Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 8

Trời đang lạnh giá: ngày lạnh nhất trong năm ngày họ đang đi theo dấu mòn. Một trận gió thổi xuống từ vùng Cực Bắc quất mưa đá vào mặt họ. Đôi mắt Donald cay sè, nước mắt đông cứng trên đôi má anh, khiến cho làn da nứt nẻ và thô ráp. Nước từ đâu đó cũng đông lại trên bộ ria anh, nên anh kéo chiếc túi che mặt bao quanh phần dưới khuôn mặt, cho đến lúc nó đông cứng vì độ ẩm trong hơi thở anh, và anh phải tháo nó ra trong đau rát để tránh ngộp thở. Anh cảm thấy lạnh cóng và đuối hơi tuy rằng Jacob mang phần lớn vật dụng, vì Donald không thể theo kịp nếu chia sẻ mang phân nửa.

Sau ngày thứ hai, Donald thấy mỗi cử động đều gây đau nhức ở đâu đó trên thân người mình. Trước đây, anh vẫn thường nghĩ mình là một chàng trai trẻ khỏe mạnh, nhưng bây giờ thấy rằng mình đang bắt đầu hiểu ra sự chịu đựng là như thế nào. Jacob lầm lũi đi trước, vai mang trọng lượng nặng, theo những lối tắt để thăm dò dấu mòn. Đến chiều tà, hai người dừng lại, Jacob thu nhặt cành khô rồi đốt một đống lửa, lại đi chặt cành cây làm chỗ trú ẩn cho hai người. Lúc đầu, Donald tỏ ý muốn tự làm lấy phần mình, nhưng rồi anh quá mệt và vụng về nên không giúp gì được; nếu để cho Jacob làm mọi việc thì có thể dựng lên chỗ trú ẩn nhanh hơn. Một cách hiền từ nhưng cương quyết, Jacob bảo anh ngồi xuống mà lo đun ít nước.

Sáng sớm ngày này, họ rời khỏi vùng rừng cây, bắt đầu đi qua một cao nguyên trơ trụi có nhiều gò đống, nơi mà dường như không có gì che chắn cho họ chống lại ngọn gió từ Vịnh Hudson đã đóng băng. Mặc cho quần áo dày cộm, ngọn gió vẫn len lỏi vào những vùng da mềm với những cú quất rát buốt. Họ nhanh chóng nhận ra rằng cao nguyên này là một bãi lầy mênh mông. Những vũng nước màu đen rỉ lên từ lớp đất bên dưới, đóng băng trên bề mặt. Lau sậy và liễu đón nhận những bông tuyết thổi đến rồi giữ lại thành cuộn. Khó mà tìm được một khoảnh đất cứng để có vài bước liên tiếp vững chắc. Jacob không còn cố giữ cho chân mình được khô, mà đành phải theo những bước đều đặn lên gò này xuống vũng khác. Dù cho đã quyết chí theo kịp, ba lần Donald đã phải kêu Jacob chậm chân lại, và bây giờ Jacob thường dừng bước để chờ anh. Jacob cố ra vẻ như không phải anh yếu đuối, mà dừng lại để nói cho anh biết về tình hình của dấu mòn. Rõ ràng là Jacob thấy khó khăn hơn mà dõi theo dấu mòn trên địa hình như thế này, nhưng anh càng không màng. Hôm qua anh thấy khó mà quan tâm đến việc họ sẽ tìm được Francis hay không; hôm nay anh chợt nghĩ ra rằng thậm chí mình có thể không trở về được từ chuyến đi này. Anh không chắc mình có màng đến một trong hai việc hay không.

Hai người càng đi qua thêm nhiều xác chết thú rừng. Bây giờ họ đi qua bộ xương của một con nai hẳn đã nằm ở đây từ lâu vì thịt đã được rỉa hết, chỉ còn lại màu nâu vàng. Cái đầu lâu con thú hướng về phía họ, chung quanh là những khúc xương khác vương vãi, nhìn Donald qua lõm mắt, thầm nhắc anh về nỗ lực vô vọng.

Donald cố chuyển tâm tư của mình hướng đến Susannah, để đóng sập cánh cửa giữa thể chất đang chịu đựng và tinh thần đang cảm nhận. Thay vào đó, anh thất vọng mà nghe văng vẳng tiếng của người cha rao giảng cho anh: “Hãy chú tâm vào sự việc, Donnie[32]. Hãy chú tâm vào sự việc. Tự vực mình lên! Ta phải làm những việc ta không muốn làm.” Anh cảm nhận lại nỗi bực tức ngày xưa dâng trào lên bề mặt như khí đầm lầy. Cha anh - một kế toán viên ở Bearsden - không bao giờ phải đi qua một đầm lầy vô tận trong mùa đông Canada.

Được nhét bên trong lớp áo, gần quả tim anh, là ba lá thư anh đã viết cho Susannah. Anh thất vọng vì ngôn từ mình thiếu hùng biện, nhưng tự an ủi là khó mà viết cho dí dỏm trong khi cố ngồi sát vào đống lửa để nhìn cho rõ mà không cháy tóc. Anh e sợ các trang thư bị ố nhòe và bám bùn đất, lại còn có lẽ hôi mùi khói, nếu không tệ hại hơn. Có lẽ, nếu họ gặp khu dân cư, anh có thể chép lại trên giấy sạch sẽ, hoặc thậm chí viết lại từ đầu theo văn phong cải thiện. Như thế có lẽ là hay nhất.

