Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 4

Ann Pretty ngạc nhiên vì gặp lại tôi nhanh đến thế sau khi đã vay cà phê của tôi, và thái độ của chị trở nên dè dặt, mặc dù tôi đến không phải để đòi lại khoản vay mượn. Ida đang ngồi bên bếp, lầm lì lật qua các trang giấy. Nó ngước nhìn lên, khuôn mặt nhợt nhạt như bị ma ám. Cô bé lên mười lăm tuổi và tôi thấy thú vị nơi nó, có lẽ là vì nó ở tuổi bằng với Olivia lúc trước. Cũng bởi vì nó thiếu hòa hợp với gia đình Pretty, như con quạ trong một đàn gà đang chạy trốn - nó người mảnh khảnh, có nước da ngăm đen, sống theo nội tâm, và theo lời người ta nói thì nó sáng dạ. Cô bé vừa khóc.

Ann nói vang lên tuy đang đứng gần tôi: “Chị Ross! Chị có tin tức gì về con trai không?”

“Angus đã đi tìm nó.”

Bây giờ, ở đây tôi không chắc mình giữ được mãi vẻ bề ngoài bình thản. Nếu Angus không nói chuyện với tôi thì tôi biết trò chuyện cùng ai?

“À, con cái hay làm khổ thế đó.” Chị liếc tia nhìn nghiêm khắc về phía Ida. Cô bé cắm cúi trên tấm vải, đang làm việc thêu may với những đường móc nhỏ sát nhau.

“Chồng tôi không được vui khi ra đi, nên tôi không hỏi anh đi đâu. Và khi trở lại, anh sẽ bối rối vì chuyện Jammet. Dù cho chị có nói gì về anh ấy, anh vẫn là người tốt. Anh tử tế đối với Jammet.”

“Quả là lúc gay go. Có Trời mà biết chúng ta rồi sẽ ra sao.”

Ida buông tiếng thở dài nhẹ. Đầu cô bé nghiêng xuống nên tôi không thấy khuôn mặt, nhưng tôi biết nó lại khóc.

Ann cũng thở dài, giọng sắc lẻm: “Này con kia, tao không biết tại sao mày lại khóc. Mày đâu có quen thân với anh ấy.”

Ida khụt khịt mà không nói gì.

Ann quay sang phía tôi, lắc đầu: “Tôi tội nghiệp cho mẹ của Jammet. Theo tôi được biết, bà ấy không có ai khác. Chị có biết hai tháng trước anh ấy đi Chicago không? Xin hỏi chị, một người như anh ấy đi Chicago để làm gì?”

“Tôi ước gì họ đi Chicago chứ đừng bận tâm về Francis nữa; cứ tiếp tục truy lùng nó mãi là vô lý.”

“À ra thế?”

Ida lại nấc lên một tiếng, và bây giờ bờ vai cô bé rung lên.

“Ida, thôi đi có được không? Đi lên lầu chứ đừng ngồi đó mà sụt sùi. Chúa tôi...”

Ida đứng dậy bước đi mà không nhìn hai chúng tôi.

“Cái đứa con gái đó, nó làm cho tôi điên lên. Chị phải vui vì không có con gái...” Khi vừa nói đến đây, chị nhớ đến Olivia, và tôi tin chị muốn tỏ lời xin lỗi, nhưng rồi loại bỏ ý nghĩ điên rồ này ra khỏi đầu óc. “Nhưng chị đã thử với đứa kia.”

Tôi nhìn nhận rằng đúng.

“Đó là dòng máu trong người phát tiết ra. Chị không làm gì được. Chị không hề biết cha mẹ của nó là ai, đúng không? Ai biết được họ không phải là trộm đạo và dân du thủ du thực? Đó là chất Ireland trong con người của nó. Không tin tưởng họ được. Khi còn ở Kitchener[20], có một đám người Ireland, mình để hở một chút là họ ra tay ăn trộm. Ý tôi không phải nói về Francis của chị, xin chị nhớ cho, nhưng bản chất bọn họ là vậy. Bản chất là vậy, nên chị phải trông chừng.”

