thì giống như Janni đầu thai lại kiếp sau - gò má cao, tóc nâu, đôi mắt xanh lam sâu thẳm. Một nụ cười vô cùng ngọt ngào, chỉ nở ra một đôi lần mỗi năm, nhưng gây hiệu ứng mãnh liệt vì hiếm hoi.

Hai đứa trẻ trèo lên máng gà và đi băng ngang khoảnh sân. Line có nhiệm vụ cho gà ăn, rồi giúp Britta may chăn bông. Britta không có nhiều thời gian cho riêng mình, nhưng vẫn đến đây làm việc này. Cô thích đến chơi ở nhà trú ẩn cho đàn gà, được xây chắc chắn chống lại những ngọn gió đông với lớp mái dốc để chống tuyết. Tất cả nhà cửa ở Himmelvanger đều có cấu trúc chắc chắn và dễ chịu. Mọi thứ đều phải được xây cẩn thận, bởi vì xây cho Thượng đế: lắp ghép qua mộng đuôi én[29], tường hai lớp, mái dốc được lợp ngăn nắp với ngói gỗ tuyết tùng mỗi tấm mái gần giống hình quả tim. Tháp nhọn trên ngôi nhà nguyện nhỏ, với cây thập tự được sơn phết. Trong mười năm, nó đã chống đỡ gió và thời tiết trong mùa đông Canada. Thượng đế đã che chở cho họ.

Dân cư ở đây đã đón nhận cô với lòng tử tế và chiếu cố, thậm chí còn có nhiều lời khuyên bảo. Line à, nên cầu nguyện thêm, nên đặt niềm tin nơi Thượng đế, nên hòa công việc với đức tin và như thế sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên ngưng than khóc vì Janni, bởi vì bây giờ anh ấy đã về với Thượng đế, nên anh ấy được hạnh phúc. Cô đã cố gắng thực hiện những việc này, bởi vì cuộc đời cô hàm ơn họ. Khi Janni biến mất - cô vẫn cảm thấy khó khăn khi nói “chết”, dù là nói cho riêng mình - cô có hai đứa con nhỏ và không có tiền. Cô bị đuổi ra khỏi nơi cư ngụ và không biết đi đâu. Đã suy tính trở về Na Uy nhưng không có tiền mua vé tàu. Đã suy tính cùng hai con gieo mình xuống sông St. Lawrence[30]. Và rồi một người bạn kể cho cô nghe về Himmelvanger. Viễn cảnh sống trong một cộng đồng tôn giáo mẫu mực vừa xa xôi vừa khôi hài. Nhưng họ là người Na Uy, và họ cần người làm lao động chăm chỉ. Quan trọng hơn, họ không đòi hỏi tiền nong.

Điều trái khoáy là cô đã theo cùng hướng mà Janni đã theo trong chuyến đi cuối cùng của anh. Hoặc là, nếu không phải chuyến đi cuối cùng của anh, thì là lần cuối cô trông thấy anh. Anh đã đi tìm việc làm và gặp một người Na Uy lúc ấy sắp làm việc cho Công ty Vịnh Hudson. Công việc theo mùa hứa hẹn lương cao, nhưng ở xa, mãi tận miền tây-nam, trên Đất Rupert. Anh phải xa Line và hai đứa con trong hơn một năm, nhưng anh nói họ sẽ có tiền để mua một ngôi nhà. Đấy là cách đi tắt cho cuộc sống mà họ mong muốn: ngôi nhà và một mảnh đất nhỏ cho riêng mình. Line sẽ không phải làm công việc giặt giũ và mạng vá quần áo bẩn thỉu của người khác; anh sẽ không phải cắn răng mà làm lụng cho kẻ ngu ngốc.

Sau khi anh đi, cô chỉ nhận được một lá thư của anh. Janni không giỏi viết thư, nên cô không trông mong những lá thư tình nồng nàn, nhưng dù thế, một lá thư trong sáu tháng vẫn khiến cô đau buồn. Anh đã kể trong thư là cuộc sống không giống như mình đã hình dung lúc đầu - anh và người bạn được chỉ định làm việc chung với một nhóm tù phạm người Na Uy mà Công ty đã đón nhận. Bọn người này thô lỗ và đầy bạo lực, lập nên một băng đảng mà các nhân viên khác lánh xa. Janni cảm thấy bất an vì phải nhập bọn với đám người này, nhưng việc phân chia theo quốc tịch quan trọng hơn là theo hoàn cảnh pháp luật. Nhưng anh cho biết có vài người tốt trong bọn họ, và định sẽ trở về gặp lại Line cùng hai con và tìm địa điểm xây nhà. Không có lời lẽ thương yêu, không có tình âu yếm; đấy giống như là lá thư anh viết cho bà dì. Và sau đó, Line không nhận được gì nữa.

