Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 22

Tôi được đánh thức bởi cái vỗ nhẹ lên vai mình. Parker ngồi bên tôi, khẩu súng trường trên tay. Lập tức tôi biết không chỉ có hai chúng tôi.

Ông trao cho tôi con dao săn: “Cầm lấy cái này. Tôi sẽ lấy cả hai khẩu súng, ở trong này và nghe ngóng.”

“Họ ở đây phải không?”

Ông không cần phải trả lời.

Không có tiếng động từ bên ngoài. Không có gió. Thời tiết tiếp tục trong trẻo, giá lạnh; các vì sao và trăng suôn chiếu ánh mờ nhạt xuống lớp tuyết. Không có tiếng chim hót. Không có tiếng động của thú hoặc người.

Nhưng họ đang ở đây.

Parker ngồi bên cánh cửa, nhìn qua các khe nứt. Tôi lê bước đến bức tường phía sau cánh cửa, nắm chặt lấy con dao. Tôi không thể nào mường tượng ra mình sẽ làm gì với con dao này.

“Đã gần sáng. Họ biết ta đang ở đây.”

Tôi luôn ghét chờ đợi. Tôi không có thiên bẩm mà các thợ săn đều có, là để thời gian trôi qua mà không lo lắng đến mọi động tĩnh. Tôi cố lắng nghe âm thanh nhỏ nhất, và bắt đầu nghĩ có lẽ Parker đã nhầm, thì vừa lúc ấy một vệt đèn quét qua bên ngoài, có vẻ như ngay trên bức tường của ngôi nhà. Máu dường như chảy chậm lại trong các tĩnh mạch của tôi, và thình lình tôi có một cử động vô thức - tôi thề là mình không cố ý - rồi lưỡi dao chạm vào bức tường. Bất kỳ ai đó ở ngoài kia cũng nghe tiếng. Bầu không khí im ắng càng nặng nề thêm, rồi âm thanh khẽ nhất của bước chân trên tuyết, lùi xa dần.

Tôi không thích xin lỗi lần nữa, nên tôi không nói gì. Rồi có thêm tiếng bước chân, như thể ai đó đã không màng nỗ lực tránh gây tiếng động.

Tôi nói thật nhỏ đến mức nhẹ hơn hơi thở: “Ông thấy gì?”

Parker lắc đầu: không có gì. Hoặc có ý bảo tôi câm miệng lại. Dù gì thì tôi cũng phải đồng ý với ông.

Sau một khoảnh khắc tưởng chừng bất tận - một phút? hai mươi phút? - có tiếng nói: “William? Tôi biết anh ở đó.”

Dĩ nhiên đó là tiếng của Stewart. Bên ngoài, trước ngôi nhà. Phải một lúc sau tôi mới nhận ra ông ta nói với Parker.

“William, tôi biết anh muốn chiếm lông thú. Nhưng đó là tài sản Công ty, và tôi phải mang trả lại cho chủ nhân hợp pháp. Anh biết điều đó.”

Parker thoáng nhìn qua tôi.

“Tôi có người ở đây.” Stewart nói nghe tự tin, không lo lắng. Nhàm chán.

“Chuyện gì xảy ra với Nepapanees? Anh ấy biết chuyện về Laurent phải không?”

Im lặng. Tôi ước gì Parker không nói ra chuyện ấy. Nếu Stewart biết được chúng tôi đã tìm ra nấm mồ, ông ta sẽ không để cho chúng tôi sống.

Rồi tiếng nói lại cất lên: “Hắn quá tham lam. Hắn muốn chiếm lông thú làm của riêng. Hắn định giết tôi.”

“Anh bắn anh ta từ sau lưng.”

Tôi tin chắc mình nghe tiếng thở dài, như thể Stewart không còn nhẫn nại được nữa. “Tai nạn vẫn thường xảy ra. Anh biết điều đó, William. Không phải là... cố ý. Tôi muốn anh đi ra.”

Bây giờ là khoảng thời gian ngắt quãng dài. Tôi thấy Parker nắm chặt lấy khẩu súng. Đôi mắt tôi vẫn còn rát bỏng nhưng tôi có thể nhìn thấy. Tôi phải nhìn. Khẩu súng kia đang được đeo chéo ngang lưng ông. Bầu trời đã sáng hơn. Bình minh sắp đến.

William Parker, ông là tình yêu của tôi.

Điều này thúc mạnh vào tôi như một con ngựa chứng. Lệ tràn đôi mắt tôi với ý nghĩ ông sẽ đi qua cánh cửa ấy.

“Chúng ta có thể thỏa thuận. Anh có thể lấy vài tấm lông thú, rồi ra đi.”