Tôi tin chị cố tỏ ra tử tế, cho dù thốt lên lời lẽ xúc phạm; chỉ vì chị không biết phải làm gì khác.

“Ida có chuyện gì thế? Chị không nên quá khắt khe với nó, chị cần nhớ mình ra sao ở tuổi nó.”

Ann khịt mũi: “Tôi không bao giờ ở tuổi đó. Từ lúc lên mười tôi đã trông nom nhà cửa, không có thời giờ rảnh rỗi mà ngồi than thở.” Chị liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt ranh mãnh khôi hài thường theo sau là câu đùa cợt xói vào tôi: “Chị biết tôi nghĩ gì không? Tôi cho là nó yêu Francis của chị. Nó không nói ra, nhưng tôi nghĩ tôi biết.”

Tôi kinh ngạc đến mức gần như phá lên cười: “Ida?” Khó mà tin được; nó chỉ là một đứa con gái gầy trơ xương chứ không là gì khác. Và tôi không bao giờ nghĩ nhà Pretty có nhiều thời giờ mà để ý đến Francis. Có một chuyến đi cắm trại với kết quả thất bại toàn diện mà Angus và Jimmy nài ép hai đứa con trai đi cùng, rồi Francis chịu đi với George và Emlyn. Hai ngày sau, họ trở về và Francis không nói một lời về chuyện này. Sau vụ đó, tôi không còn muốn khuyến khích nó giao du với họ nữa.

“Chúng nó thân nhau ở trường, trước khi thằng bé ra đi.”

“Để tôi nói chuyện với cô bé. Tôi còn nhớ mình ra sao ở tuổi chị. Chị biết không, tôi luôn nghĩ cô bé nhắc cho tôi nhớ lại chính mình khi còn trẻ.” Tôi mỉm cười với Ann, thích thú với ý nghĩ là nếu con gái chị thật sự giống tôi thì đấy là cơn ác mộng tồi tệ nhất của chị.

Tôi dò theo tiếng nức nở để tìm thấy Ida trong phòng ngủ chật hẹp, đang nhìn ra khung cửa sổ. Ít nhất, tôi chắc chắn cô bé đang đăm đăm nhìn ra khung cửa sổ, cho dù cô đang nghiêng người.

“Mẹ cháu nói lúc này cháu thích đi học.”

Ida nhìn lên với đôi mắt đỏ hoe và làn môi cong cớn: “Thích hả? Không đúng.”

“Francis vẫn nói cháu là người sáng dạ.”

“Thật vậy sao?” Trong một chốc, nét mặt cô bé dịu đi. Thế là có lẽ Ann đã nói đúng.

“Nó bảo cháu giống như một học giả. Có lẽ cháu sẽ tiếp tục học được ở trường Coppermine - cháu đã nghĩ đến việc này chưa?”

“Hừm. Không biết Ma-ma và Pa-pa có cho không.”

“À, đã có đủ con trai trông nom nhà cửa rồi, đúng không?”

“Cháu nghĩ vậy.”

Tôi mỉm cười với cô bé, và nó gần như mỉm cười lại. Cô bé có khuôn mặt thon nhỏ, xương xẩu, với những vết nhám dưới hai con mắt. Không ai nghĩ nó đẹp.

“Bà Ross ạ, bà có được đi học nhiều không?”

“Có. Việc đi học là rất đáng giá.”

Gần như thế. Chắc chắn tôi đã học đến nơi đến chốn, nếu trong thời gian ấy tôi không ở trong bệnh viện tâm thần. Bây giờ cô bé nhìn tôi với vẻ ngưỡng mộ, và tôi ước ao mình là con người như trong ý nghĩ của nó. Tôi có thể là người dạy dỗ cho nó - trước đây tôi chưa từng có ý tưởng này, nhưng đấy là một ý tưởng vui vui. Có lẽ đấy là một phần bù đắp khi người ta có tuổi.

