Con ngựa của Donald chạy vấp váp sát với người chạy trước, chúc mũi vào hai chân sau con ngựa trước, bị cái đuôi quất trúng.
Người chạy trước kêu lên: “Chết tiệt, Moody.” Con ngựa của Donald tiếp tục hoặc rơi về phía sau hoặc húc vào mông ngựa của Mackinley.
“Xin lỗi ông.” Donald kéo giật dây cương và con ngựa dỏng hai vành tai lên. Con thú đã được mua từ một người Pháp và có vẻ như nó được di truyền thiên kiến chống người Anh.
Con ngựa của Mackinley rất ngoan hiền, giống như con ngựa chạy trước nó. Nhưng Donald luôn bị nhắc nhở vì tính non nớt - anh chỉ mới sống ở Canada được hơn một năm và vẫn chưa thấm nhuần nghi thức phải phép của Công ty. Chưa ai từng cảnh báo trước cho anh, vì họ thích nhìn anh lếch thếch theo sau, sa vào các vũng lầy và làm cư dân địa phương phiền hà. Không phải hai người kia có ác ý, nhưng rõ ràng đó là cách thức ở đây: người tay mơ nhất phải cố học việc bằng cách làm trò cười cho người khác. Phần lớn nhân viên của Công ty có học thức, lòng can đảm và tinh thần phiêu lưu, thấy cuộc sống mình ở một đất nước bao la có phần nhàm chán. Có những hiểm nguy (như người ta vẫn thường quảng bá), nhưng đó là mối hiểm nguy do thời tiết giá lạnh chứ không phải như là chiến đấu tay không với thú dữ hoặc với người bản địa thù địch. Cuộc sống hàng ngày của họ chỉ là sự chịu đựng vặt vãnh - chịu đựng cái lạnh, đêm tối, sự đơn điệu, và thói uống các loại rượu xấu. Từ lúc đầu, Donald đã nhận ra rằng gia nhập Công ty giống như là bị đưa vào trại khổ sai, chỉ có điều là thêm công việc giấy tờ.
Người cưỡi ngựa chạy trước, Mackinley, là quản trị viên ở Pháo đài Edgar, và dẫn đầu là một nhân viên người bản địa, Jacob, luôn muốn tháp tùng Donald đi khắp nơi mặc cho anh này cảm thấy ngượng nghịu. Donald không quan tâm lắm đối với Mackinley, người thích mỉa mai và lừa phỉnh - phương pháp hai gọng kềm để phát hiện sự phê phán mà ông luôn nghi ngờ mọi phía. Anh đoán rằng Mackinley hay cáu bẳn như thế bởi vì ông cảm thấy tự ti về địa vị xã hội so với thuộc hạ của mình, kể cả Donald, và thường cảnh giác để nhận ra dấu hiệu thiếu tôn trọng. Donald biết rằng nếu Mackinley không quan tâm đến những chuyện ấy thì ông ta được tôn trọng hơn, nhưng bây giờ ông khó mà thay đổi tính nết. Về phần Donald, anh nhận ra rằng Mackinley và mấy người khác xem mình chỉ là một kế toán viên, tuy hữu dụng nhưng không phải là mẫu người thích phiêu lưu trong vùng hoang dã theo cách sống xưa kia.
Khi lên tàu ra đi từ Glasgow đến nơi định cư, anh muốn được tự chủ, và để mặc ai nghĩ về mình thế nào cũng được. Nhưng thật ra anh đã cố tìm cách cải thiện hình ảnh của mình trong con mắt của họ. Anh cố chịu đựng loại rượu nấu theo cách thô lậu mà người ta uống hàng ngày, tuy rằng anh không ưa thích gì cả. Khi mới đến, anh lịch sự nhấp ít rượu rum mà người ta chắt ra từ các vại hôi hám, thầm nghĩ mình chưa bao giờ nếm loại rượu nào có hương vị kinh tởm đến thế. Mấy nhân viên khác để ý thấy anh muốn kiêng khem, nên họ để mặc anh một mình rồi cùng nhau vừa chén tạc chén thù vừa bù khú với những câu chuyện lê thê, chán ngắt và cùng đùa cợt với những chuyện vui cười được kể đi kể lại. Donald cố chịu đựng tình trạng này trong một thời gian, rồi đến lúc cảm thấy cô đơn đến mức anh không còn chịu nổi nữa. Lần đầu tiên anh bị say xỉn một cách sống động, đám thanh niên hoan hô, vỗ lưng anh khi anh nôn mửa trên hai đầu gối. Qua nạn buồn nôn và nơi chốn ẩm ướt hôi hám, Donald tìm thấy một không khí ấm tình: anh là một thành viên - cuối cùng họ đã chấp nhận anh là người trong đám họ. Nhưng, tuy loại rượu rum đối với anh không còn có hương vị tồi tệ nữa, anh có cảm tưởng những người khác đối xử với anh trong vẻ chịu đựng thích thú. Anh vẫn còn là một kế toán viên cấp thấp.