Lúc bốn giờ chiều, Jacob tỏ ra hoang mang. Anh bảo Donald ngồi chờ trong khi anh thăm dò theo một vòng tròn rộng, rồi ra dấu cho Donald đi theo mình. Trong một thời gian, họ đi lần theo những dấu chân. Donald thầm rủa cái công việc vô giá trị, nhưng vì quá mệt nên không hỏi han gì. Một màn tuyết mỏng đang rơi xuống, và tầm nhìn xa bị hạn chế. Không khí vừa ẩm ướt vừa sắc buốt. Jacob thở ra những hơi dài, thói quen mỗi khi anh suy tư cật lực.

“Tôi nghĩ ở đây họ đi theo những đường khác nhau.”

Donald xem xét mặt đất nhưng không thấy cái gì chỉ ra rằng đã có người đi qua đây.

“Họ rời khỏi vùng rừng cây cùng một lúc. Cho đến điểm đó thì dấu vết rất rõ, nhưng tôi nghĩ người thứ hai đi chậm lại. Bây giờ một người đi theo đường kia, bởi vì có một dấu chân đóng băng trong bùn chỉ về hướng đó. Nhưng ở khoảng cách xa và khó mà theo dấu chân trong đầm lầy. Tôi nghĩ người thứ hai mất dấu, đi theo đường này…” Anh chỉ đến chỗ mặt đất dốc lõm xuống thành một dấu cạn: “Đây là dấu vết cho thấy chân ai đó bị lún, rồi tiếp tục đi. Đáng lẽ tôi đã nhận ra từ trước.”

Donald thầm công nhận là đúng. “Anh nghĩ Francis là dấu mòn thứ hai hả?”

“Dấu mòn thứ nhất là một người đi nhanh, đã quen với việc đi đường dài. Anh ta biết phải đi đâu mà không cần phải dừng lại để định hướng. À vâng, dấu mòn thứ hai là một thanh niên, và anh ta đã mệt.”

“Nhưng họ muốn đến cái chỗ chết tiệt nào vậy? Tôi có ý nói rừng cây là một chuyện, nhưng ở đây... Trời đất ơi, nhìn xem! Không ai sống ở đây được!”

Theo tầm mắt họ có thể nhìn phóng tới thì không có gì cả, chỉ có mấy lùm bụi và vũng lầy. Địa hình không có sắc thái gì để được gọi là hấp dẫn (Donald nghĩ đúng thế) - không có nét tương phản giữa núi non và thung lũng, không có hồ, không có cây cối. Nếu vùng đất này có đặc tính, thì đó là ảm đạm, vô cảm, thù nghịch.

Jacob nói: “Tôi không biết rõ vùng này, nhưng có những trạm tiền tiêu đâu đó, xa hơn về phía bắc.”

“Trời đất! Tội nghiệp cái bọn đáng thương phải sống ở đó.”

Jacob mỉm cười. Donald đã rơi vào vai trò của một tay mơ và anh là trợ giáo, một tình huống dễ thở. Dễ biết phải nói gì. Dễ biết người kia sẽ phản ứng ra sao. Trong mấy ngày qua, họ đã thiết lập mối quan hệ tương tự.

“Người ta sống ở khắp nơi. Nhưng họ nói đây là Xứ Chết đói.”

Donald thốt lên câu phạm thánh. “Thế thì ta nên tìm ra anh ấy càng sớm càng tốt.” Anh không cần phải nói ra lựa chọn thứ hai.

“Có lẽ người đầu tiên đang đi đến một trong những trạm tiền tiêu phía trên kia.” Jacob chỉ vào ngọn gió đang gầm rít, theo một hướng trông không có vẻ gì là hứa hẹn hơn các hướng khác.

“Còn người thứ hai thì sao?”

“Tôi không biết. Có lẽ đã bị lạc đường.”

Họ lại tiếp tục chuyến đi khổ sở, lần theo những bụi cỏ và tảng đá thình lình nhô lên giữa trảng thực vật đầm lầy. Những tảng đá này có nhiều màu kỳ lạ - xanh lục đậm, hoặc tím, hoặc màu cam u tối. Đôi lúc có một vũng nước đen đá đóng băng cứng rắn, những lúc khác chân họ đạp xuống một mảng băng mỏng rồi ngập trong một vũng tối đen kinh khủng của nước và bùn lạnh buốt. Donald cảm thấy kinh hoàng với ý nghĩ họ sẽ chỉ tìm thấy một thi hài - là khả năng rất dễ xảy ra. Làm thế nào có ai đó sống sót ở đây, lạc đường và cô độc? Anh cố tự nhủ rằng hai người không còn cách xa phía sau cái xác, rồi lại có ý nghĩ khủng khiếp là Jacob có thể bỏ anh lại, mà không có chủ ý, và rồi anh, Donald, sẽ cô độc y như chàng trai trẻ kia. Anh sẽ sống sót được bao lâu? Anh cố bám theo cái bóng đen đi phía trước, nhất quyết không để chuyện đó xảy ra. Lại có hiện tượng sinh lý học trái khoáy là vết thương ở mạn sườn đau nhức trở lại, nhắc cho anh nhớ về thể chất mỏng manh của mình - hoặc có phải nó nhắc cho anh rằng Jacob, bây giờ là người bảo vệ mạng sống của anh, mới gần đây đã cầm dao đâm anh?