“Francis cần tiếp tục đi học. Anh ấy thật sự thông minh.” Má nó ửng đỏ khi không quen nói ra ý kiến cá nhân.

“À, có lẽ đúng. Thời gian gần đây nó không trò chuyện với tôi. Cháu sẽ hiểu ra: khi cháu làm mẹ, con cái cháu không muốn nghe cháu.”

“Cháu sẽ không kết hôn. Không bao giờ.”

Nét mặt cô bé lại thay đổi - trở lại vẻ u tối.

“Lúc trước tôi cũng đã từng nói như thế, cháu biết không? Nhưng sự đời không phải lúc nào cũng diễn ra như cháu nghĩ.”

Vì lý do nào đó, tôi đang mất cô bé. Lệ lại trào lên khóe mắt nó.

“Ida... Tôi không rõ Francis có nói gì với cháu trước khi nó đi không? Về việc nó đi đâu, hoặc đại khái như thế?”

Cô bé lắc đầu. Khi nó ngước mặt lên, tôi kinh ngạc thấy đôi mắt nó lộ nỗi đau khổ. Buồn rầu pha một vẻ gì đấy - tức giận chăng? Vẻ gì đấy đối với Francis.

“Không, anh ấy không nói gì.”

Tôi trở về nhà mà cảm thấy tồi tệ hơn so với lúc ra đi. Tôi thật sự không trông mong Angus sẽ trở về cùng với Francis, nên trong đêm khuya khi anh về một mình, tôi không lấy làm ngạc nhiên. Da dẻ anh nhăn nheo vì mệt nhọc và anh nói chuyện mà không nhìn đến tôi.

“Anh đi đến Hồ Swallow. Thấy dấu vết của ai đó - hơn một người, rõ như ban ngày. Nhưng nó không có ở đấy. Không có ai câu cá ở đó, anh thề mà nói thế. Nhưng vẫn tiếp tục tìm kiếm: Nếu Francis có đi qua đó thì nó đang chạy trốn.”

Tôi nghĩ thầm: Còn anh thì trở về. Anh quay bước về nhà. Tôi muốn đương đầu. Tôi đã quyết định mà mình không muốn suy nghĩ gì nữa.

“Thế thì em sẽ đi tìm nó.”

Anh không cười nhạo như phần lớn các ông chồng khác. Tôi không biết liệu mình thầm mong anh ngăn cản tôi không, ít nhất là tranh cãi và van xin tôi đừng đi, đừng làm việc gì ngu xuẩn và can đảm và nguy hiểm như thế. Dù sao chăng nữa, anh không làm gì cả. Tôi nghĩ về các nhân viên Công ty ở Caulfield - họ sẽ đến đây nhanh, để xem Francis đã về chưa. Nhìn tận bộ mặt ranh mãnh của chúng tôi để xem chúng tôi đang sợ hãi đến đâu. Tôi không còn sức lực nào mà giả vờ. Tôi sẽ nhìn thẳng vào họ và cho họ thấy tôi đang sợ hãi.

Tôi đang sợ đến chết khiếp.

༺༒༻

Gần giữa trưa, Donald và Jacob quay lại Caulfield, và Donald đã kiếm được một chiếc xe cút kít để thu giữ gia sản được cất giấu của Jammet. Cảm thấy ngượng vì ý nghĩ của mình lúc trước, anh phái Jacob đi một mình để mang cái thùng về. Anh thấy nhẹ người vì việc này, và thêm lợi điểm là có thời gian dùng bữa trưa với bà Knox và hai cô con gái. Nhưng họ vừa bắt đầu với món thịt heo khi anh đặt chân đến nhà họ.

Anh bắt đầu một cách tự nhiên: “Tôi đang thắc mắc gặp được Ông Sturrock ở đây hay không khi quay lại. Tôi nghĩ ông ấy đã quen biết chồng bà từ lâu.”

Bà Knox nhìn anh với vẻ bị đánh động: “Ông Sturrock...? Thomas Sturrock...?” Hai cô gái nhanh chóng trao đổi nhau tia nhìn có ý nghĩa.