Một ý tưởng thông minh khác mà anh muốn tự chứng tỏ là tổ chức một trận bóng bầu dục. Nói chung thì đây là một thảm họa, nhưng từ đó lóe lên một tia hy vọng giúp anh ngồi vững vàng hơn trên yên ngựa.
Pháo đài Edgar là một trong những trạm mậu dịch có tính văn minh trong số phần lớn các trạm của Công ty. Nó nằm ven bờ Ngũ Đại Hồ, gồm một số tòa nhà xây bằng gỗ phía sau một vách đá dốc đứng - tất cả được che chắn cách biệt với quang cảnh của những hòn đảo và một vịnh phía sau một vòng đai cây vân sam. Nhưng sắc thái làm cho Pháo đài Edgar có tính văn minh là các khu định cư nằm kề cận bên nhau, khu gần nhất là Caulfield bên bờ Sông Dove. Cư dân Caulfield cảm thấy hạnh phúc được sống gần trạm mậu dịch có nhiều hàng hóa nhập từ Anh quốc và có nhiều nhân viên Công ty khỏe mạnh. Các thương nhân cũng cảm thấy vui khi làm việc gần Caulfield có nhiều phụ nữ da trắng nói tiếng Anh vốn thỉnh thoảng có thể làm đẹp cho những buổi khiêu vũ và những quan hệ xã hội khác - như các trận đấu bóng bầu dục.
Vào buổi sáng của trận đấu, Donald thấy mình trở nên bồn chồn. Các chàng trai thì đầu óc bần thần, mắt lờ đờ sau một chầu nhậu nhẹt, còn Donald cảm thấy bất an khi thấy một nhóm khách mời đi đến. Anh càng bất an hơn khi gặp gỡ họ - một ông có nét mặt nghiêm khắc như là cha cố thích giảng đạo, cùng hai cô con gái của ông phấn khích vì được các anh trai trẻ độc thân vây quanh.
Hai cô con gái nhà Knox ngắm nhìn các diễn tiến một cách lịch sự, hoàn toàn thấy lạ lẫm. Người cha tìm cách giải thích cho hai con luật chơi theo cách ông hiểu khi đi đến Pháo đài Edgar, nhưng sự hiểu biết thô thiển của ông chỉ khiến cho hai cô con gái hoang mang thêm. Các cầu thủ chạy lòng vòng trên sân bóng theo từng đám lộn xộn; quả bóng (một khối nặng nề do bà vợ một công nhân tải hàng khâu vá tạo thành) thì chìm lấp mà không ai theo dõi được.
Khi trận đấu tiếp diễn, tinh thần càng u tối thêm. Có vẻ như đội của Donald đã toa rập với nhau để cách ly anh khỏi cuộc chơi, luôn phớt lờ lời anh kêu gọi chuyền bóng cho mình. Donald chạy lên chạy xuống, hy vọng các cô gái không nghĩ mình là kẻ dư thừa, khi quả bóng lăn về phía anh, từng lọn lông thú trong quả bóng rơi ra lả tả. Anh nhặt quả bóng chạy lên tìm cơ hội ghi bàn, nhất quyết đặt dấu ấn cho mình, nhưng rồi thấy mình nằm trên mặt sân, mệt đứt hơi. Jacob đoạt lấy quả bóng và chạy đi. Donald đuổi theo, nhất quyết không muốn bỏ lỡ cơ hội. Anh phóng mình đến Jacob trong động thái tranh cướp quyết liệt nhưng hợp lệ. Một cầu thủ to lớn nhặt lấy quả bóng và ghi bàn.