Cuối cùng, hai người đi đến một dòng sông nhỏ chảy ngoằn ngoèo vô hình qua vùng đất. Đen như dầu thô giữa hai bờ băng giá.

Jacob dừng anh lại, chỉ đến một vũng bùn hỗn độn đã đóng băng thành những chỏm và khe: “Có những người ở đây. Và một con ngựa. Tôi có thể nói anh ta nhập đoàn với họ.”

Jacob mỉm cười, và Donald cố tỏ vẻ vui lòng. Nhưng chủ yếu anh thấy mình không đi tiếp được nữa. Anh mang trong lòng nỗi căm ghét đối với địa hình mà trước đây anh chưa từng thấy. Con người không có mục đích gì để đi đến đây. Ý nghĩ về một người cưỡi ngựa nhặt được anh trai trẻ càng thêm khủng khiếp - có Trời biết được bây giờ hai người mình phải đi bộ bao xa. Anh không hiểu được tại sao Jacob không chịu đi ngựa; anh lại nghĩ đến khả năng là toàn thể vụ việc chỉ là để làm nốt cái thủ đoạn mà con dao kia làm chưa đến nơi đến chốn.

Jacob dẫn đường đi xa khỏi con sông, và Donald lê lếch đi theo, đôi mắt vẫn dán lên mặt đất xảo trá, chết lặng dưới bước chân của họ.

Thình lình Jacob dừng bước và Donald bước ngay đến sau lưng anh ta, cảm giác anh mờ mịt về quanh cảnh chung quanh. Jacob nắm lấy cánh tay anh, và cười vào mặt anh: “Anh Moody, nhìn kìa! Nhìn!”

Anh ta đang chỉ xuống mặt tuyết và bóng tối nhá nhem đang âm thầm bao phủ quanh họ. Và trong khoảng màu xám xoáy lốc, anh nhìn ra những điểm ánh sáng. Anh cười nhăn nhở, và cảm thấy bầu máu nóng dâng lên đến cằm - đôi môi anh đã nứt nẻ. Nhưng không có gì dập tắt được niềm vui. Sẽ có những ngôi nhà, cư dân, sự ấm cúng... sẽ có ngọn lửa, và thậm chí tốt hơn nữa, những bức tường! Những bức tường ngăn cách giữa anh và thời tiết. Trong một khoảnh khắc sướng thỏa, anh sống lại nỗi kích động lúc trước khi nhìn thấy vầng trăng, anh cảm nhận lại niềm vui vô bờ của một đứa con trai mười bốn tuổi, và anh kinh qua niềm hạnh phúc thuần khiết mà có vẻ như tất cả mệt nhọc trong mấy ngày qua, tất cả thiếu thốn trong năm rưỡi qua, đều rất đáng giá. Anh lập cập vỗ vai Jacob, tin chắc rằng anh chàng này là người giỏi nhất, người cao quý nhất mà mình từng gặp trong đời.

Bốn mươi phút sau, họ đi vào một khoảnh sân rộng, bao quanh là những ngôi nhà tề chỉnh bằng gỗ. Có những chuồng gia súc được quây rào kín, bên trong bốc hơi nước; một ngôi nhà thờ với ngọn tháp, trên cùng là cây thánh giá sơn màu đỏ nhòe. Ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ soi rọi khoảnh sân băng giá, trông như xứ thần tiên. Donald kiềm chế những giọt lệ biết ơn khi hai người đi đến tòa nhà lớn nhất, và gõ trên cánh cửa.

༺༒༻

Lúc còn là đứa con gái nhỏ cũng như lúc ở trong bệnh viện tâm thần, tôi thường nghĩ rằng khi kết hôn thì người ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Có lúc tôi hồ nghi liệu mình còn hết cô đơn hay không; tôi đoán số phận mình là kẻ bên lề xã hội, hoặc tệ hại hơn, là gái già không chồng. Tôi có bạn bè trong bệnh viện tâm thần, ngay cả bác sĩ Watson cũng là một người bạn đặc biệt; nhưng làm bệnh nhân của một bác sĩ chữa bệnh điên không giúp cho tôi cảm nhận mình sống trong một thế giới bình thường, hoặc được an toàn. Chồng tôi đã mang lại cho tôi điều mà tôi không hề mong đợi trước đấy: cảm nhận về tính cách hợp pháp. Và cảm nhận rằng ở đây, có một người mà tôi có thể bộc bạch tất cả. Tôi không cần phải giả vờ. Tôi nghĩ điều tôi đang nói là, tôi đã yêu anh ấy. Tôi biết anh ấy đã yêu tôi, tôi chỉ không biết khi nào điều này không còn là sự thật.