Parker nói: “Tại sao anh không vào mà nói chuyện?”

“Anh đi ra. Trong đó tối quá.”

“Đừng đi ra! Ông không biết ông ta có bao nhiêu người.” Hai hàm răng tôi cắn chặt nhau. Tôi cầu nguyện với tất cả những gì còn sót lại của đức tin mà Người có thể dành cho tôi.

“Xin đừng...!”

Ông nói rất nhỏ: “Không sao.” Ông đang nhìn tôi.

Bây giờ có đủ ánh sáng để tôi nhìn thấy khuôn mặt ông. Và tôi có thể thấy thân thương khó tả đối với mọi chi tiết của khuôn mặt ông, mọi đường cong mà có lúc tôi nghĩ trông hoang dại và dữ dằn, mọi nếp hằn.

“Đi ra khoảng trống trước. Cho tôi thấy anh không có vũ khí.”

“Đừng!” Chính tôi đã nói thế, nhưng trong hơi thở.

Có tiếng động nào đó bên ngoài, và rồi Parker kéo cánh cửa, bước ra trong vùng tranh tối tranh sáng màu xám. Ông khép lại cánh cửa sau lưng mình. Tôi nhắm nghiền đôi mắt, đợi chờ viên đạn.

Viên đạn không bay đến. Tôi đến ngồi sau cánh cửa hầu có thể nhìn qua các kẽ nứt. Tôi có thể thấy một bóng dáng hẳn phải là Stewart, nhưng không thấy Parker ở đâu; có thể ông còn sát gần với ngôi nhà.

“Tôi không muốn bắn giết. Tôi chỉ muốn mang lông thú đi trả cho chủ nhân.”

Tiếng nói của Parker phát ra từ đâu đó bên tay phải tôi: “Anh không cần phải giết Laurent. Thậm chí anh ấy không biết lông thú ở đâu.”

“Đó là nhầm lẫn. Tôi không muốn chuyện đó xảy ra.”

“Hai nhầm lẫn hả?” Lại là tiếng nói của Parker, di chuyển ra xa thêm.

Tôi không thể thấy phản ứng của Stewart, nhưng tôi cảm nhận được cơn giận dữ trong tiếng nói của ông ta, giống như cái gì đấy cứng rắn và căng thẳng đến tột cùng: “Anh muốn gì hả William?”

Vừa nói xong, thình lình Stewart di chuyển, khuất khỏi tầm mắt tôi. Một tiếng súng nổ vang lên, và ánh sáng lóe ra từ đâu đó trong trảng cây phía sau ông ta, rồi một cái gì đó đập thịch vào bức tường ngôi nhà ở góc xa, bên tay phải tôi. Không còn âm thanh gì khác. Tôi không biết Parker đang ở đâu. Ánh lóe của thuốc súng đâm vào tròng mắt tôi như một cây kim nóng đỏ chích vào bộ não tôi. Tôi thở dồn dập mà không kiềm chế được. Tôi muốn kêu đến Parker. Tưởng chừng tôi không thở được. Bây giờ không có ai trong tầm nhìn. Có tiếng gì đó bên tay trái tôi, rồi tôi nghe tiếng chửi rủa. Stewart.

Chửi rủa bởi vì Parker đã trốn thoát?

Những bước chân bên ngoài, rất gần. Tôi nắm chặt cán dao như các ngón tay tê dại có thể nắm được; tôi lấy tư thế bên trong, sẵn sàng...

Khi ông ta đá cánh cửa vào, chuyện xảy ra rất đơn giản. Cánh cửa đập vào trán tôi, xô tôi ngã ra, và tôi buông rơi con dao.

Trong một khoảnh khắc, không có chuyện gì khác diễn ra; có lẽ bởi vì đôi mắt ông ta cần một lúc để làm quen với bóng tối. Rồi ông ta thấy tôi đang nằm phục trên sàn gần chân ông. Tôi mò mẫm tìm con dao; nhờ phép mầu nào đó nó đã rơi dưới người tôi. Tôi nắm lấy lưỡi dao rồi cho vào trong túi trước khi ông ta nắm lấy cánh tay kia của tôi và thô bạo kéo tôi đứng lên. Rồi ông ta đẩy tôi đi phía trước ông, ra khỏi cửa.

༺༒༻

Khi Donald nghe tiếng súng, anh bắt đầu chạy. Anh biết có lẽ đấy không phải là việc khôn ngoan nhất, nhưng không hiểu sao, có lẽ vì anh là người cao ráo, mệnh lệnh không kịp truyền xuống đôi chân. Anh nhận ra Alec thì thầm lời gì đó phía sau lưng mình, nhưng không nghe được cậu bé nói gì.