Khi mùa hè đến, cô thiếu kiên nhẫn chờ đợi, và họ hỏi tin tức của anh. Toronto nóng bức và ẩm ướt; đàn nhặng hút máu làm cho hai đứa trẻ khổ sở, khu nhà cho thuê rẻ tiền chật chội, nồng nực mùi nước thải. Cô trở nên cáu bẳn, dễ tức giận. Thế rồi, vào tháng Bảy cô nhận được một lá thư ghi gửi cho “Gia đình của Jan Fjelstad”. Phong thư ghi nhầm địa chỉ, đã bị bóc ra rồi được ghi lại địa chỉ mới với nét chữ của trẻ con. Lời lẽ cứng nhắc trong thư tỏ ý tiếc thông báo là vào tháng Giêng chồng cô ở trong nhóm người Na Uy nổi loạn và trốn khỏi nơi làm việc, mang theo tài sản có giá trị của Công ty. Họ đã biến mất trong vùng hoang dã, chắc chắn là đã bỏ mình trong những cơn bão tuyết quét qua vào tháng ấy. Tuy nhiên (lá thư cẩn thận ghi thêm), nếu do may rủi kỳ lạ mà họ còn sống, thì họ là những kẻ trốn lánh pháp luật.

Thoạt đầu, Line không tin vào chuyện này. Cô vẫn chờ đợi chồng trở về, nghĩ rằng họ hẳn đã nhầm anh với một người khác. Cô nhủ lòng mình rằng người Anh dễ nhầm lẫn giữa những cái tên Na Uy. Cô không tin Janni trộm cắp món gì. Bản chất của anh không phải thế.

Cô đi đến văn phòng của Công ty ở Toronto, đòi gặp một ai đó, và một anh trai trẻ người Anh có mái tóc màu cát tiếp cô trong phòng làm việc nhỏ của anh. Anh tỏ vẻ lịch sự, cất tiếng xin lỗi, nhưng nói không có lý do mà nghi ngờ nội dung của lá thư. Đã có một vụ nhân công bỏ trốn, và tuy cá nhân anh không biết về những người có liên can, anh tin rằng lá thư thông báo chính xác. Line lớn tiếng với anh trai trẻ, và anh giận dữ. Có vẻ như anh không nhận ra rằng mình đang nói về cái chết của người chồng, của mọi nỗi niềm cho cuộc đời người vợ. Cô chạy ra khỏi văn phòng và tiếp tục chờ đợi.

Nhưng nhiều tuần trôi qua mà anh vẫn không về, rồi cô cạn tiền. Cuối cùng, dù cô có tin hay không thì vẫn thế thôi; dù đấy là sự thật hay không thì cô phải chọn một quyết định. Thế là, vào một buổi sáng tháng Chín, cô cùng với hai con lên đường đi trong ba tuần đến một nơi có địa danh kỳ quặc là Himmelvanger, đi quãng đường gần bằng với cuộc hành trình cuối cùng của Janni, để rồi đến một cái tên không kém kỳ quặc là Nhà máy[31] Nai Sừng tấm.