Đêm đã khuya; tôi lại mất ngủ vì nghĩ ngợi về cuộc gặp gỡ kế tiếp với người bị giam giữ; Knox đã đồng ý cho tôi quay lại, miễn là tôi phải rất kín đáo. Tôi nghĩ ông cảm thấy xúc phạm vì tôi đã lợi dụng thảm kịch của vợ ông mà chống lại ông, và tôi phải thầm cảm ơn ông đã đồng ý. Ông e sợ người nhân viên của Công ty. Ông cũng sợ rằng mình suy nghĩ quá yếu mềm. Tôi nằm kề bên chồng tôi, và Angus trong giấc ngủ quay người ôm lấy tôi, là hành động mà anh không hề thể hiện trong một thời gian dài. Tôi không dám nhúc nhích, tự hỏi anh biết - hoặc mơ thấy - anh đang làm gì hay không. Sau một lúc, anh khụt khịt rồi quay người đi, lại đưa lưng về phía tôi. Và tôi chưa từng cảm thấy cô đơn đến thế, ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối nhất ở bệnh viện tâm thần sau khi cha tôi qua đời. Nếu Olivia còn sống, liệu mọi việc sẽ khác biệt không? Nếu Francis không bao giờ đến với hai vợ chồng tôi?

Mấy câu hỏi không đâu vào đâu. Cách thức tôi thích hỏi.

Tôi ghét tính yếu mềm trong con người mình - cách độc thoại không có điểm dừng thay cho hành động, và nhiều lúc (thường là trong đêm khuya) tôi ước gì mình giống như Ann Pretty. Chị có thể không may mà mang họ Pretty, nhưng đôi lúc tôi nghĩ chị là mẫu người hoàn chỉnh của nhà tiên phong trong vùng hoang dã, cá thể có xương sống giỏi sinh tồn, mạnh mẽ, không giàu tưởng tượng, không tẩn mẩn. Chị sẽ không phải thức trong đêm mà thắc mắc chồng mình - hoặc bất kỳ ai khác - nghĩ về mình ra sao. Chị sẽ không mất đứa con mình trong vùng hoang dã.

Tôi bước ra khỏi giường, và rồi để kiếm việc nào đó mà làm, tôi bắt đầu chuẩn bị một cái túi cho cuộc hành trình mà tôi đang trù định. Thật sự mà nói, tôi không thiết tha lắm với việc này; tôi sẽ phải đối diện với cơn sợ hãi vùng hoang dã, tôi thiếu can đảm. Ai biết được, có lẽ Moody và anh kia sẽ về đây cùng với Francis. Tôi không màng nếu họ bắt giữ nó, miễn là họ tìm được nó và nó bình an. Rồi có lẽ chính nó sẽ bị giam trong kho chứa hàng ở Caulfield, run rẩy trong khoảng không gian trống trải như hang động mờ mịt, nhưng được an toàn. Tự nhủ lòng mình như thế, tôi thu nhặt những bộ quần áo dày nhất và thực phẩm trữ được lâu. Đấy có phần giống như chuẩn bị đi picnic; nếu tôi nghĩ như thế thì sự việc xem dường không tồi tệ lắm.

Tiếng gõ cửa khe khẽ không làm cho tôi ngạc nhiên lắm: tôi đang nghĩ về Francis, thế nên có lẽ chuyện phải đến là niềm khát khao của tôi đã được đáp ứng. Tôi nắm chặt cánh cửa trong nỗi vui mừng để chuẩn bị kéo cánh cửa mở rộng, tập trung ngôn từ để thốt ra với con tôi, cùng với những dòng lệ, trong màn đêm vẫn còn bao trùm. Tôi nhìn quanh, thì thầm tên của nó - điều kỳ lạ là tôi thì thầm, như thể tôi có linh cảm.

Một người đang đứng trong bóng tối - tôi đoán để làm nhẹ cơn sốc, hầu đôi mắt tôi phải tìm kiếm nó, và chỉ dần dần tôi mới nhận ra người ấy là ai.

Người bị giam giữ giơ bàn tay lên trong cử chỉ làm nguôi giận: “Xin bà đừng la lớn.”

Tôi trân trối nhìn. Tôi sẽ không la lớn. Tôi lấy làm hãnh diện không phải vì la lớn, ngay cả trong hoàn cảnh gay go.

“Tôi xin lỗi đã làm bà giật mình. Knox đã trả tự do cho tôi. Tôi định đì tìm con trai bà, bởi vì tôi nghĩ anh ấy trông thấy kẻ sát nhân. Nhưng tôi cần đồ tiếp tế, và khẩu súng của tôi bị tịch thu. Và tôi tin bà đang giữ các con chó của tôi.”

Tôi chăm chăm nhìn ông mà thấy khó tin, không hiểu lắm ông nói gì.

“Bà Ross ạ, tôi cần bà giúp, và bà cần tôi giúp.”

Thế là, sự việc diễn ra như sau: hai người cần nhau thì hợp tác với nhau; không liên quan gì đến sự tin cậy hoặc lòng tử tế hoặc ý niệm tình cảm. Tôi hiểu rõ việc ông nói về Knox và tại sao ông ấy trả tự do cho ông theo cách lén lút như thế, nhưng xem qua khuôn mặt bị thương tích của ông tôi có thể tin rằng Mackinley đã gây ra việc này. Parker cần khẩu súng và thực phẩm và các con chó, còn tôi cần người hướng đạo để theo dấu Francis, và có thể ông nghĩ Francis sẽ ăn nói cởi mở hơn nếu có tôi ở đấy - Francis cũng cần một thứ. Thế là trong khi chồng tôi đang ngủ say trên lầu, chúng tôi sắp xếp hành trang, riêng tôi chuẩn bị đi ra vùng hoang dã với một nghi phạm trong vụ án mạng. Điều tệ hại hơn nữa là đi với một người mà tôi chưa được giới thiệu đàng hoàng. Tôi quá sốc nên không cảm thấy sợ hãi, quá kích xúc nên không màng về hành động không phải phép này. Tôi đoán nếu bạn đã mất đi cái gì quý giá nhất, thì tiếng tăm và danh dự chỉ là chuyện tầm phào. (Hơn nữa, trong tình huống tồi tệ nhất, tôi có thể tự nhắc nhở rằng có lúc tôi đã bán danh dự của mình còn rẻ hơn thế này. Tôi có thể tự nhắc nhở như thế khi cần.)