Anh tiến gần đầu cuối của hồ nước; âm thanh phát ra từ trảng cây ở bờ bên kia. Anh tiếp tục suy nghĩ: họ đã đúng. Họ đã đúng - và bây giờ Nửa Người đang giết họ. Anh biết mình là một hình bóng cực kỳ ngu xuẩn và có thể được nhận thấy rõ ràng trên băng, nhưng anh cũng biết Stewart sẽ không bắn mình. Có thể đạt đến một cách giải quyết đơn giản nào đó; họ có thể nói chuyện với nhau, giống như hai người đàn ông biết lẽ phải, đều là nhân viên của một Công ty lớn lao. Stewart là người biết lẽ phải.

“Stewart!” anh vừa chạy vừa kêu lên. “Stewart! Stewart!”

Anh không biết phải nói gì khác. Anh nghĩ đến Bà Ross - có lẽ đang chảy máu cho tới chết. Và anh đã không cứu được bà.

Lúc anh chạy gần đến trảng cây phía dưới một mô đất lớn, có động đậy gì đó phía trước. Dấu hiệu đầu tiên của sự sống mà anh thấy.

“Xin đừng bắn. Tôi đây, Moody... Đừng bắn...” Tay anh đang nắm nòng súng, vẫy qua vẫy lại để cho thấy anh có ý ôn hòa.

Có ánh sáng lóe ra từ dưới tán cây, và cái gì đó với sức mạnh ghê gớm đập vào mạn sườn anh, đánh anh ngã bật ra sau. Cành cây, hoặc bất cứ cái gì khác anh vấp phải, dường như đập mạnh ngay trên vết sẹo của anh, càng gây tồi tệ hơn.

Anh cố đứng dậy nhưng không đứng nổi, nên anh đành nằm một lúc, cố lấy lại hơi thở. Đôi kính của anh đã rơi ra, rõ ràng không thích hợp cho Canada, luôn đông giá hoặc bốc hơi nước vào thời điểm không thích hợp, và bây giờ... anh lần mò chung quanh trong lớp tuyết, nơi đâu cũng chỉ chạm phải cái lạnh. Chắc hẳn ai đó có thể nghĩ đến cái gì khác tiện lợi hơn.

Cuối cùng anh tìm được khẩu súng trường và nhấc lên. Đến lúc này, vì lẽ báng súng trơn và ấm, anh nhận ra máu. Cố sức ngẩng đầu lên, anh thấy máu trên áo choàng của mình. Anh thấy bực dọc; thật ra là anh đang giận dữ. Anh đã quá ngu xuẩn mà xông vào chốn rắc rối như thế. Bây giờ Alec cũng sẽ bị nguy hiểm, và đó hoàn toàn do lỗi của anh. Anh nghĩ đến việc kêu cậu bé, nhưng cái gì đó, ý thức hay hơn từ nơi nào đó, ngăn chặn anh. Anh chú mục vào việc đưa khẩu súng vào đúng vị trí; ít nhất anh có thể bắn một phát, còn hơn là ngã lăn quay mà chết không kịp kêu rên. Anh sẽ không phải hoàn toàn vô dụng; cha anh đã nói như thế nào?

Nhưng chỉ toàn im ắng, như thể, một lần nữa, anh là người duy nhất trong vòng vài dặm chung quanh đây. Anh phải chờ đợi cho đến khi nhìn ra được cái gì đó. À, người đã bắn phát đạn, cho dù đó là ai, hiển nhiên không nghĩ đến việc phải bước ra mà kết thúc công việc. Khùng.

Thế rồi, đến một lúc nào đó, anh nhìn lên và thấy một khuôn mặt phía trên mình. Đấy là khuôn mặt anh nhận ra ngay ở Nhà Hanover; khuôn mặt của một người say xỉn, không cảm xúc và trống rỗng, có phần khép kín, như tảng đá lấp một miệng hang. Bây giờ khuôn mặt không còn say, nhưng không ra vẻ hiếu kỳ hay sợ hãi, thậm chí không tỏ ra là người chiến thắng. Anh nhận ra đó là khuôn mặt của kẻ đã giết Laurent Jammet. Người có dấu chân dẫn tất cả họ đi đến đây. Đấy là lý do anh đến đây - để nhận biết hắn, để truy lùng hắn. Anh đã đạt mục đích. Và quá muộn. Donald nghĩ mình đã hành động quá chậm chạp, như cha anh đã nói. Và với hơi nóng tràn lên đôi mắt, anh nghĩ, than ôi, anh nghe tiếng người cha bây giờ đang trách móc anh.

