Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 5

Khi tôi còn là đứa con gái nhỏ, khi cha mẹ tôi còn sống, tôi thường bị khổ sở bởi những sự kiện mà người ta gọi là “có vấn đề”. Tôi có nỗi sợ hãi đến tê liệt cả người khiến cho tôi không thể cử động được, thậm chí cũng không nói được gì. Tôi có cảm tưởng như đất đang dần trôi đi, và dường như tôi không thể tin cậy nơi mặt đất dưới chân mình - quả là một cảm giác đáng sợ. Các bác sĩ đo nhịp mạch cho tôi và nhìn vào mắt tôi rồi nói với tôi rằng cái chứng gì đó sẽ biến mất khi tôi trưởng thành (tôi nghĩ họ có ý nói đến hôn nhân). Tuy nhiên, trước khi có thể kiểm chứng giả thuyết này, mẹ tôi qua đời trong tình huống mù mờ. Tôi tin rằng bà tự tử, dù cha tôi bảo không phải. Bà đã dùng thuốc laudanum[21] quá liều, dù có chủ đích hay không. Tôi càng thêm khổ sở với các cơn sợ hãi cho đến lúc cha tôi không chịu được nữa mà đưa tôi vào - không cần quanh co về điểm này - bệnh viện tâm thần, dù cho nó có một cái tên lạ lùng chỉ bệnh viện chữa trị người bị suy nhược. Rồi cha tôi cũng qua đời, để lại tôi cho một người giám hộ thiếu tận tâm, thế là tôi được đưa vào một bệnh viện tâm thần công - đấy là tôi trung thực nói ra bản chất đích thực của bệnh viện này.

Trong bệnh viện tâm thần công, laudanum được sử dụng rộng rãi. Ban đầu người ta cấp thứ thuốc này cho các cơn hoảng loạn đến dại người, rồi cuộc sống tôi phải tùy thuộc vào nó, thay cho cha mẹ và bạn bè mình. Thuốc được dùng để trấn áp bệnh nhân gây rối, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng tôi thích được tự mình dùng thuốc, nên tôi dùng mưu mẹo để tìm cách lấy được thuốc. Tôi thấy dễ thuyết phục các nhân viên nam cấp thuốc cho mình, và vị Giám đốc - một anh trai trẻ duy tâm có tên Watson - tôi có thể nắm thóp anh ta. Một khi bạn đã quen làm việc gì thì bạn thường quên tại sao khởi đầu bạn làm việc ấy.

Sau đó, khi chồng tôi nghĩ thói quen của tôi là rào cản cho tình thân quen giữa hai chúng tôi thì tôi không dùng thuốc nữa. Hay nói đúng hơn, anh ném đi phần thuốc laudanum của tôi, khiến cho tôi phải chịu đựng mà không có thuốc. Anh là người duy nhất nghĩ rằng cần phải trải qua sự phiền hà đó. Đấy giống như là tỉnh táo lại sau cơn say xỉn dài, và trong một thời gian tôi cảm thấy tuyệt vời. Nhưng trong cơn tỉnh táo, bạn nhớ lại những gì mà bạn đã quên - chẳng hạn tại sao ban đầu bạn cần đến loại thuốc ấy. Trong những năm về sau, khi gặp chuyện khó khăn, tôi biết rõ tại sao mình đã bị nghiện thuốc, thế nên trong mấy ngày qua tôi đã nghĩ đến laudanum thường xuyên như là tôi nghĩ đến Francis. Tôi biết rằng mình có thể đi đến hiệu thuốc để mua. Tôi nghĩ đến việc này cả ngày lẫn đêm. Lý do duy nhất ngăn cản tôi là vì tôi là chỗ dựa duy nhất trên đời cho Francis. Và cho đến lúc này tôi chẳng giúp gì được cho nó cả.

Năm ngày sau khi Francis rời khỏi nhà, trong khi đang đi bộ dọc theo con đường mòn dẫn đến ngôi nhà gỗ của Jammet, tôi nghe một tiếng động phía trước. Một con chó chạy băng ngang đường tôi đi kêu ăng ẳng; một con chó tôi chưa từng biết, to lớn, lông bờm xờm, có vẻ hoang dại - loại chó kéo xe trượt tuyết. Tôi dừng lại: có ai đấy ở trong ngôi nhà gỗ.