Một màn tuyết mỏng rơi xuống từ phía Sông Dove, hai con chó âm thầm chạy bên cạnh Parker. Một tiếng đồng hồ sau khi qua khỏi ngôi nhà của Pretty, ông đi đến một chỗ cất giấu giữa các đám rễ cây và nhanh chóng làm một chiếc xe trượt tuyết từ những vật liệu ông tìm được ở đây - một loại cỗ xe nhẹ, mảnh mai bằng gỗ liễu với một vị trí trông giống như một kiểu chỗ ngồi được lót bằng da thuộc. Tôi suýt cảm ơn ông về tính chu đáo này thì ông đã chất thực phẩm và chăn mền lên chỗ ngồi đó. Hai con chó bị kích động vì tuyết và xe trượt, sủa lên vài tiếng. Suốt việc này, kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ, Parker không nhìn đến tôi hoặc nói một lời. Tôi không nghĩ ông màng đến việc tách tôi ra khỏi danh dự của tôi. Ông giật giây cương rồi tiếp tục lên đường, tiến về phía bắc, dọc Sông Dove, chỉ được hướng dẫn bởi âm thanh của dòng nước, và một ánh lờ mờ, vô định hình, dường như xuất phát từ tuyết.

Tôi đi theo ông, hay va vấp vì loại giày da đanh mà tôi không quen thuộc nhưng ông cứ bắt buộc tôi mang. Tôi nhất quyết sẽ không phàn nàn, cho dù sự thể sẽ ra sao.

༺༒༻

Tuy hiếm hoi, nhưng vẫn có người từ phương xa đi đến Himmelvanger; thường là người Da Đỏ đến trao đổi hàng hóa và tin tức. Per yêu cầu tiếp đãi tất cả, vì họ là láng giềng, và người ta phải sống hòa thuận với láng giềng. Và họ cũng là con cái của Thượng đế, cho dù sống trong cảnh tồi tàn và dốt nát. Đôi lúc họ tìm đến khi người thân của họ bị bệnh và thuốc men của họ không có hiệu quả. Họ đến với vẻ mặt u sầu và tinh thần nặng trĩu, chăm chú nhìn khi người đàn ông Na Uy phân phát ít liều laudanum hoặc ipecac hoặc camphor, hoặc chính dược phẩm cổ truyền của Na Uy vốn cũng thường thiếu công hiệu. Mỗi lần như thế, Per hy vọng sẽ không giống như những lần khác.

Người da trắng chìa ra một bàn tay đã cóng lạnh. Băng giá đóng quanh rìa tròng kính của anh, làm cho khuôn mặt anh trông lạ lùng, như một con chim cú.

“Xin lỗi đã xâm phạm. Chúng tôi là nhân viên Công ty Vịnh Hudson, và chúng tôi có công việc ở đây.”

Per càng thêm kinh ngạc, tự hỏi Công ty có thể cần cái quái gì nơi mình. “Xin mời vào. Các ông hẳn đã cóng lạnh. Bàn tay ông...” Bàn tay mà ông bắt lấy đã thâm tím vì thời tiết buốt giá, không còn sức lực, như một miếng thịt đông lạnh.

Per bước lùi lại, nhường chỗ cho họ đi vào nơi trú ẩn ấm áp: “Các ông có gia súc không?”

“Không. Chúng tôi đi bộ.”

Per nhíu mày, dẫn họ vào một phòng nhỏ gần gian bếp, rồi gọi Sigi và Hilde đến; hai người này cố xoay xở để mang đến món thịt hầm và bánh mỳ và cà phê cho hai người.

Sigi tròn xoe đôi mắt vì hiếu kỳ đối với hai người khách lạ: “Trời đất, Per ơi, Thượng đế đưa đến chúng ta mọi loại khách trong mùa đông này.”

Per đáp lời có phần gay gắt - ông không thích người ta buôn chuyện và loan truyền lời đồn đại, trong khi ông chưa hiểu được chuyện gì. May mắn là hai người khách không hiểu tiếng Na Uy. Họ mỉm cười một cách ngốc nghếch vì đói khát và mỏi mệt, xoa hai bàn tay rồi sa xuống thức ăn với cử chỉ nồng nhiệt biết ơn.

Khi hơi ấm bắt đầu lan đến hai bàn tay, Donald có cảm giác đau và ngứa, và dưới ánh đèn hai bàn tay trông bầm tím. Một phụ nữ mang đến một thau đựng tuyết và bắt anh chà xát hai bàn tay trong đó, rồi dần dần hai bàn tay lấy lại cuộc sống đau đớn. Người phụ nữ mỉm cười với anh khi chăm sóc anh, nhưng không nói năng gì - Per giải thích rằng họ là người Na Uy, và không phải ai cũng nói được tiếng Anh.

“Thế thì hai nhân viên Công ty đang làm gì ở đây trong tháng Mười một này?”