Donald bắt đầu nghĩ đưa khẩu súng ngắm bắn khuôn mặt là ý tưởng hay, nhưng khi anh nghĩ ra thì khuôn mặt đã biến mất, và khẩu súng của anh cũng rời đi. Anh quá mệt mỏi. Mệt và lạnh. Có lẽ anh nên đặt mái đầu trở lại trên nền tuyết mềm; nghỉ ngơi một lúc.

༺༒༻

Bên ngoài ngôi nhà gỗ, tôi không thấy một ai, ngay cả Stewart, người đã nắm lấy cánh tay trái của tôi vặn xoắn sau lưng tôi chặt đến nỗi tôi chỉ có thể thở nhẹ vì sợ bả vai mình sẽ trật ra khỏi hốc xương. Không có dấu hiệu, ít nhất, của Parker nằm bị thương, hay tồi tệ hơn, trong lớp tuyết. Không có dấu hiệu của Nửa Người, nếu đúng là người ấy. Stewart vung vẩy khẩu súng phía trước. Tôi là lá chắn cho ông ta. Có sự động đậy nào đó, nhưng tất cả đều là phía sau ngôi nhà; một âm thanh - không kết luận được, ông đẩy tôi đi về đầu cuối bức tường, nơi mặt trời bắt đầu đốt chân trời. Dĩ nhiên là tôi không có tấm khăn quàng để che đôi mắt. Và hai bàn tay tôi không mang găng.

Như thể đọc được tâm tư tôi, Stewart nói: “Bất cẩn. Và đôi mắt của bà nữa. Đáng lẽ ông ta không nên dẫn bà tới đây.” Ông nói nghe có phần thất vọng.

Tôi nói qua đôi hàm răng mím chặt: “Ông ấy không dẫn tôi. Khi ông cho người giết Jammet, ông đã dẫn tôi tới đây.”

“Thật vậy sao? Này, này, tôi không nghĩ ra. Tôi nghĩ bà và Parker...”

Đau lòng mà nói ra, nhưng nó cứ tuôn ra khỏi tôi; người tôi tan chảy vì giận dữ: “Ông không biết ông đã làm cho bao nhiêu người đau khổ. Không chỉ là những người ông giết, mà còn…”

Ông nói một cách bình thản: “Câm miệng.” Ông đang lắng nghe. Một tiếng rắc trên cây. Xa hơn về phía tay trái của tôi, một tiếng rắc kinh hồn - tiếng súng trường. Tiếng nổ nghe khác với tiếng khi nãy.

“Parker!”

Tôi không kiềm chế được. Chỉ một tích tắc sau tôi có thể cắn đứt lưỡi mình; tôi không muốn ông nghĩ đó là tiếng kêu cầu cứu mà chạy đến.

“Tôi ổn.” Tôi thét lên trong hơi thở kế tiếp. “Xin đừng bắn. Ông ấy sẽ thỏa hiệp. Chúng tôi sẽ đi. Xin để cho chúng tôi đi, làm ơn...”

“Câm miệng.”

Stewart lấy tay bịt miệng tôi, nén thật chặt đến nỗi tôi tưởng chừng các ngón tay ông ta sẽ bóp vỡ hàm tôi. Chúng tôi di chuyển giống như sinh vật bốn chân vụng về nào đó, tiến về đầu cuối ngôi nhà, nhưng lại không có bóng người nào.

Một tiếng súng khác - ở bên tay trái tôi, bây giờ xa khỏi ngôi nhà. Và sau đó, lần này, một tiếng động. Tiếng người kêu rên.

Tôi há hốc miệng, hơi thở nén lại trong cổ họng như hắc ín.

Stewart la thét trong một thứ ngôn ngữ kỳ lạ. Một mệnh lệnh? Một câu hỏi? Không rõ Nửa Người đang lắng nghe hay không, nhưng vẫn không trả lời. Stewart lại la lên, giọng căng ra, đầu lắc lư tới lui, như chính mình không chắc chắn. Tôi tự nhủ mình, bây giờ tôi phải hành động; bây giờ trong khi ông ta không chắc chắn, ông ta buông miệng tôi ra để có thể nhắm khẩu súng một tay. Tôi nắm lấy con dao trong túi, mò mẫm cho đến khi cán dao nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Tôi bắt đầu từ từ rút con dao ra.

Và rồi một tiếng nói phát ra từ đâu đó trong trảng cây, nhưng chắc chắn đó không phải là tiếng của Nửa Người. Một giọng nói trẻ trung đáp lại, trong cùng ngôn ngữ. Stewart hoang mang; ông ta không nhận ra giọng nói. Đó không phải là một phần trong kế hoạch của ông ta. Tôi vung con dao ngang người tôi và đâm vào hông ông ta, cố hết sức thật mạnh. Mặc dù trong phút cuối ông ta nhận biết chuyện gì đang xảy ra và né người, lưỡi dao không gặp sức kháng cự, và ông ta thét lên vì đau đớn. Tôi thoáng nhìn khuôn mặt ông ta, và ánh mắt ông ta bắt lấy ánh mắt tôi - xấu hổ, xanh hơn cả bầu trời; nhưng dường như ông cười nửa miệng, ngay cả khi ông vung khẩu súng về phía tôi.