“À tôi chỉ biết họ chứ không biết tên ông ấy, nhưng... tôi nghe nói ông ấy quen với chồng bà... Xin lỗi... tôi có lắm lời không...?”

Đúng là Bà Knox tái mặt đi, nhưng giọng nói vẫn cố trấn tĩnh: “Không sao, anh Moody à, tôi chỉ ngạc nhiên, thế thôi. Trong một thời gian dài tôi không nghe đến tên ông ấy.”

Donald nhìn xuống đĩa thức ăn của mình, bối rối và ngượng nghịu. Susannah đang chăm chăm nhìn chị cô.

Maria đằng hắng rồi nói: “Anh Moody à, tôi muốn giải thích là chúng tôi có hai chị họ, Amy và Eve, đi chơi trong rừng rồi mất tích hẳn. Bác Charles dẫn vài người cố sức đi tìm, và Ông Sturrock ở trong nhóm này. Ông ấy được biết tiếng là Người Dò tìm - anh biết chứ, là người chuyên đi tìm trẻ con bị dân Da Đỏ bắt cóc. Ông ấy đi tìm một thời gian, nhưng không hề thấy gì.”

Susannah nhanh nhẩu tiếp: “Ông ấy chỉ tiêu hết tiền của bác Charles, khiến cho bác chết trong đau khổ.”

Maria nói với Donald: “Ông ấy lên cơn đột quỵ.”

Bà Knox im lặng quay mặt đi.

Donald kinh ngạc. Từ nét mặt của Susannah, anh hiểu rằng đó là chuyện mà ngày trước cô định kể cho anh nghe, mà không thêm thắt. Và cô đang phiền hà vì bị truất quyền kể chuyện.

Cuối cùng, anh nói: “Tôi lấy làm tiếc. Quả là một chuyện kinh khủng.”

Bà Knox nói: “Đúng vậy. Cả chị tôi và chồng cô ấy đều không hồi phục được. Maria nói ông ấy lên cơn đột quỵ là đúng, nhưng ông ấy chỉ hưởng thọ được năm mươi hai tuổi. Vụ việc khiến cho ông ấy suy sụp.”

Susannah ném ánh mắt trong niềm vui chiến thắng đến cô chị.

Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, âm thanh duy nhất là từ chiếc nĩa của Donald chạm vào đĩa thức ăn, và bất chợt anh cảm thấy mình thô lỗ khi cứ tiếp tục ăn, nên bàn tay cầm chiếc nĩa giơ lửng lơ trên cao. Ngay cả tiếng anh nhai thức ăn nghe ồn ào một cách kinh tởm, nhưng bây giờ khi miệng đang đầy anh không làm gì được.

Bà Knox mỉm nụ cười rắn rỏi: “Tôi mong anh vừa miệng với món thịt heo.” Bà là người nội trợ luôn hãnh diện.

Donald nói nhỏ: “Ngon lắm.” Anh nhận ra là bên tay phải mình, Susannah đã buông nĩa xuống.

Maria nói: “Chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi. Mười bảy hoặc mười tám năm. Nhưng anh chưa nói cho biết Francis Ross đã về nhà chưa? Hay là ngày mai anh sẽ đi ra chốn lùm bụi?”

Donald thấy cảm kích đối với cô: “Vào lúc này, anh ấy chưa về. Cha mẹ anh ấy đang lo lắng.”

“Họ có nghĩ anh ấy mất tích, giống như...” Susannah ngưng lại trước khi nói dứt câu.

“Francis Ross thích đi vào rừng. Anh ấy giống như người bản địa. Hẳn anh ấy biết rõ chốn hoang dã như trong lòng bàn tay.”

“Dù sao chăng nữa, chúng ta sẽ biết rõ vụ việc khi tìm ra anh ấy. Jacob là người theo dõi dấu vết rất giỏi. Trễ một ít ngày thì đối với anh ấy vẫn không sao.”