“Thật ra, đây không hẳn là công việc của Công ty.” Donald thấy khó mà kiềm hãm nụ cười của mình - anh vẫn không tin vào vận may của mình khi không những tìm được nơi cư trú, mà còn tìm được chốn văn minh và một con người văn minh như Per Olson để nói chuyện.

“Hai anh đang trên đường đi đâu phải không?”

Giọng nói của ông ám chỉ việc này là không thể được. Donald cố gắng không mở miệng nói khi miệng đầy bánh hạnh nhân. (Hạnh nhân! Họ thật sự được may mắn ở đây.)

“Chúng tôi đang trên đường đi tìm một người. Chúng tôi đã đi theo dấu chân của người này từ Sông Dove ở vùng Vịnh, lên đến con sông cắt ngang cao nguyên, và rồi dấu chân dẫn đến đây.” Anh nhìn qua Jacob để được xác nhận, nhưng có vẻ như Jacob ngượng ngập với sự hiện diện của những người khác, nên chỉ nghiêng đầu.

Per lắng nghe một cách nghiêm túc, và rời khỏi phòng một lúc. Donald đoán ông đi ra để bàn bạc với vài người khác, bởi vì khi ông trở lại, có một người đi theo mà ông giới thiệu là Jens Andreassen.

Per nói: “Jens có đôi điều muốn kể cho hai anh nghe.”

Jens, người bẽn lẽn, cử chỉ chậm chạp với cái lưỡi có vẻ như quá lớn so với miệng, kể lại việc mình đã tìm thấy anh con trai bên bờ sông, gần như chết. Ông đã mang anh con trai đến Himmelvanger, nơi người ta chăm sóc cho anh. Ông nói bằng tiếng Na Uy, và Per chậm rãi thông dịch lại, cố gắng sử dụng đúng từ ngữ.

Donald có thể nhận ra thái độ che chở của Per; Francis là con chiên lạc bầy mà Thượng đế đã dẫn dắt đến cho ông chăm sóc.

“Hai anh nghi ngờ anh ấy về chuyện gì? Chuyện gì đã xảy ra?”

Donald không muốn tiết lộ tất cả tình tiết. Nếu Per muốn che chở cho Francis, anh không muốn đối đầu với Per. “À, có một vụ tấn công nghiêm trọng.”

Per nhìn lên, đôi mắt nhợt nhạt mở to; khi ông thông dịch cho Jens hiểu, cả hai nhìn nhau trong dáng vẻ bị sốc.

“Dĩ nhiên là chúng tôi không chắc Francis phạm tội; nhưng chúng tôi cần tìm ra anh ấy. Mẹ của anh vô cùng lo lắng cho dù có bất cứ chuyện gì.”

Per nhíu mày: “Ai là Francis?”

“Người con trai. Tên anh ấy là Francis Ross.”

Per suy nghĩ một hồi, rồi nói: “Anh con trai này nói tên mình là Laurent.”

Donald và Jacob nhìn nhau. Donald thấy lạnh cả sống lưng vì phát hiện điều chắc chắn.

Per cho ý kiến: “Có thể đây là người khác.”

Donald cất tiếng mà không giấu nỗi kích xúc: “Dấu chân dẫn đến đây. Khó mà nhầm lẫn được. Anh ấy là người Anh với mái tóc đen. Anh ấy không giống người Anh, người... Pháp hoặc Tây Ban Nha thì đúng hơn.” Đấy là mô tả của Maria.

Per cắn đôi môi đỏ trông như con gái: “Nghe có vẻ như là anh ấy.”

“Anh ấy còn nói gì nữa?”

“Chỉ là... là anh ấy đang đi tìm việc làm mới, nhưng người hướng đạo bỏ anh đi lạc. Anh ấy nói đang trên đường đi về hướng tây-bắc với một người Da Đỏ làm hướng đạo.” Đôi mắt của Per khẽ nhấp nháy về phía Jacob.

Per quay sang Jens và giải thích điều này. Jens lại cất tiếng, để trả lời câu hỏi nào đó.

“Jens nói anh ấy nghĩ điều kỳ lạ là tìm thấy anh con trai đó một mình. Anh con trai này không thể... không thể đi đến đây một mình, trong thời tiết như thế này.”

“Tại sao không?”

“Anh con trai đã rất mỏi mệt, rất... kiệt sức. Anh ấy hẳn đã không thể đi xa như vậy trừ khi được giúp đỡ hoặc... bị cưỡng ép.”

Donald nghĩ mặc cảm phạm tội là động lực mạnh.

Per tiếp tục: “Tôi cũng nghĩ đó là điều kỳ lạ. Anh ấy nói mình cần có việc làm để kiếm tiền, nhưng anh ấy lại mang theo nhiều tiền, trên bốn mươi đô la. Anh ấy cũng có vật này, và rất lo lắng muốn giữ nó.”

Per nhặt lấy từ trên sàn nhà một vật mà Donald đã không để ý; một chiếc túi da mà người Da Đỏ mang quanh cổ để đựng thuốc lá và bùi nhùi. Ông mở chiếc túi, xốc ra một cuộn giấy bạc, và một tấm thẻ mỏng bằng xương hoặc ngà, lớn bằng bàn tay, được khắc những hình thù và những dấu hiệu nhỏ. Tấm thẻ rất dơ bẩn. Donal nhìn trân trối tấm thẻ, cổ họng anh co thắt, và đưa bàn tay ra.