Tôi chạy. Một tiếng súng khác khiến cho tôi đinh tai nhức óc, ở đâu đó rất gần, nhưng tôi không cảm thấy gì hết.

༺༒༻

Alec nhìn Donald chạy qua mặt hồ đóng băng, mặc cho nó la lên rồi chửi rủa. Cậu bé la cho anh dừng lại, nhưng anh không dừng. Alec cảm thấy nỗi sợ hãi ghê gớm tràn ngập, e rằng mình sẽ nôn mửa, nên nó quay mặt đi. Rồi nó tự nhủ mình không phải là trẻ con nữa; nó phải làm như cha nó đáng lẽ phải làm, và nó chạy theo anh.

Alec còn cách không đến một trăm mét thì tia sáng lóe ra - sau này nó thề mình chẳng nghe thấy gì cả - và Donald ngã xuống. Alec nhào xuống bụi lau sậy đâm lên qua lớp băng. Nó cầm khẩu súng của George đã lên đạn chĩa ra phía trước, cắn răng trong cơn giận dữ lẫn sợ hãi. Họ không nên bắn Donald.

Anh đã tỏ ra tử tế với mẹ nó. Donald đã kể cho nó nghe về hai người dì xinh đẹp, thông minh, đang sống gần hồ nước rộng như biển. Donald không làm hại ai.

Hơi thở của nó rít qua hai hàm răng; âm thanh quá to. Mắt nó đảo vòng trảng cây - bọn họ có lợi thế được che chắn - rồi đứng dậy và chạy, gần bật khóc, lom khom; ngã chổng trên lớp tuyết rồi bò lên một gò đất để quan sát. Nó đã đến gần gốc cây đầu tiên; có lẽ họ chưa thấy nó. Phía trước, thêm một tiếng súng trường, rồi im ắng. Nó không thấy ánh sáng lóe. Khẩu súng ấy đã không nhắm bắn nó. Nó phóng từ gốc cây này qua gốc cây khác, dừng lại, nhìn sang phải và trái, mọi nơi. Tiếng nó thở như là tiếng nấc; âm thanh hẳn đã làm lộ vị trí. Nó nghĩ đến những người khác - người phụ nữ da trắng và người đàn ông cao lớn - để có thêm can đảm.

Khẩu súng nặng hơn khẩu nó thường sử dụng, nòng dài hơn. Đó là một khẩu súng tốt, nhưng nó ít được tập bắn. Nó biết phải tiến gần hơn thì mới có cơ hội. Nó rón rén tìm đường đến nơi xuất phát tiếng nổ. Bên tay phải nó là một mỏm đá xen kẽ giữa dòng chảy suôn sẻ của hồ nước; phía trước, giữa các gốc cây, nó nhìn thấy một ngôi nhà. Tiến đến gần hơn, nó nhìn ra hai bóng người bên trong - người đàn ông đã giết cha nó đang giấu mình phía sau người phụ nữ da trắng.

“Họ không biết mình ở đây,” nó tự nhủ, để tỏ ra can đảm thêm.

Tiếng của Stewart, trong ngôn ngữ Cree: “Nửa Người? Chuyện gì vậy?”

Im lặng.

“Nửa Người? Trả lời tôi đi - nếu được.”

Không có tiếng trả lời. Alec tiến gần hơn từ gốc cây này qua gốc cây kia, cho đến khi nó chỉ còn cách xa khoảng mười lăm mét, người nó được một thân cây vân sam che chắn. Nó nâng khẩu súng lên và ngắm. Nó ước gì tiến đến gần hơn, nhưng không dám. Stewart kêu lên, sốt ruột, nhưng Nửa Người không trả lời ông ta.

Và thế là Alec trả lời, từ chỗ nó ẩn nấp, trong ngôn ngữ của cha nó: “Kẻ sát nhân, người của ông chết rồi.”

Stewart xoay người, tìm kiếm nó, và rồi một chuyện gì khác xảy ra: người phụ nữ lao vào ông ta rồi chạy đi; Stewart phát ra tiếng rú như chó sói, và chĩa khẩu súng đến mục tiêu duy nhất mà ông ta thấy được - bà ấy. Alec nín thở; nó chỉ có một cơ hội để cứu bà, họ ở khá gần. Nó bóp cò; có một tiếng kích và một màn khói bao phủ cả nòng súng.