Trên khoảnh đất cao phía sau ngôi nhà, tôi lẻn vào một lùm bụi để ẩn núp. Một con côn trùng cắn vào cổ tay tôi. Cuối cùng, một người đàn ông đi ra khỏi ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Hai con chó chạy đến bên ông, kể cả con chó tôi đã trông thấy trên con đường mòn lúc trước. Tôi nín thở nơi ẩn núp, và khi gương mặt ông quay về phía mình, tôi cảm thấy ớn lạnh cả sống lưng. So với người Da Đỏ thì người này cao lớn, lực lưỡng hơn, mặc áo choàng màu lam có mũ trùm đầu, và quần may bằng da thú. Nhưng chính gương mặt của ông khiến cho tôi nghĩ đến người nhân tạo. Ông có vầng trán thấp và rộng, hai gò má nhô cao, sống mũi và miệng chúc xuống giống như mỏ chim ưng, tạo dáng dấp hoang dã và tàn bạo. Những nếp nhăn hằn sâu dưới làn da màu đồng hai bên miệng. Tóc đen và bù xù. Tôi chưa từng thấy người nào xấu xí đến thế - khuôn mặt như thể được một chiếc rìu cùn tạc từ một thớt gỗ. Nếu Cô Shelley[22] cần có một hình mẫu cho quái vật kinh khiếp thì con người này hẳn sẽ là nguồn cảm ứng hoàn chỉnh.

Tôi chờ đợi, không dám thở mạnh cho đến khi ông ta quay vào ngôi nhà gỗ, rồi tôi rón rén đi ra khỏi chỗ ẩn núp. Trong một chốc, tôi suy tính phải làm gì - đi về tìm Angus và kể cho anh nghe, hoặc phóng đến Caulfield mà báo cho Knox? Hôm nay tôi quyết định không đối diện với người này, bởi vì tôi lập luận rằng hắn là con người nguy hiểm. Dù nghĩ gì chăng nữa, tôi thấy khó mà tin rằng người có bộ mặt như thế lại không có tính chất dữ dằn và tàn bạo. Cuối cùng, tôi trở về và thấy Angus đang ở nhà. Anh im lặng nghe tôi kể, rồi cầm lấy khẩu súng trường đi xuống con đường mòn.

Sau này, tôi biết được rằng anh đã đi đến ngôi nhà gỗ và bước thẳng vào bên trong. Angus gọi ông, và với lời lẽ mà tôi tin chắc là lễ độ nói rằng anh sẽ đưa ông đến Caulfield, vì đây là hiện trường một vụ án mà ông ta không có quyền hiện diện nơi đó. Người đàn ông lưỡng lự nhưng không chống cự. Ông nhấc khẩu súng trường của mình rồi đi trước anh, qua gần năm kilômét để đến Vịnh. Angus dẫn ông đến tận cửa sau nhà Knox. Trong khi cả hai chờ đợi, người đàn ông lạ mặt nhìn ra Vịnh với thái độ kiêu hãnh, xa cách, như thể không màng người ta sẽ đối xử với mình ra sao. Đến khi Angus quay về nhà, người lạ mặt đã bị bắt giữ. Angus lấy làm tội nghiệp cho hai con chó mà Knox không muốn cho vào sân vườn ông, nên anh dẫn chúng về nhà, cho rằng chúng không làm phiền gì cả. Tôi nghĩ hẳn anh có cảm tình với người lạ mặt nên mới chịu khó như thế.