Vẫn nằm trên mặt sân, từ cổ họng Donald thốt lên tiếng hoan hô chiến thắng. Anh nhấc lên hai bàn tay ấm và sẫm màu từ bụng mình, và Jacob đứng phía trên anh với một con dao trên tay, thần sắc anh này chầm chậm chuyển thành vẻ kinh dị.
Cuối cùng, khán giả nhận ra có chuyện không hay. Các cầu thủ tụ tập chung quanh Donald trong khi anh tỏ vẻ bối rối. Anh thấy vị quan tòa cúi xuống nhìn mình với vẻ lo lắng.
“... chỉ bị thương tí xíu. Tai nạn... trong lúc tranh bóng...”
Jacob lộ vẻ khổ sở, nước mắt lăn dài trên má. Knox xem xét vết thương: “Maria, đưa cho cha khăn choàng.”
Maria, cô gái xấu hơn trong hai chị em, xé ra tấm khăn choàng, nhưng Donald nhìn chăm chăm khuôn mặt Susannah đang cúi xuống khi tấm khăn choàng được quấn quanh vết thương.
Anh bắt đầu có cảm giác đau nhức trong bụng, và nhận biết thân người mình trở lạnh. Trận đấu bị quên lãng, các cầu thủ đứng tụ tập một cách ngượng nghịu, hút dọc tẩu. Nhưng Donald bắt gặp ánh mắt của Susannah bày tỏ mối quan ngại, và thấy rằng mình không còn màng đến kết quả trận đấu, hoặc liệu mình đã tỏ lộ tính chất thô lỗ hay dũng mãnh, hoặc thậm chí cũng không màng máu anh đã thấm qua chiếc áo choàng và đang sậm màu. Anh đã biết yêu.
Vết thương mang đến hệ quả kỳ lạ là làm cho Jacob trở thành người bạn sinh tử của anh. Một ngày sau trận đấu, Jacob đi đến bên giường của Donald, rơi nước mắt tỏ ý ăn năn sâu sắc. Vì uống rượu nên anh này mới làm thế; anh đã bị ma ám, và sẽ chuộc lỗi đối với vết thương bằng cách chăm sóc cho Donald ngày nào mà anh chưa phải đi công tác xa. Donald cảm động, và khi anh mỉm cười với vẻ tha thứ và chìa bàn tay ra, Jacob mỉm cười lại với anh. Có lẽ đó là nụ cười của tình bạn thật sự mà anh nhận được ở xứ sở này.
Donald bước loạng choạng khi rời lưng ngựa và cố giúp máu lưu thông điều hòa trong tay chân. Anh bất đắc dĩ có ấn tượng với ngôi nhà rộng và thanh lịch nơi họ vừa đến; đặc biệt nghĩ về Susannah, và nghĩ ngôi nhà còn khiến cho cô xa cách với anh đến đâu.
Nhưng Knox bước ra và nở nụ cười nồng hậu, rồi nhìn Jacob với vẻ lo lắng không cần che giấu, ông hỏi: “Người hướng đạo[7] của các anh đây hở?”
“Đây là Jacob,” Donald đáp, cảm thấy đôi má nóng bừng, nhưng Jacob không có vẻ bị xúc phạm.
Mackinley cáu bẳn nói thêm: “Bạn tốt của Moody.”
Vị quan tòa cảm thấy khó hiểu, vì ông hầu như chắc chắn rằng lần trước mình thấy anh chàng là lúc chàng ta đâm con dao vào bụng Donald. Ông nghĩ mình đã nhìn lầm.
Knox kể cho họ những gì ông biết và Donald ghi chép lại. Không cần mất thời giờ nhiều đã ghi xong các sự kiện nắm bắt được. Họ ngầm hiểu rằng không có hy vọng tìm ra hung thủ trừ khi có người trông thấy chuyện gì đó, nhưng trong một cộng đồng như thế này thì người ta luôn nói có người nọ trông thấy chuyện kia; ngồi lê đôi mách luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của các cộng đồng nhỏ.