Một phát. Chỉ có một phát.

Nó bước về phía trước, thận trọng phòng trường hợp Nửa Người đang ẩn núp đâu đó, chờ đợi. Khi làn khói tan đi, khoảnh đất phía trước ngôi nhà gỗ dường như trống không. Nó nạp đạn lại và chờ đợi, rồi phóng đến chỗ ẩn núp gần nhất.

Stewart đang nằm trên khoảnh đất trống, tay chân xoãi ra, với một cánh tay vắt ngang đầu như thể muốn với lấy món gì đó. Một bên mặt ông ta đã mất đi. Alec khuỵu xuống và nôn mửa. Đó là nơi mà Parker và người phụ nữ tìm thấy nó.

༺༒༻

Tôi nhẹ nhõm khi thấy Parker phía sau ngôi nhà gỗ đến nỗi tôi vòng tay ôm lấy ông một chốc, mà không nghĩ ngợi gì. Có một áp lực phải trả lời ngắn gọn nhất và, cho dù vẻ mặt ông không thay đổi, tiếng nói của ông lại thô kệch: “Bà ổn chứ?”

Tôi gật đầu.

“Stewart...”

Tôi liếc nhìn ra phía sau, và ông đi vòng qua góc nhà, nhìn quanh quất. Rồi ông bước ra; không có mối hiểm nguy gì. Tôi đi theo ông, và thấy một thân người giữa khoảnh đất trống. Đó là Stewart - tôi nhận ra chiếc áo choàng nâu; không còn gì khác để nhận ra nữa. Cách đó ít bước, một đứa bé trai đang quỳ gối trên tuyết như một pho tượng. Tôi nghĩ mình đang hoa mắt, và rồi tôi nhận ra đứa con trai đầu lòng của Elizabeth Bird.

Nó nhìn lên chúng tôi, chỉ nói một tiếng: “Donald.”

Chúng tôi tìm thấy Moody vẫn còn sống, nhưng đang thoi thóp dần. Anh đã bị bắn vào bụng, chảy máu quá nhiều. Tôi xé ra một mảnh váy để băng vết thương, và tạo một chiếc gối kê đầu anh, nhưng không thể làm gì khác với viên đạn còn nằm trong anh. Tôi quỳ xuống bên anh và chà xát bàn tay anh đang lạnh giá.

“Anh Moody, anh sẽ ổn thôi. Chúng tôi đã hạ được bọn họ. Chúng tôi biết được sự thật, Stewart bắn Nepapanees từ sau lưng và chôn anh ấy trong rừng.”

“Bà Ross...”

“Suỵt. Đừng lo. Chúng tôi sẽ chăm sóc cho anh.”

“Rất vui bà được... ổn.”

Anh mỉm cười một cách yếu ớt, ngay cả bây giờ vẫn cố tỏ ra lịch sự.

“Donald... anh sẽ ổn.” Tôi cố mỉm cười, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra là anh chỉ lớn hơn Francis ít tuổi, và tôi chưa bao giờ tử tế với anh. “Parker đang pha trà cho anh uống, và... chúng tôi sẽ mang anh về thương điếm; chúng tôi sẽ chăm sóc anh. Tôi sẽ chăm sóc anh...”

“Bà đã thay đổi,” anh trách móc tôi, mà tôi nghĩ đấy là hiển nhiên, vì tóc tôi đang rũ ra, mắt tôi đang rơi lệ, và trán tôi sưng lên.

Thình lình anh nắm lấy bàn tay tôi với sức mạnh đáng ngạc nhiên: “Tôi muốn bà làm cho tôi một việc...”

“Vâng?”

“Tôi đã phát hiện... điều khác thường.”

Hơi thở anh đang ngắn đi một cách khủng khiếp. Đôi mắt anh, không mang kính, xám và xa xăm, mơ màng. Tôi nhận ra cặp kính trên nền đất gần chân mình, và nhặt lên.

“Đây...” Tôi cố mang kính cho anh, nhưng anh khẽ nghiêng đầu: “Không kính... tốt hơn.”

“Được rồi. Anh đã phát hiện... điều gì?”

“Điều khác thường.” Anh mỉm cười nhẹ, hạnh phúc.

“Gì cơ? Ý anh nói Stewart và lông thú?”

Anh nhíu mày, ngạc nhiên. Giọng nói anh nhỏ dần, như thể đang rời xa anh: “Ý tôi không phải thế. Tôi... yêu.”

Tôi cúi xuống gần thêm và gần thêm nữa, cho đến khi tai tôi kề sát miệng anh.

༺༒༻

Các ngôn từ nhỏ dần.