Bây giờ, sau bữa ăn trưa, Donald ngồi trong phòng đọc sách, xem qua ghi chép của anh từ ngày hôm qua và thêm vào những sự kiện buổi sáng. Anh vừa quyết định đi tìm người mang tên Sturrock thì Susannah bước vào mà không gõ cửa. Anh nhảy dựng lên, và điều khó tin xảy ra là khi vội vã anh đánh đổ chiếc ghế.

“Chết tiệt! Tôi xin lỗi, tôi...”

“Ôi, trời ơi...”

Susannah bước đến giúp anh nhấc lên chiếc ghế, hai người đứng sát nhau, cùng cười to, hai khuôn mặt cách nhau vài phân. Donald bước lùi ra sau, bỗng dưng cảm thấy kinh hãi là cô sẽ cảm nhận tim anh đang đập thình thịch.

Cô nói: “Tôi đến để xin lỗi. Chúng tôi đã không tiếp đãi anh đúng mức. Anh biết không, tôi đã mong chúng tôi sẽ đối xử với anh theo cách khác, khi gặp anh lần sau.”

Vẻ mặt cô trông khá nghiêm túc, nhưng đôi má thoáng ửng đỏ. Donald cảm thấy chấn động với niềm tin kỳ lạ là người con gái đẹp này yêu mến mình, và ý nghĩ này tràn ngập người anh như vừa nhấp một hớp rượu mạnh. Anh mong mình không nhe răng ra cười như một kẻ ngốc nghếch.

“Cô Knox à, cô không có gì phải xin lỗi.”

“Xin anh gọi tôi là Susannah.”

“Susannah.”

Đây là lần đầu tiên anh gọi tên cô khi đối diện với cô, và việc này làm cho anh nở nụ cười. Cảm giác của tên cô trên làn môi, và thấy khuôn mặt cô đang ngước lên anh, khiến cho tim anh cháy bỏng.

“Cô là người tiếp chuyện quyến rũ nhất, và cô giúp làm vui trong... công việc này. Tôi... tôi thấy vui khi đến đây - ý tôi nói là vui vì Mackinley đã chọn tôi đi cùng.”

“Nhưng tôi đoán ngày mai anh sẽ đi, rồi chúng tôi sẽ không gặp lại anh nữa.”

“À... tôi nghĩ Công ty sẽ cần theo dõi các sự việc ở đây... Ai biết được, tôi có thể quay lại sớm hơn là cô nghĩ.”

“À. Tôi hiểu.”

Cô ra vẻ buồn rầu khiến cho anh có đủ can đảm để nói tiếp: “Nhưng, cô biết không, nếu... cô viết thư cho tôi thì thật là tuyệt, và... kể cho tôi nghe về những chuyện ở đây.”

“Ý anh là, giống như một báo cáo?”

“À... đúng, dù rằng tôi cũng muốn biết... cô như thế nào. Tôi muốn viết thư cho cô, nếu cô không phiền.”

“Anh mong viết thư cho tôi hả?” Giọng nói của cô tỏ vẻ ngạc nhiên một cách dễ mến.

“Tôi rất mong.”

Một khoảnh khắc im lặng khi cả hai ngừng thở, nhận biết ra họ đã nói những gì, và rồi Susannah mỉm cười đáp: “Tôi cũng mong.”

Donald vui sướng một cách điên cuồng, cảm thấy người tràn đầy sinh lực mà từ lâu anh đã không nhận ra. Anh thầm cảm kích, rồi, không còn biết mình đang làm gì, chạy ra khỏi nhà, làm điều nghịch lý là muốn được một mình để vui mừng với niềm hạnh phúc trọn vẹn anh vừa tìm được. Anh đi đến cửa hàng của Scott, nghĩ rằng bất cứ chuyện gì diễn ra ở Caulfield thì John Scott hẳn phải biết. Anh đi nhanh qua khung cửa, cố giữ không nở nụ cười ngốc nghếch - dù sao chăng nữa thì một người đã chết - rồi thấy một phụ nữ có vóc người thanh mảnh, khuôn mặt bầu bĩnh, đang đứng sau quầy phục vụ. Bà nhìn lên khi nghe tiếng động ở ngạch cửa, thoạt đầu tỏ vẻ kinh hãi rồi nhanh chóng trấn tĩnh.