“Vật này thuộc về Laurent Jammet.”

“Laurent Jammet?”

“Nạn nhân của vụ tấn công.”

Per chăm chăm nhìn Donald: “Anh nói ‘thuộc về’. À ra thế.”

Khi họ được đưa đến phòng bệnh, Donald lập tức hiểu ra miêu tả của Maria về Francis. Một phụ nữ trẻ, da ngăm đen đứng lên khi cánh cửa mở, nhìn họ với dáng điệu hồ nghi rồi bước ra ngoài, chiếc váy đập sột soạt vào hai ống quần một cách ngổ ngáo. Anh con trai im lặng nhìn khi họ ngồi xuống, rồi Per giới thiệu anh. Tương phản với màu vải giường trắng, làn da anh có màu vàng bủng, trông như người Nam Mỹ. Tóc anh đen và dài; đôi mắt màu xanh lam và sâu. Maria cũng nói anh trông đẹp trai; một đứa trẻ bô trai. Donald không hiểu Francis đẹp trai ở chỗ nào, nhưng không có vẻ gì trẻ con trong thái độ thù địch phát tiết từ con người anh ta. Đôi mắt xanh nhìn chăm chăm không chớp, khiến cho Donald lóng ngóng và ngượng nghịu. Donald rút ra quyển sổ tay rồi chỉnh lại chiếc ghế, và quyển sổ tay rơi xuống sàn nhà. Anh rủa thầm và nhặt nó lên, cố phớt lờ cảm giác nóng bừng trên cổ và mặt. Anh nhìn đến Francis, và bây giờ Francis tránh ánh mắt anh, rồi anh đằng hắng.

Per cố tìm cách trấn an: “Đây là anh Moody, nhân viên Công ty Vịnh Hudson. Anh ấy đi từ Sông Dove. Anh ấy nói cha mẹ anh rất lo lắng cho anh.”

“Chào Francis.”

Francis khẽ gật đầu, như thể Donald không đáng cho anh ta quan tâm.

“Anh có biết tại sao tôi đến đây không?”

Francis chăm chăm nhìn anh.

“Anh là Francis Ross phải không?”

Francis nhìn xuống, và Donald hiểu đó là cách xác nhận. Donald quay sang nhìn Per lúc này đang chăm chăm nhìn anh con trai.

“À... ở Sông Dove, anh có biết một người tên Laurent Jammet không?”

Anh con trai nuốt nước bọt. Donald nhận thấy có vẻ như các bắp cơ hàm của anh ta căng cứng, và rồi anh ta gật đầu, khiến cho Donald ngạc nhiên.

“Lần cuối cùng anh thấy anh ấy là khi nào?”

Một khoảnh khắc im lặng dài, và Donald tự hỏi liệu anh con trai chịu nói ra hay không.

“Tôi thấy anh ấy khi anh đã chết. Tôi thấy người giết anh ấy, nên tôi theo dõi hắn trong bốn ngày, rồi tôi mất dấu.”

Giọng anh con trai đơn điệu và nhỏ nhẹ. Donald chăm chăm nhìn anh ta, cảm thấy vừa kích động vừa khó tin. Anh phải tự nhắc mình cần tiến hành một cách cẩn thận, làm từng bước; phải chờ cho đến khi một bước đã vững trước khi bước tiếp, tương tự khi đi qua vùng đầm lầy như trong địa ngục kia. Anh đặt quyển sổ tay thật vững vàng trên lòng mình.

“Cho tôi biết anh nhìn thấy... chuyện gì, một cách chính xác... và diễn ra khi nào.”

Francis thở dài: “Vào đêm tôi ra đi… Đó là... nhiều ngày trước. Tôi không nhớ.”

Per nhẹ nhàng chen vào: “Anh đã ở đây năm ngày rồi.” Donald nhíu mày với ông. Per nhìn lại anh với thái độ hòa nhã ngầm cho biết mình không có lỗi.

“Thế là… năm ngày trước đó, có lẽ vậy? Tôi đang đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent Jammet. Trời đã tối, và tôi nghĩ anh ấy không có ở đó. Rồi tôi thấy một người đàn ông bước ra và đi khỏi. Tôi đi vào, và thấy anh ấy.”

“Thấy ai?”

“Jammet.”

Anh con trai lại nuốt nước bọt, hiển nhiên với sự khó khăn. Donald chờ một hồi lâu cho anh ta tiếp tục.

“Anh ấy vừa... chết. Thân người còn ấm, máu chưa đặc. Vì thế mà tôi biết người kia là kẻ sát nhân.”

Donald ghi chép lời của Francis. “Người... đàn ông đó, anh quen biết không?”

“Không.”

“Anh có nhìn ra nhân dạng ông ta như thế nào không?”

“Chỉ thấy đó là người bản địa, tóc dài. Tôi thoáng nhìn thấy mặt ông ta, nhưng trời tối quá. Tôi không thấy nhiều.”

Donald ghi chép, và giữ nét mặt trung lập: “Anh có thể nhận ra ông ta nếu gặp lại ông ta không?”

Mất một lúc lâu mới có câu trả lời: “Có lẽ.”

“Quần áo ông ta như thế nào - ông ta mặc gì?”

Francis lắc đầu: “Lúc đó trời đã tối. Quần áo màu sẫm.”

“Ông ta ăn mặc giống tôi không? Hay giống như người đặt bẫy? Anh hẳn phải có cảm tưởng gì đó.”