Bà Ross ngồi bên anh, người đong đưa như cây sậy trong gió. Donald không thể nói ra bà đã thay đổi như thế nào - khuôn mặt của bà, cho dù bị mái tóc che khuất phân nửa, tỏ ra hiền dịu hơn; và đôi mắt bà long lanh, màu lóe sáng như ánh nước, như thể đôi đồng tử đã thu nhỏ hẳn lại.

Anh cố kiềm chế nói lên cái tên “Maria”. Anh nghĩ, có lẽ cô không biết thì hay hơn. Rằng cô không có nỗi dằn vặt của sự mất mát, của nỗi tiếc nuối, của điều khả dĩ bị lịm tắt, luôn làm cho tâm tư cô vướng bận.

Nhưng bây giờ, trước mặt của Donald một đường hầm mở ra, một đường hầm dài vô tận, và đấy giống như nhìn từ đầu kia của một kính viễn vọng, qua đó mọi vật thể đều nhỏ li ti nhưng thật sắc nét.

Một đường hầm của những năm tháng.

Anh nhìn lên với nỗi kinh ngạc: qua đường hầm anh nhìn ra cuộc đời mình sẽ trải qua cùng Maria: đám cưới của hai người, con cái của hai người, những cuộc cãi cọ giữa hai người, những bất đồng vụn vặt giữa hai người. Những tranh cãi về sự nghiệp của anh. Việc di chuyển đến thành phố. Cảm nhận về da thịt của cô.

Cách thức anh dùng ngón tay cái mình để xóa đi vết nhăn nhỏ trên trán cô. Cách cô trách móc anh. Nụ cười của cô.

Anh mỉm cười lại với cô, nhớ lại cách cô xé ra tấm khăn choàng để quấn quanh vết thương của anh trong trận đấu bóng bầu dục, vào ngày hai người gặp nhau lần đầu tiên, nhiều năm trước. Máu anh vương trên khăn choàng cô, gắn kết hai người với nhau.

Cuộc sống kêu vù vù trước mặt anh như một cỗ bài được phân ra rồi nhập lại trong hai bàn tay của người chia bài, mỗi hình ảnh sáng rực và hoàn thiện theo từng chi tiết. Anh có thể thấy mình khi già đi, và Maria, cũng già đi, vẫn còn đầy năng lực. Tranh cãi, viết lách, đọc giữa các hàng chữ, và chốt lại nội dung.

Không có tiếc nuối.

Một cuộc đời xem ra không tồi tệ.

Maria Knox sẽ không bao giờ biết được cuộc sống mà cô có thể trải qua, nhưng Donald thì biết. Anh biết, và anh vui.

Bà Ross đang nhìn xuống anh, khuôn mặt bà trong màn sương, sáng chói và ẩm ướt, đẹp đẽ. Bà thật gần mà cũng thật xa. Dường như bà hỏi anh điều gì đó, nhưng không rõ vì lý do gì anh không thể nghe bà được nữa

Nhưng mọi việc đều sáng tỏ.

Và thế là Donald không nói ra tên của Maria, hoặc bất kỳ điều gì khác.

༺༒༻

Công việc tồi tệ nhất là dẫn Alec đi xem thi hài cha nó. Nó nài nỉ chúng tôi mang thi hài về Nhà Hanover, cùng với Donald, và an táng họ ở đây. Còn Stewart, chúng tôi quyết định chôn ông ta vào nấm mồ cạn mà ông ta đã tự đào lấy. Có vẻ như thế là công bằng.

Nửa Người bị thương nặng vì viên đạn của Parker, nhưng khi chúng tôi trở lại ngôi nhà gỗ thì anh ta đã bỏ đi. Dấu vết của anh ta dẫn về hướng bắc, và Parker đi theo một đoạn đường, rồi quay lại. Anh ta đã bị bắn vào cổ và có lẽ không sống được lâu. Về hướng bắc của hồ nước chẳng có gì cả ngoại trừ tuyết và băng.

“Để chó sói lo cho anh ta,” là câu nói của Parker.

Chúng tôi quấn Donald và Nepapanees trong các tấm lông thú - Alec tìm một tấm da nai cho cha nó, có vẻ như đấy là việc quan trọng đối với nó. Còn Donald, chúng tôi quấn trong các tấm lông chồn và chồn marten; mềm mại và ấm áp. Parker gói các tấm da có giá trị nhất rồi chất lên xe trượt tuyết. Jammet có một đứa con trai: các tấm lông thú ấy là cho nó, cùng Elizabeth và gia đình của cô. Còn những tấm lông kia, tôi đoán Parker sẽ quay lại một ngày nào đó để mang đi. Tôi không hỏi. Ông không nói.