John Scott đi vắng, nhưng Bà Scott tỏ ra khá hữu ích. Donald nhận thấy bà có vẻ lơ đãng, và cố giữ tập trung khi cho anh biết rằng Ông Sturrock đang cư ngụ trong nhà bà, và có lẽ lúc này đang ở đấy; bà không chắc.

“Anh cứ tự nhiên đến gặp. Người giúp việc đang ở đó...” Bà Scott bỏ lửng câu nói, như thể vừa nhớ ra điều gì. “Không, để tôi cho người đi báo tin, như vậy hay hơn.”

Bà đi qua cánh cửa sau. Qua khung cửa sổ, Donald nhìn lên đám mây trên bầu trời trông giống những mẩu phó mát, và nhớ lại làn môi dịu mềm của Susannah.

Thomas Sturrock có cung cách khiến cho Donald cảm thấy dễ gần - khi được nghe nói ông là Người Dò tìm, anh đã hình dung một người sống trong hoang dã với cử chỉ thô kệch và có tính khí khó chịu như anh đã từng chịu đựng ở Pháo đài, nhưng rồi anh ngạc nhiên và vui mừng thấy mình gặp một quý ông thanh lịch.

“Xin phép cho tôi được hỏi, làm thế nào ông đi đến việc làm cái nghề này?”

Hai người đang uống thứ cà phê đắng của Scott, ngồi trên hai chiếc ghế mà Bà Scott đặt gần bếp lò.

Sturrock nhìn vào chiếc cốc với vẻ thất vọng rồi mới trả lời: “Tôi đã từng làm qua nhiều việc, và đã từng viết về chủ đề nếp sống của người Da Đỏ, rồi có người biết được và yêu cầu tôi trợ giúp trong vụ một đứa bé bị bắt cóc. Tôi giúp được, thế là những người khác nhờ tôi giúp. Tôi không hề chuẩn bị làm nghề này, nó chỉ tự nhiên mà tới. Bây giờ thì tôi đã quá già với nghề này.”

“Còn món vật mà ông đến tìm, ông có chứng cứ gì bằng văn tự cho biết Jammet muốn giao nó cho ông không?”

“Không. Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy thì anh không dự kiến mình sẽ bị giết.”

“Ông không biết anh ấy có những kẻ thù nào sao?”

“Không. Anh ấy có thể đòi giá cao, nhưng đó không phải là động cơ để giết chết một người.”

“Đúng, không thể nào.”

“Lần đầu tiên anh ấy cho tôi xem mẩu xương, tôi xin phép chép lại chữ khắc ghi trên đó, khiến cho anh ấy biết tôi quan tâm nên anh từ chối, và nói sẽ bán mẩu xương cho tôi.”

“Nhưng lúc ấy ông không mua nó à?”

“Không. Anh thấy đó, tôi không có tiền. Nhưng anh ấy đồng ý giữ nó cho đến khi tôi có thể trả tiền. Bây giờ tôi có tiền, nhưng, dĩ nhiên là...” - ông dang tay trong dáng điệu thất vọng - “tôi không biết nó ở đâu.”

“Tôi sẽ trao đổi với Ông Knox về chuyện này. Chúng tôi chưa tìm ra di chúc. Nếu ông Knox đồng ý, tôi dám nói là ông ấy sẽ bán nó cho ông. Đấy là, giả dụ chúng tôi tìm ra được nó.”

Thình lình Donald nghĩ ra mà thầm hỏi liệu có phải Sturrock đã đi tìm mẩu xương ấy hay không. Anh nhớ lại những dấu chân bên ngoài ngôi nhà gỗ. Ba loại dấu chân. Ba người đã đến ngôi nhà gỗ đêm qua.