Đấy là ba năm về trước, và cô đã quen với cuộc sống mới. Trong khoảng thời gian đầu, cô tin chắc Janni sẽ tìm ra mình; trước khi rời Toronto cô đã cho mọi người biết mình sẽ đi đâu. Một ngày nào đó, anh sẽ cưỡi một con ngựa khỏe mạnh chạy vào sân vườn, cất tiếng gọi tên cô, rồi cô sẽ bỏ mặc bất gì việc gì đang làm mà chạy đến đón anh. Trong khoảng thời gian đầu, mỗi ngày cô đều nghĩ như thế. Thế rồi, dần dà, cô thôi buông thả mình trong chuyện mộng mơ ấy. Cô trở nên biếng nhác và trầm cảm, cho đến lúc Sigi Jordal thôi thúc cô tâm sự với mình. Line khóc, đó là lần đầu tiên cô khóc sau khi đến đây, rồi thú nhận với Sigi rằng đôi lúc cô muốn tìm đến cái chết. Đó là tội lỗi. Các thành viên của cộng đồng tìm đến, mỗi người thay phiên nhau khuyên cô nên hối lỗi đối với cái tội lớn nhất là vô hy vọng, nên chấp nhận Thượng đế trong con tim và để Người xóa đi nỗi thất vọng. Cô nhanh chóng trấn an họ rằng mình đã (thình lình) chấp nhận Thượng đế, và Người đang dẫn dắt mình ra khỏi vùng tối tăm của ưu phiền. Bằng cách nào đó, chính thái độ giả vờ giúp an ủi cô; đôi lúc cô tự hỏi liệu mình có tin tưởng dù một nửa hay không. Cô đi nhà thờ, ngồi nhìn ánh nắng chiếu vào, dõi theo một hạt bụi cho đến khi mắt cay sè. Tâm tư cô lan man một cách dễ chịu. Cô không cầu nguyện, không hẳn thế, nhưng cũng không cảm thấy cô đơn.

Trong khoảng thời gian này, Espen Moland bắt đầu tỏ mối quan tâm. Anh đã có gia đình (cộng đồng chỉ dành cho những gia đình) và các con anh chơi đùa với Torbin cùng Anna, nhưng mối quan tâm đối với cô không chỉ về tinh thần. Lúc đầu cô cảm thấy ngán ngẩm, biết rằng việc này hoàn toàn bị lên án. Nhưng trong thâm tâm cô cảm thấy thích. Espen làm cho cô thấy mình xinh đẹp trở lại. Anh nói cô là phụ nữ đẹp nhất ở Himmelvanger và rằng cô làm cho anh mê mẩn. Line lắp bắp trả lời nhưng ngầm công nhận. Espen không hẳn là đẹp trai, không như Janni; nhưng anh lanh lợi và có tính hài hước, luôn thắng thế trong các cuộc tranh luận và trao đổi. Quả là dễ chịu đến kỳ lạ khi nghe lời lẽ ngọt ngào từ một người không bao giờ ngưng đùa cợt, đến mức cô không còn làm ngơ được nữa. Cuối cùng, vài tháng trước, họ bắt đầu dấn thân vào tội lỗi. Đấy là cô nghĩ thế, dù cô thấy mình không có tội. Chỉ cần cẩn trọng. Cô không thể gánh nổi một thảm họa khác.

Bây giờ Line nghe tiếng anh đang đi đến, huýt sáo một trong những giai điệu do anh nghĩ ra. Anh đang đi đến nhà nuôi gà? Đúng thế - cánh cửa mở ra.

“Line! Cả ngày anh chưa gặp em!”

“Em có việc phải làm, anh biết mà.”

“Dĩ nhiên rồi, nhưng nếu không gặp em, anh buồn lắm.”

“À, chắc hẳn rồi.”

“Anh đến sửa lại mái ngói bị thủng.”

Anh đang mang thắt lưng đồ nghề - anh là thợ mộc của họ - và Line ngước nhìn qua mái ngói.

“Không có lỗ thủng.”

“À, có thể có. Tốt nhất là nên đề phòng. Anh không muốn mấy quả trứng của ta bị ướt, phải không?”

Cô cười khúc khích. Espen luôn làm cho cô cười, cả những lúc anh nói ra chuyện ngu xuẩn nhất. Anh vòng cánh tay ôm ngang eo cô, ép cô vào sát người anh, và cô có cảm giác thân quen như thân người mình tan chảy khi hiện diện bên anh.

“Britta đang chờ em.”

“Thế hả? Trong ít phút cô bé sẽ không nhận biết.”

Khó mà giữ tư cách cho có chừng mực, ngay cả trong một cộng đồng tôn giáo khắt khe như ở đây. Anh đang hôn lên cổ cô, đôi môi nóng bỏng lướt trên làn da cô. Nếu không rời xa anh bây giờ thì xem như cô đầu hàng hẳn.

“Bây giờ không phải lúc.” Cô luồn người ra khỏi vòng tay anh, hơi thở gấp gáp.

“Trời ơi, hôm nay em trông đẹp quá. Anh có thể…”

“Dừng lại!”