༺༒༻

Andrew Knox ngồi đối diện Mackinley, hút dọc tẩu. Ngọn lửa trong lò sưởi soi rọi một ánh sáng màu cam ấm áp lên khuôn mặt hai người - ngay cả khuôn mặt Mackinley cũng bớt tái đi. Knox không thể chia sẻ niềm thỏa mãn hiển nhiên của Knox. Họ thẩm vấn người lạ mặt trong một tiếng đồng hồ mà không thu lượm được thông tin gì quan trọng ngoại trừ tên ông này là William Parker, người đặt bẫy thú rừng cùng với Jammet trước đây. Ông khai mình không biết Jammet đã chết, mà chỉ đi ngang qua, ghé thăm anh ấy và thấy ngôi nhà gỗ trống trơn, ông đã lục soát ngôi nhà để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Mackinley phá tan bầu im lặng: “Ông bảo kẻ sát nhân không quay lại hiện trường vụ án. Nhưng nếu ông ta muốn có các khẩu súng hoặc đại loại như thế, mà lần đầu tiên không tìm được, thì hẳn ông ta có thể chờ cho đến khi tình hình lắng dịu rồi quay lại để tìm kiếm lần nữa.”

Knox nhìn nhận sự thật này.

“Hoặc có lẽ ông ta đã bỏ quên vật gì đó và quay lại để tìm.”

“Chúng ta đã không tìm thấy món gì lúc trước không có ở đó.”

“Có lẽ chúng ta đã sai sót.”

Hai hàm răng Knox cắn lấy đường rãnh mòn trên cái dọc tẩu; đấy là cảm giác dễ chịu - hàm răng và cán ăn khớp hoàn toàn với nhau sau thời gian dài sử dụng. Mackinley đã quá vội kết án người đặt bẫy thú rừng, muốn giải quyết vấn đề dựa theo sự kiện thay vì ngược lại. Knox muốn vạch ra điểm này nhưng không nỡ xúc phạm niềm tự hào của Mackinley - dù gì đi nữa, Mackinley vẫn là người chủ trì.

“Có khả năng là ông ấy đúng như lời anh nói: chỉ là người đặt bẫy có quen biết với Jammet, và không biết anh kia đã chết.”

“Nhưng ai lại rình mò quanh một ngôi nhà hoang chứ?”

“Đó không phải là hành vi phạm tội - mà cũng không phải bất thường.”

“Hành vi không phạm tội nhưng khả nghi. Chúng ta phải suy diễn theo cách đúng nhất theo những gì ta có.”

“Chúng ta không có gì cả. Tôi không chắc ta có đủ cơ sở để bắt giữ ông ấy hay không.”

Knox khăng khăng cho rằng người đàn ông không phải là tù nhân nên phải được đối xử tử tế. Ông đã sai Adam mang một khay thức ăn đến kho chứa hàng nơi ông ấy bị cầm giữ, và đốt một đống lửa. Ông ghét phải yêu cầu Scott cho một đặc ân khác, nhưng cũng không thể cho phép giam giữ người đàn ông trong một căn phòng, dù là căn phòng được khóa kín, trong cùng ngôi nhà của người vợ và hai con gái. Dù cho người đàn ông đã giải thích, vẫn có nét gì đó trên gương mặt ông khiến tạo ra ý nghĩ đen tối và kinh hoàng. Nó gợi cho ông nhớ đến những gương mặt trong các cuộc chiến tranh với người Da Đỏ: những gương mặt được sơn màu vằn vện, phạm thánh, xa lạ.

Lần thứ hai họ mở khóa cửa kho chứa hàng, giơ cao ngọn đèn bão, để soi rọi người đàn ông ngồi bất động gần đống lửa. Ông không quay mặt lại khi cánh cửa mở ra.

Knox gọi: “Ông Parker ạ, chúng tôi muốn trao đổi với ông thêm.”

Họ ngồi trên những chiếc ghế đã được mang vào từ trước cho mục đích này. Parker không nói gì mà cũng không quay lại để đối diện với họ. Chỉ có hơi thở ông, được ngưng tụ thành lớp hơi nước mờ nhạt trên mặt, cho thấy đó là một người còn sống.

Mackinley hỏi: “Làm thế nào ông mang tên Parker?” Giọng điệu của ông nghe xúc phạm, như thể ông kết tội người đàn ông đã dối trá về tung tích của mình.

“Cha tôi là công dân Anh, Samuel Parker. Ông nội tôi cũng là người Anh.”

“Cha ông có phải là nhân viên Công ty không?”

“Suốt đời ông ấy làm việc cho Công ty.”

“Nhưng ông thì không.”

“Tôi thì không.”

Mackinley đang nghiêng người về phía trước, việc nhắc đến Công ty thu hút ông như là thỏi nam châm. “Ông đã từng làm việc cho họ chứ?”