“Anh Moody à, anh thật là rộng lượng. Tôi cảm ơn.”

“Vật đó là loại gì? Nó là thứ gì đó từ La Mã hay Ai Cập hở?”

“Tôi không biết chắc đó là cái gì. Có vẻ như không giống cái gì như vậy, vì lý do đó mà tôi muốn mua - tôi định mang nó đến người làm việc ở bảo tàng có kiến thức về những thứ như vậy.”

Donald gật đầu, tuy vẫn không hiểu rõ tại sao Sturrock quan tâm đến món này. Nhưng anh biết chắc một điều là nếu có người quan tâm đặc biệt đến một món vật, thì cần phải cảnh giác tìm hiểu. Liệu có phải Sturrock đã tìm đến và Jammet từ chối bán mẩu xương, nên Sturrock giết anh ấy? Hoặc liệu Sturrock đã bán mẩu xương cho ai khác? Dù là trong tình huống nào thì có vẻ như Sturrock không phải là kẻ sát nhân. Nhưng đúng là ông không tìm ra mẩu xương, vốn rõ ràng là có giá. Thế thì, bây giờ ai đang giữ mẩu xương này?

Donald rời cửa hàng sau khi Sturrock cho biết ông sẽ lưu lại Caulfield trong vài ngày tới. Anh tự hỏi tại sao mình không nhớ ra mà hỏi ông về hai đứa con gái nhà Seton - có lẽ vì anh thấy khó tin là con người có cử chỉ lịch thiệp này lại là người lừa đảo như nhà Knox mô tả. Anh tự hỏi - không phải là lần thứ nhất - có phải vì thiếu kinh nghiệm mà mình có ấn tượng tốt quá nhanh hay không. Anh có nên đặt nghi vấn thêm, giống như Mackinley, vốn phán xét con người dựa trên nguyên tắc, cho rằng chẳng sớm thì muộn họ sẽ làm ông thất vọng - và điều này thường là đúng, hay không?

Trên đường, anh gặp Maria đang mang một chiếc giỏ. Anh nhấc mũ chào, và cô mỉm cười nhẹ. Có vẻ như cô tỏ ra thân thiện hơn hồi sáng, nhưng anh không muốn bắt chuyện với cô nếu cô không lên tiếng trước.

“Chào anh Moody. Cuộc điều tra diễn tiến ra sao?”

“À, tiến triển chậm, cám ơn cô.”

Cô im lặng, như thể chờ cho anh nói tiếp, nên anh nói: “Tôi vừa trao đổi với Ông Sturrock.”

Cô không tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ gật đầu như thể đã đoán trước: “Rồi thì sao?”

“Tôi nghĩ ông ấy là người dễ mến. Có học, nhạy cảm... không giống như những gì tôi hình dung lúc đầu.”

“Tôi nghĩ ông ấy phải có vẻ dễ mến mới lừa đảo hết tiền của bác tôi - số tiền khá lớn, tôi tin là vậy.”

Donald hẳn phải nhíu mày suy nghĩ, bởi vì cô nói tiếp: “Tôi biết bác tôi vì quá tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ việc gì, nhưng người có danh dự đáng lẽ phải nói cho ông ấy hiểu là không có hy vọng tìm ra hai đứa con gái, vì vậy nên từ chối lấy tiền. Đáng lẽ về sau này cần phải tỏ ra tử tế hơn. Chứ cuối cùng, bác tôi vừa mất con cái vừa mất cả tiền bạc cho cuộc sống, và ông ấy... à, tuồng như đã tự hủy hoại đời mình. Đó là sau khi bác gái tôi qua đời. Tôi nghĩ nói ra chuyện này thì nghe kinh khiếp, nhưng... tôi vẫn đoán hai đứa trẻ đã bị chó sói ăn thịt. Những người khác cũng nói thế, và tôi nghĩ họ nói đúng. Nhưng hai ông bà bác của tôi không bao giờ chấp nhận chuyện đó.”