Cô yêu thích tia mắt khẩn cầu của anh. Quả là tuyệt diệu được biết cô có năng lực làm cho một người hạnh phúc đến thế. Nhưng nếu cô không đi ra khỏi nhà nuôi gà ngay bây giờ, anh có thể bắt đầu nói ra những ngôn từ ấy khiến cho máu dồn lên mặt cô, xóa nhòa mọi lý lẽ phải trái. Những ngôn từ xấu xa, thô tục mà cô không bao giờ nói ra, nhưng tạo mãnh lực lạ kỳ, gần như là phép mầu, áp đảo cô hoàn toàn. Janni không hề ăn nói như thế, nhưng chỉ vì không giỏi ăn nói. Đúng là trước đây cô chưa từng kinh qua cách mình cảm nhận về Espen; có vẻ như cô đang thay đổi theo cách mà đôi lúc cô cảm thấy đáng báo động, như thể đang ngồi trên một chiếc ca nô mỏng manh như giấy vượt qua con lũ - bồng bềnh, hồ hởi, nhưng không chắc mình kiểm soát được.

Cô cố lách mình ra xa, nhưng trong sâu thẳm cô khát khao anh, rồi mỉm cười, giống như trong khoảnh khắc vừa qua, để anh không nghĩ - lạy Trời - rằng cô đã không quan tâm.

Bên ngoài nhà nuôi gà cô xóa đi nụ cười trên môi, cố nghĩ đến cái gì khác; cái gì đó khó chịu, như mùi hôi của các con heo, chứ không phải Espen và đôi môi ngọt dịu nhưng thô tục. Cô sẽ ngồi cùng Britta để làm công việc may vá, và gần đây Britta thường nhìn cô với cặp mắt sắc lẻm, có ý hạch hỏi. Cô không thể nào biết được, nhưng có lẽ cô đã để lộ ra dáng vẻ gì đó. Cô cố nghĩ về đứa con trai đau yếu, nhưng hình như không tạo hiệu quả. Thay vào đó, cô tưởng tượng mình đang nhấc lên tấm chăn và nhìn xuống thân thể trần trụi của anh. Cô đã trông thấy rõ làn da màu đồng hấp dẫn, cảm nhận sự mượt mà...

Trời ơi! Espen đã làm vẩn đục cả tâm tư cô. Có lẽ cô nên lẻn vào nhà thờ trong ít phút mà cầu nguyện; cố nghĩ ra chuyện gì đó khiến cho cô phải tủi thẹn.

 

[24] Việt quất: loại cây bụi thường mọc dại nhưng cũng được trồng nhiều nơi, có quả tròn, nhỏ, vị ngọt màu đen hay xanh lam.

[25] Êtes-vous Français?: Pháp văn trong nguyên bản, có nghĩa. “Anh có phải là người Pháp không?”

[26] Đã biết tên anh: người thuật sự là Francis, có tên theo tiếng Pháp là “Français” thì ngỡ người đàn ông nói đến tên mình.

[27] Enk-lish: cách viết trong sách nguyên bản để diễn tả cách phát âm sai của nhân vật; đúng ra là “English” (người Anh).

[28] Lazarus: tên nhân vật trong Kinh Thánh, sau khi chết được Jesus cứu cho sống lại. Do điển tích này, từ “Lazarus” chỉ việc hồi sinh sau cái chết.

[29] Mộng đuôi én: đường ghép giữa hai thanh gỗ, một thanh được cắt lõm vào từng đoạn có hình đuôi con chim én, thanh kia được cắt lõm tương tự nhưng có hình dạng nhô ra thụt vào đối nghịch, để khi lắp ghép vào thì đoạn thụt vào thanh gỗ này ăn khớp với đoạn nhô ra thanh gỗ kia.

[30] St. Lawrance: tên theo Pháp văn là Saint-Laurent, sông dài 1.300 kilômét ở miền đông-bắc Canada, từ Hồ Ontario chảy ra Đại Tây Dương.

[31] Nhà máy: theo nghĩa thông thường của từ trong nguyên bản là “Factory”, vì thế mà nghe kỳ quặc. Thật ra, từ “factory” ở đây có nghĩa đặc biệt là thương điếm, liên quan đến từ “factor” có nghĩa quản trị viên, tức người đại diện của Công ty Vịnh Hudson để phụ trách việc thu mua lông thú.

[32] Donnie: tên gọi thân mật trong gia đình của Donald.