“Tôi học việc. Bây giờ tôi làm nghề đặt bẫy.”

“Và ông giao dịch với Jammet?”

“Đúng.”

“Bao lâu rồi?”

“Nhiều năm rồi.”

“Tại sao ông rời Công ty?”

“Để không phải mang ơn ai.”

“Ông có biết Laurent Jammet đã là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ không?”

Người đàn ông nhìn Mackinley, có phần thích thú. Knox liếc qua nhìn Mackinley - liệu Mackinley biết chuyện ấy qua người Pháp kia không?

“Tôi không giao dịch với công ty nào; tôi giao dịch với Jammet.”

“Ông có phải là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ không?”

Lần này Parker cười lên khô khan: “Tôi không phải là nhân viên của công ty nào hết. Tôi đặt bẫy rồi bán lông thú, thế thôi.”

“Nhưng hiện giờ ông không có lông thú gì cả.”

“Hiện giờ là mùa thu.”

Knox đặt một bàn tay cảnh báo lên cánh tay của Mackinley, cố giữ giọng thân thiện và đúng lý: “Ông cần hiểu tại sao chúng tôi đưa ra những câu hỏi này - Anh Jammet gặp phải một cái chết tàn bạo. Có thể cần tìm hiểu những gì liên quan đến anh ấy, nhằm đưa hung thủ ra trước công lý.”

“Anh ấy là bạn tôi.”

Knox thở dài. Trước khi ông có thể nói thêm gì khác Mackinley lại hỏi: “Vào ngày và đêm mười bốn tháng Mười một - sáu ngày trước - ông ở đâu?”

“Tôi đã nói với ông rồi. Tôi đang đi từ Nhà Sydney về miền nam.”

“Có ai trông thấy ông không?”

“Tôi đi một mình.”

“Ông rời Nhà Sydney lúc nào?”

Lần đầu tiên người đàn ông ngập ngừng: “Tôi không ở tại Nhà Sydney, mà chỉ đi về hướng đó.”

“Nhưng ông đã nói là ông đang đi từ Nhà Sydney.”

“Tôi nói Nhà Sydney để các ông biết tôi đã ở đâu. Đó là hướng tôi xuất phát. Tôi đi trong rừng.”

“Ông đang làm gì ở đó?”

“Săn thú.”

“Nhưng ông đã nói bây giờ không phải là mùa lông thú.”

“Săn thú lấy thịt.”

Mackinley nhìn qua Knox và nhíu mày: “Đấy là việc bình thường vào mùa này trong năm hay sao?”

Parker nhún vai: “Bình thường vào bất kỳ mùa nào trong năm.”

Knox hắng giọng: “Cám ơn, Ông Parker. À... bây giờ chỉ có thế.” Ông cảm thấy ngượng ngùng về giọng nói của mình, nghe như giọng của một người già, cầu kỳ, cũng giống như đàn bà.

Hai người đứng dậy chuẩn bị ra về, rồi Mackinley quay lại người đàn ông ngồi bên đống lửa. Ông cầm cốc nước của mình từ chiếc khay rồi rót nước dập tắt đống lửa.

“Đưa cho tôi túi thuốc của ông.”

Parker nhìn Mackinley; ông này không chớp mắt. Đôi mắt của Parker mờ đục trong ánh đèn bão. Ông ra vẻ như muốn giết chết Mackinley ngay tại chỗ. Ông tháo chầm chậm chiếc túi từ cổ mình rồi trao cho Mackinley. Mackinley đưa tay đón nhận nhưng Parker không muốn buông tay ra.

“Làm thế nào tôi biết mình sẽ được nhận lại?”

Knox bước đến, nóng lòng muốn giải tỏa không khí căng thẳng: “Ông sẽ được nhận lại. Đích thân tôi sẽ lo việc này.”

Parker buông tay ra. Hai người bước ra ngoài, mang theo ngọn đèn bão và để cho người bị cầm giữ ở lại trong bóng tối và khí lạnh. Knox hé mắt nhìn lại khi đóng cánh cửa, nhìn thấy - hoặc ông chỉ tưởng tượng ra? - người mang hai dòng máu như là nét tối đen trong khoảng không tối đen.