“Giống như người đặt bẫy.”

“Anh đi đến nhà của Jammet để làm gì?”

“Chúng tôi là bạn với nhau.”

“Lúc đó là mấy giờ?”

“Tôi không biết. Mười một. Có lẽ nửa đêm.”

Donald nhìn lên, cố nhìn vẻ mặt anh con trai và cùng lúc ghi chép lời anh ta. “Khuya như vậy hả?”

Francis nhún vai.

“Anh có thường đến thăm anh ấy vào giờ giấc như vậy không?”

“Anh ấy không đi ngủ sớm. Anh ấy không phải là nông dân.”

“Thế là... anh trông thấy thi hài. Và rồi anh làm gì?”

“Tôi đi theo người kia.”

“Anh có về nhà... lấy đồ đạc không?”

“Không. Tôi lấy vài món của Jammet.”

“Anh không nghĩ đến việc kể cho cha mẹ anh hay sao? Hoặc yêu cầu ai đó giúp, ai đó có năng lực tốt hơn để đối phó với chuyện như thế này?”

“Không có thời giờ. Tôi không muốn mất dấu người kia.”

“Không muốn mất dấu người kia. Thế thì anh lấy theo những món gì?”

“Chỉ mấy thứ tôi cần. Một áo choàng... Thức ăn.”

“Còn gì nữa không?”

“Tại sao? Có hề gì không?” Francis ngước mặt để nhìn Donald: “Anh nghĩ tôi giết anh ấy hay sao?”

Donald nhìn lại, trầm tĩnh nói: “Anh có giết anh ấy không?”

“Tôi vừa nói - Tôi trông thấy kẻ giết người. Anh ấy là bạn tôi. Tại sao tôi lại giết anh ấy?”

“Tôi chỉ cố tìm hiểu chuyện gì đã diễn ra.”

Per khẽ cử động, như tuồng có ý cảnh cáo. Donald không rõ có nên cật vấn chàng trai trẻ thêm, hoặc thẳng thừng kết tội anh ta. Anh đang lần mò trong bóng tối, giống như một bác sĩ phẫu thuật tay mơ, không biết tìm ra đâu là cơ quan chủ yếu của sự thật.

Per nói: “Anh con trai rất mệt mỏi.”

Đúng là anh con trai xem dường mệt mỏi, làn da căng trên bộ xương.

“Chỉ thêm một chốc thôi, xin anh vui lòng. Anh nói là anh đi đến nhà của anh... của anh Jammet lúc nửa đêm, thấy anh ấy đã chết, rồi đi theo người mà anh nghĩ là kẻ sát nhân, nhưng anh mất dấu hắn.”

“Đúng.” Anh con trai nhắm hai mắt lại.

“Mảnh xương đó là cái gì?”

Francis lại mở mắt ra, lần này là do kinh ngạc.

“Anh biết tôi muốn nói gì, phải không?”

“Tôi không biết đó là cái gì.”

“Anh mang nó theo bên mình. Anh hẳn phải có một lý do.”

“Anh ấy cho tôi.”

“Anh ấy cho anh hả? Đó là vật có giá.”

“Anh đã thấy nó chưa? Tôi không nghĩ nó có giá.”

“Còn về khoản tiền thì sao? Anh ấy cũng cho anh, phải không?”

“Không. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ để tìm... người đàn ông. Tôi có thể phải... chi trả cho ai đó.”

“Xin lỗi, tôi không hiểu. Chi trả cho ai đó để làm gì?”

Francis quay mặt đi: “Anh có ý gì?”

Per lại đằng hắng và nhìn qua Donald. Anh xếp lại quyển sổ tay với vẻ miễn cưỡng.

Bên ngoài, Per nắm lấy cánh tay Donald, nói: “Xin lỗi, nhưng tôi phải lo cho sức khỏe của cậu ấy. Khi được Jens mang vào thì cậu ấy gần như chết.”

“Không sao đâu.” Donald không thực sự nghĩ thế, nhưng dù sao chăng nữa anh là khách ở đây. Anh nói tiếp: “Nhưng tôi mong ông hiểu cho là, trong tình huống này, tôi phải đặt anh ta dưới sự quản thúc. Kể cả số tiền của anh ta, và đại loại như vậy.”

Per có thói quen đứng nghiêng về phía bất cứ người nào ông đang tiếp chuyện, mà Donald nhận ra rằng có lẽ do ông thấp người. Đứng kề bên, với đôi mắt nhạt màu và hơi lồi, có vẻ như Per thoang thoảng tỏa ra mùi của dê.

“Đó là quyết định của anh, được thôi.”

“Vâng. Đúng vậy. Thế thì… tôi muốn cử một người canh gác bên ngoài phòng anh ta.”

“Để làm gì? Anh ấy khó mà rời khỏi Himmelvanger, cho dù chân lành lặn, đi đứng được.”

“À, được thôi...” Donald cảm thấy mình xuẩn ngốc, bỗng dưng nhận ra tuyết đang rơi bên ngoài cửa sổ. “Miễn là chúng ta có thể để mắt trông chừng anh ta.”

Với ánh mắt hướng lên trần nhà, Per nói một cách nghiêm trang: “Nơi đây chẳng có gì bí mật cả.”

 

[32] Donnie: tên gọi thân mật trong gia đình của Donald.