Chúng tôi làm tất cả công việc này trong buổi chiều hôm ấy.

Và bây giờ chúng tôi đang quay lại Nhà Hanover. Hai con chó kéo chiếc xe trượt tuyết với hai thi hài trên đó. Alec đi kế bên. Parker lèo lái hai con chó, và tôi đi bên cạnh ông. Chúng tôi đi theo dấu chân của chúng tôi trong chặng đi, và dấu chân của những người đi theo chúng tôi, in sâu trong lớp tuyết. Tôi thấy rằng mình đã học được, mà tôi không nhận ra, cách xác định dấu vết. Thường khi tôi thấy một dấu chân mà tôi biết đó là dấu chân của mình, và tôi bước lên đó, để xóa nó đi. Xứ sở này được ghi bằng những dấu như thế; những vết mảnh mai trong nỗi khát khao của con người. Nhưng những dấu chân này - giống như con đường mòn cay đắng - thì mong manh, bị mùa đông bào mòn, và khi tuyết lại rơi hoặc khi tuyết tan vào đầu xuân, tất cả dấu vết chúng tôi đi qua đều biến mất.

Dù thế, ba trong số những dấu vết này đã tồn tại lâu hơn người tạo ra chúng.

Lúc nhớ ra để tìm kiếm thì tôi mới biết mình đã đánh mất tấm thẻ xương. Khi tôi rời Nhà Hanover thì nó vẫn còn trong túi tôi, nhưng bây giờ nó đã thất lạc. Tôi nói với Parker về chuyện này, và ông nhún vai. Ông nói, nếu nó có tầm quan trọng thì nó sẽ được tìm lại. Dù tôi cảm thấy tiếc cho Ông Sturrock tội nghiệp, người có vẻ khát khao có được nó, tôi lấy làm vui mình không có món gì mà người khác ham muốn. Hình như những vật như thế chẳng cho điều gì tốt lành cả.

Dĩ nhiên là tôi vẫn nghĩ đến Parker, và mơ thấy ông trong giấc ngủ. Và tôi cũng biết rõ điều này: ông nghĩ đến tôi. Nhưng hai chúng tôi là câu đố hóc búa mà không có lời giải. Sau khi đã kinh qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế, chúng tôi không thể tiếp tục - nếu thực lòng thì phải nói đáng lẽ tôi đã không thể nào làm cuộc hành trình được như thế.

Tuy vậy, mỗi khi chúng tôi dừng lại, tôi không thể tránh nhìn khuôn mặt ông. Cứ nghĩ đến khi xa ông là tôi thấy như sẽ mất đi thị lực của mình. Tôi nghĩ đến tất cả những gì ông đã thể hiện với tôi: người xa lạ, người chạy trốn, người dẫn đường.

Tình yêu. Đá nam châm. Hướng bắc đích thực của tôi. Tôi quay người đến ông.

Ông sẽ đưa tôi trở lại Himmelvanger rồi đi tiếp - quay về bất kỳ nơi nào đó mà ông đã xuất phát. Tôi không rõ ông có kết hôn hay không, tôi đoán là có. Tôi không bao giờ hỏi, và sẽ chẳng bao giờ biết. Tôi hầu như không biết gì về ông. Và ông - thậm chí ông không biết tên riêng của tôi.

Có nhiều chuyện có thể làm cho bạn cười, nếu bạn là người thích cười. Một lúc sau khi tôi nghĩ đến điều này, Parker quay sang tôi. Alec đang đi trước vài bước.

“Bà Ross?”

Tôi mỉm cười với ông. Như tôi đã nói, tôi không kiềm chế được. Ông mỉm cười lại theo cách của ông: một con dao trong trái tim tôi mà tôi sẽ không bao giờ lấy ra dù gì chăng nữa.

“Bà chưa bao giờ nói cho tôi biết tên bà.”

May là gió quá lạnh, khiến cho nước mắt đóng băng trước khi rơi xuống. Tôi lắc đầu và mỉm cười: “Ông đã kêu tên này nhiều lần rồi.”

Lúc ấy ông nhìn tôi đăm đăm đến nỗi, chỉ trong lần này, tôi là người tránh ánh mắt trước. Rốt cuộc rồi đôi mắt ông có ánh sáng trong đó.

Tôi cố nghĩ đến Francis, và Sông Dove. Angus. Những mảng trong cuộc đời mà tôi phải chắp lại với nhau.

Tôi cố nghĩ đến Nỗi Chán chường vì Suy tư Cật lực.

Và rồi khi Parker trở lại với hai con chó và chiếc xe trượt tuyết, và tiếp tục bước, tôi cũng tiếp tục bước.

Bởi vì mỗi chúng tôi có thể làm được việc gì khác?

Hết