Khi hai người quay về thị trấn im lìm, Knox hỏi: “Tại sao ông làm vậy?”

“Ông muốn hắn ta phóng lửa đốt chỗ ấy rồi tẩu thoát hay sao? Tôi biết rõ hạng người này. Họ không bứt rứt gì cả. Ông có thấy cách hắn nhìn tôi không? Như thể hắn muốn lột da đầu tôi ngay lúc đó.”

Ông giơ cao túi thuốc trước cây đèn bão - một chiếc túi nhỏ bằng da, được trang trí đẹp đẽ bằng hoa văn thêu. Bên trong là mọi thứ cần thiết cho người đàn ông sinh tồn - đá lửa, bùi nhùi, thuốc lá sợi, vài mẩu thịt khô. Nếu không có những thứ này trong hoang dã thì ông ta sẽ chết.

Mackinley hồ hởi: “Này, ông thấy thế nào? Ông ta đổi tình tiết để chúng ta không thể kiểm chứng nơi ông ta đã đi qua. Ông ta có thể đã ở Sông Dove tuần trước mà không ai biết được.”

Knox không nghĩ ra được điều gì để trả lời. Ông cũng cảm thấy có nhiều chuyện khả nghi vì Parker đã ngập ngừng - một khoảng hở đã hé lộ trong thái độ tự tin của người đàn ông; nhưng ông không biết phải nói gì.

Cuối cùng, ông nói: “Điều này không phải là bằng chứng.”

“Điều này chỉ lé lộ một phần. Ông thiên về giả thuyết là anh con trai làm việc đó hay sao?”

Knox thở dài, cảm thấy rất mệt mỏi, nhưng chưa đủ mệt nên không muốn về hùa: “Chuyện về Công ty Bắc Mỹ là như thế nào? Tôi chưa từng nghe.”

“Đó không phải là một công ty chính thức, nhưng có thể trở thành chính thức. André bảo tôi là Jammet có liên can. Ông ấy cũng thế. Các nhà buôn Canada gốc Pháp đang bàn bạc việc thành lập một công ty để đối nghịch với chúng ta. Họ được Mỹ hỗ trợ; thậm chí một số người Anh cũng có lợi ích trong chuyện này.”

Nét mặt Mackinley trở nên căng thẳng. Ông là người có tư tưởng trung thành giản đơn; ý nghĩ về người Canada gốc Anh chống lại Công ty khiến cho ông đau xót. Đối với Knox thì chuyện này không đáng ngạc nhiên lắm. Công ty luôn được những người giàu có ở London điều hành, phái các đại diện (mà họ gọi là gia nhân) đi thuộc địa để bòn rút tài nguyên. Đối với những người sinh tại Canada thì đấy là quyền lực từ nước ngoài, lo vơ vét cho đến khi mảnh đất cạn kiệt, chỉ ban phát lại chút cơm thừa cá cặn.

Ông chọn lựa ngôn từ một cách thận trọng: “Thế thì Jammet có thể bị xem là kẻ thù của Công ty Vịnh Hudson phải không?”

“Nếu ông có ý nói một nhân viên Công ty có thể giết anh ấy... thì tôi xin ông tin chắc rằng không bao giờ có chuyện đó.”

“Tôi không có ý nói gì cả. Nhưng nếu đúng như vậy thì chúng ta không thể làm ngơ. Jammet quan hệ mật thiết ra sao với Công ty Bắc Mỹ đó?”

“Ông ta không biết. Chỉ biết trước kia Jammet đề cập chuyện này.”

“Có chắc là André đang ở Sault khi Jammet bị giết?”

“Theo bà chủ nhà thì ông ấy nằm trong một góc bar, không biết trời trăng gì. Ông ấy không thể nào giết Jammet ở Sông Dove cùng lúc đó.”

Knox cảm thấy bứt rứt dồn dập vì những sự kiện diễn ra trong buổi tối. Vì thái độ nhiễu sự và cả quyết của Mackinley, vì sự hiện diện quê kệch và mạnh mẽ của người bị cầm giữ, thậm chí vì anh chàng Jammet bất hạnh và cái chết nhếch nhác của anh này. Cộng đồng non trẻ ở Caulfield vẫn luôn an bình, không có nhà tù và chưa bao giờ cần đến nhà tù. Bây giờ, trong ít ngày qua, ở đâu ông cũng nhìn thấy bạo lực và nỗi chua cay.