“Làm thế nào họ chấp nhận cho được?”

“Như vậy có tồi tệ hơn nhiều so với điều họ nghĩ hay không?”

“Tôi nghĩ cuộc sống, với bất kỳ giá nào... vẫn tốt hơn là cái chết.”

Maria nhìn anh với đôi mắt dò xét - như một nông dân đang đánh giá một con ngựa. Anh nghĩ cô sẽ không bao giờ tìm được một người chồng nếu đánh giá đàn ông như thế.

“Có lẽ đàn sói mang tới một số phận tồi tệ hơn là cái chết.” Câu nói sáo rỗng phát ra từ cửa miệng cô nghe như lời đùa cợt xấu xa.

“Thực sự chắc cô không nghĩ như vậy.” Anh cảm thấy ngạc nhiên vì mình đã có can đảm đối nghịch với cô.

Maria nhún vai: “Vài năm trước, có hai đứa trẻ chết đuối trong vịnh. Đó là một tai nạn kinh hoàng. Dĩ nhiên là cha mẹ chúng than khóc, nhưng vẫn sống tiếp. Bây giờ họ có vẻ hạnh phúc - cũng hạnh phúc như bất kỳ ai trong chúng ta.”

“Có lẽ vì không biết chắc đã xảy ra chuyện gì nên người ta khó chịu đựng được.”

“Như vậy lại khiến cho kẻ vô liêm sỉ lợi dụng niềm hy vọng, cho đến khi vơ vét hết sạch.”

Donald lại ngạc nhiên về lý lẽ của cô. Anh mơ màng nhớ lại lời của người cha, nói trong giọng điệu giảng giải: “Ý muốn gây sốc là tính trẻ con, rồi sẽ mất đi khi trưởng thành.” Tuy vậy, Maria không có vẻ gì là thiếu trưởng thành. Anh tự nhủ rằng mình không còn cần phải đồng ý với người cha nữa; hai người đã cách xa nhau qua hai lục địa.

Donald nói như chống chế: “Ông Sturrock không có vẻ như người giàu có.”

Maria nhìn qua phía sau Donald xuống con đường, rồi nhìn đến anh với nụ cười. Đôi mắt cô màu xanh, không giống như đôi mắt Susannah. “Chỉ vì anh thích ai đó nhưng không có nghĩa là anh tin tưởng được họ.” Rồi khẽ nghiêng đầu - như cách chế giễu phép lịch sự - cô bước đi xa khỏi anh.

Suốt cả buổi chiều còn lại và buổi tối, Donald xem xét qua mấy món sự sản của Jammet, nhưng cũng như những người trước, anh không thể tìm ra món gì liên quan đến cái chết của Jammet. Tất cả sự sản của Jammet được gom vào một chỗ khô ráo trong nhà kho, Jacob đã giám sát việc tom góp ở ngôi nhà gỗ vì lý do bảo vệ, và anh cùng Jacob xếp lại các món trong các thùng và hộp. Tất cả cộng lại thành tài sản nhỏ nhoi đến mức đáng ngạc nhiên. Donald cố không nghĩ đến việc tài sản của mình sẽ nhỏ nhoi ra sao khi các đồng nghiệp của anh sắp xếp nếu anh thình lình xa lìa cõi trần ai này. Chẳng hạn so với tình cảm sâu đậm anh dành cho Susannah thì mớ tài sản đó chẳng là gì cả. Anh dặn lòng mình phải viết thư cho cô ngay sau khi rời Caulfield - là chuyện phi lý, vì hai người vẫn còn ở chung mái nhà, và vì Donald đã quyết định chờ cho đến khi Mackinley và Knox quay về, thế thì anh còn lưu lại đây một hoặc hai ngày nữa.

Anh sẽ xin một tấm ảnh của cô, để lưu giữ. Dĩ nhiên, không phải là anh dự trù mình sẽ bị giết. Chỉ dự phòng thôi.

 

[20] Kitchener: thị trấn phía tây-nam thành phố Toronto, Canada.