Vợ ông vẫn còn thức khi ông đi lên lầu. Ngay cả khi người đàn ông tên Parker đã mất dạng, ông này vẫn còn làm vướng bận tâm trí mọi người. Tên sát nhân có thể đang lảng vảng trong thị trấn, chỉ ngăn cách với họ bởi mấy bức tường bằng ván gỗ mỏng. Người đàn ông ấy có vẻ gì đó khiến cho người ta dễ dàng tin rằng ông có tội. Dĩ nhiên là ông ấy không thể làm gì với dung mạo của mình, và không nên bị phán xét theo bề ngoài. Liệu ông có đang làm thế hay không?

Trong khi thay quần áo, ông nhận xét: “Có người dễ làm cho ta thấy khó ưa.”

“Anh đang nói đến người bị cầm giữ, hay là ông Mackinley?”

Knox cố ghìm giữ nụ cười. Ông nhìn vợ và thấy bà có vẻ mệt mỏi: “Em ổn chứ?”

Ông thích mái tóc bà gợn sóng được thả lỏng, cũng có màu nâu bóng như khi họ cưới nhau. Bà lấy làm hãnh diện với mái tóc mình, mỗi đêm đều dành năm phút để chải cho đến khi tóc gẫy và bám vào chiếc lược.

“Em định hỏi anh cùng câu hỏi ấy.”

“Anh ổn. Anh mong chuyện này chóng xong xuôi. Anh yêu thích Caulfield khi nó an bình và nhàm chán.”

Bà nhích vào trong khi ông nằm lên giường giữa hai tấm chăn: “Anh có nghe tin tức gì khác không?”

Qua giọng bà, ông có thể đoán ra rằng đấy không phải là tin vui. “Tin tức khác à? Tin gì thế?”

Bà thở dài: “Sturrock đang ở đây.”

“Sturrock Người Dò tìm hở? Ở Caulfield?”

“Vâng. Anh Moody đã gặp ông ấy. Có vẻ như ông ấy quen biết Jammet.”

“Trời đất!” Ông không bao giờ thôi ngạc nhiên bởi những gì bà vợ nghe qua từ lời đồn đại. Ông nhỏ nhẹ lặp lại: “Trời đất!” Ông nằm xuống, bao nỗi hồ nghi vẫn đọng đầy trong trí óc. Ai lại nghĩ Jammet có nhiều mối quan hệ vô hình như thế? Một mãnh lực kỳ lạ lan rộng từ ngôi nhà gỗ trống trơn, lôi kéo những người khó tin và khó ưa đến Caulfield để tìm kiếm cái gì không ai biết. Trong mười năm ông chưa gặp lại Thomas Sturrock, kể từ một thời gian ngắn trước khi Charles qua đời. Ông đã cố quên lần gặp gỡ ấy. Bây giờ ông không thể nào nghĩ đến một lý do vô thưởng vô phạt khiến cho Sturrock hiện diện ở đây.

“Anh có nghĩ ông ấy là kẻ giết người không?”

“Ai?” Trong một khoảnh khắc, ông không nhớ bà đang nói đến ai.

“Còn ai nữa! Dĩ nhiên là người bị cầm giữ. Anh có nghĩ ông ấy đã làm điều đó không?”

Knox nói: “Em ngủ đi.” Rồi ông hôn bà.

༺༒༻

Vào ngày trước khi họ ra về, Donald dành thời giờ quý báu để xem qua cửa hàng của Scott nhằm tìm một món quà cho Susannah. Anh định mua cho cô một cây bút mực; tuy nó là món quà chia tay thích hợp, nhưng có thể cô thấy đó là lời nhắc nhở lộ liễu về lời hứa sẽ viết thư cho anh. Không có nhiều thứ để lựa chọn, cuối cùng anh mua một chiếc khăn tay thêu, bỏ qua ngụ ý rằng anh nghĩ cô sẽ khóc khi xa anh - có lẽ cô sẽ không nghĩ đến điều này.

Chiều hôm ấy, Susannah thơ thẩn nhiều tiếng đồng hồ trong phòng đọc sách của gia đình, chờ cho Donald gặp cô do tình cờ, trong khi lật qua một quyển sách. Cô có cơ hội đọc xong cả quyển sách cho đến lúc anh nhận biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng cô không đọc xong; phần lớn các tiểu thuyết trong phòng đều gây nhàm chán, được chọn lựa bởi cha cô khi còn trẻ, hoặc bởi Maria vốn có sở thích lạ kỳ. Donald nghe tiếng ho của cô, và rón rén mở cánh cửa, giữ một tay sau lưng.

“Chúng tôi sẽ ra về ngày mai, trước khi trời sáng, nên chúng tôi không thể từ giã cô lúc đó.”

Cô vội đặt xuống quyển sách về đề tài câu cá và nghiêng người nhìn Donald: “Không có anh thì ở đây sẽ buồn tẻ.”

Donald mỉm cười, quả tim muốn nổi loạn trong lồng ngực: “Tôi mong cô không cho là tôi quá tự tiện, nhưng tôi mua cho cô món này. Tôi muốn tặng cô món gì đó trước khi ra về.”

Anh giơ ra một chiếc hộp nhỏ, được gói trong giấy dầu của cửa hàng và được cột lại bằng ruy băng.

Susannah mỉm cười, tháo chiếc hộp, mở ra chiếc khăn tay: “Ôi, đẹp quá! Anh Moody, anh thật là tử tế.”

“Xin gọi tôi là Donald.”

“Ôi, Donald. Cảm ơn anh nhiều. Tôi sẽ giữ nó luôn bên mình.”

“Tôi thấy không có vinh dự nào lớn hơn.”

Anh suýt nói ra rằng anh ghen tị biết bao với chiếc khăn tay, nhưng anh mất tự tin, có lẽ như thế là điều may. Anh không biết Susannah đã có một chiếc khăn tay giống như thế, mua ở cùng cửa hàng, được một anh trai trẻ tặng năm trước. Nhưng bây giờ Susannah đang ửng hồng đôi má, trông như cô đang rạng rỡ từ bên trong.

“Bây giờ tôi thấy ngượng vì không có gì tặng anh để đáp lại.”

“Tôi không mong được đáp lại gì cả.” Anh suýt dám nói ra rằng mình muốn có một nụ hôn, nhưng lại không đủ can đảm. “Chỉ cần thỉnh thoảng cô biên thư cho tôi, nếu cô không quá bận.”

“À vâng, tôi sẽ viết thư cho anh. Và có lẽ, nếu không quá bận, anh có thể thỉnh thoảng gửi thư cho tôi.”

“Mỗi ngày!” Anh đã nói ra một cách khinh suất.

“Ôi, tôi nghĩ anh sẽ quá bận. Tôi chỉ mong việc này sẽ không... nguy hiểm.”

Những phút còn lại trong phòng đọc sách trôi qua trong không khí mê mẩn ngọt ngào. Donald không biết nói gì thêm, nhưng nhận ra rằng quả bóng đang ở bên phần sân mình, và cuối cùng anh thu hết can đảm để nắm lấy bàn tay cô. Rồi có ai đó đánh lên tiếng kẻng trong tiền sảnh - hiệu báo giờ dùng bữa tối - và cô thu bàn tay về, nếu không thì ai biết được chuyện gì kế tiếp sẽ diễn ra. Chỉ nghĩ đến đó là anh đã cảm thấy quay cuồng.

Chỉ có hai con đường rời khỏi Sông Dove: hướng nam đi về vịnh, hoặc hướng bắc dọc theo con sông qua khu rừng. Jacob chọn con đường mòn vượt quá trang trại Price. Angus Ross đã bảo họ ông thấy những dấu hiệu là Francis đã đi qua Hồ Swallow, và Jacob chỉ dừng lại để xem xét dấu vết xem đó có phải là dấu vết của Francis hay không. Con đường mòn thoáng đãng; họ bước nhanh, đi qua hồ nước sau giữa trưa. Jacob quỳ xuống để xem xét gần hơn.

“Dấu vết đã cũ vài ngày, nhưng có hơn một người đàn ông đi qua đây.”

“Cùng lúc hay sao?”

Jacob nhún vai.

“Có thể là nhà buôn người Pháp đó. Ông ta đi qua đây phải không?”

“Hơn một người đàn ông đi theo hướng này: hai loại dấu chân, kích thước khác nhau.”

Họ đi thêm vài dặm theo dấu chân. Đến một nhánh sông hợp lưu với hồ nước, dấu mòn rẽ về hướng tây và nối tiếp theo đó, qua vùng đất đá không có dấu chân người. Donald bước theo Jacob vì nghĩ anh này biết phải làm gì, rồi nhẹ nhõm khi thấy một khoảnh đất gần dòng nước, nơi các dấu chân ép lá cây và rêu xuống mặt bùn.

“Người này đã đi bộ cả sáu, bảy ngày. Đã mệt mỏi và đói. Tôi nghĩ ta nên đi nhanh hơn. Ta có thể bắt kịp.”

“Nhưng hắn đi đâu? Đường này dẫn đến đâu?”

Jacob không biết. Dấu mòn vẫn nối dài, ngoằn ngoèo qua rừng cây dọc con sông, luôn dốc cao lên, nhưng không có dấu hiệu cho thấy nó dẫn đến đâu ngoại trừ đi vào vùng hoang dã mênh mông.

Họ dừng lại để nghỉ trong khi còn ánh nắng. Jacob chỉ cho Donald cách chặt cành cây để làm chỗ trú. Dù đã sống ở Canada hơn một năm, đây là lần đầu tiên Donald nếm trải cuộc sống bản địa, và anh vui vì bao điều mới lạ. Anh đang xóa đi quá khứ và vỏ bọc mọt sách, cầu kỳ, để cuối cùng trở thành con người của hành động, con người gian truân vùng biên cương, nhà Phiêu lưu đích thực của Công ty. Anh thích thú nghĩ đến lúc kể lại kinh nghiệm của mình cho đám đàn ông ở Pháo đài Edgar.

Sau khi họ dựng chỗ trú rồi đốt đống lửa và Jacob dọn món cháo bắp nấu với thịt, Donald ngồi gập người bên đống lửa, lấy giấy bút ra biên thư cho Susannah. Anh chưa nghĩ đến việc gửi lá thư cho cô bằng cách nào, nhưng đoán có cư dân sống dọc đường để nhờ gửi đi. Anh viết “Susannah thân mến” rồi dừng lại. Liệu anh có nên mô tả dấu mòn hôm nay, khu rừng với tán lá xanh đậm và vàng chói, những tảng đá màu tím nhạt dưới lớp rêu sáng loáng, cách thu xếp chỗ ngủ? Anh bác bỏ các chi tiết này vì e cô sẽ thấy chán ngắt, rồi viết “Quả là điều thú vị nhất...”, rồi không hiểu sao sức nóng của ngọn lửa khiến anh ngã ra bất tỉnh, đến nỗi Jacob phải xốc anh lên cho tỉnh lại và đặt anh ngồi dưới mái lá bulô, nhưng anh lại ngã ra trên các cành cây linh sam. Cơn kiệt sức ập đến người anh như búa bổ, và anh quá mệt nên không thấy vầng trăng đang soi rọi tạo những bóng tối thần tiên trên cành cây kẽ lá. Chắc chắn là anh quá mệt nên không thấy Jacob đang quan sát những tinh thể băng sáng lòa chung quanh, và nhíu mày suy tư.

 

[21] Laudanum: loại thuốc giảm đau được chiết xuất từ á phiện, được dùng nhiều trong thế kỷ 19.

[22] Shelley: Mary Shelley (1797-1851), nhà văn người Anh, tác giả truyện giả tưởng nổi tiếng Frankenstein, là con người được tạo ra bởi những cơ quan lấy từ xác chết của người, vì có hình thù dị dạng nên bị xem là quái vật, bị kinh tởm và ghét bỏ. Bà Ross gọi là “Cô Shelley” vì Shelley viết nên truyện này khi mới 20 tuổi.