Khi họ đứng dậy để chuẩn bị đi xem hiện trường, Donald xếp những tờ giấy mới phía trên các trang ghi chú của mình và vuốt cho thẳng thắn bằng một cái kẹp. Anh không mong chờ tham gia việc này và hy vọng mình không mất thể diện nếu bị chứng buồn nôn hoặc là - anh dằn vặt với chính mình khi tưởng tượng ra tình huống xấu nhất - nếu anh bật khóc thì sao? Anh chưa từng trông thấy một thi hài, ngay cả thi hài ông nội của mình. Anh tưởng tượng với nỗi kinh dị pha cảm giác thích thú sự trêu chọc mà mình sẽ phải chịu đựng, tuy rằng chuyện này khó xảy ra. Anh sẽ không bao giờ quên được; anh sẽ trở về Glasgow mai danh ẩn tích, có lẽ sẽ sống với một tên khác...
Trong tâm trạng chộn rộn như thế, chuyến đi đến ngôi nhà gỗ diễn ra chớp nhoáng.
༺༒༻
Thomas Sturrock có ý nghĩ là tin tức lan truyền nhanh chóng trong mấy ngày này. Ngay cả khi không có đường xe, đường tàu hỏa, tin tức hoặc lời đồn đại mù mờ kháo nhau giữa các anh chị em, tin tức đều lan truyền như tia chớp qua những quãng đường dài. Đó là một hiện tượng lạ lùng, và người ta có thể được lợi nếu để ý đến một đầu óc cần mẫn như đầu óc của ông. Có lẽ là một bản thảo ngắn chăng? Tờ Globe hoặc tờ Star có thể quan tâm đến tin tức có nội dung hay như thế.
Trong mấy năm gần đây, ông đã cho phép nghĩ rằng mình đã trở nên dễ thương theo tuổi tác. Tóc ông đã bạc, được chải ngược từ một vầng trán cao và vòng quanh hai vành tai. Áo choàng của ông thuộc kiểu cổ xưa nhưng được may cắt chỉnh tề và trông khá ngông nghênh, có màu lam đậm tương hợp với đôi mắt vốn vẫn chưa nhòe mờ hơn so với ba mươi năm trước. Quần ông trông thẳng nếp. Khuôn mặt sắc nét như chim ưng, được bào mòn một cách dễ chịu nhờ nếp sống dã ngoại. Có một tấm gương soi mang những đốm lỗ chỗ và mờ mờ treo trên bức tường đối diện, và nó nhắc cho ông rằng, ngay cả trong những tình huống căng thẳng này, ông là hình ảnh hiếm hoi của một người đàn ông. Tính phù hoa bí mật này, mà ông tự ban cho mình một cách hiếm hoi như là một niềm vui nho nhỏ (và quan trọng hơn, không mất tiền), khiến cho ông mỉm cười với mình. Trong khi nhấm nháp cà phê lạnh, ông thầm nói với bóng hình mình trong tấm gương: “Mi chắc chắn là một ông già kỳ quặc.”
Thomas Sturrock được giao cho công việc thường ngày là ngồi trong một quán cà phê hơi tồi tàn (quán này có tên Rising Sun - Mặt trời Mọc), uống một ly cà phê mất cả một hoặc hai giờ đồng hồ. Ông nhận ra rằng mình đã tỏ ra trầm ngâm vì tin tức và lời đồn đại từ một nơi nào đó, sau khi đã nghe được cuộc trò chuyện sau lưng mình. Không phải là nghe lén - ông không bao giờ hạ mình làm việc này - nhưng có cái gì đó khiến cho luồng tư tưởng lan man của ông phải chú ý, và bây giờ ông cố tìm hiểu xem chuyện gì đã lôi cuốn mình... Đúng rồi, Caulfield, có người nào đó nhắc đến Caulfield. Vốn có đầu óc và quần áo vẫn sắc nét như bao giờ, Sturrock quen biết với một người ở đó, dù trong một thời gian ông không gặp lại.
“Họ bảo chưa từng thấy chuyện nào như vậy. Máu đẫm cả người, vương vãi trên tường và mọi thứ... hẳn là do bọn cướp bóc Da Đỏ...”
(À, không trách bất kỳ ai được đã lắng nghe cuộc trò chuyện như thế.)
“Để cho thối rữa trong ngôi nhà… qua nhiều ngày. Ruồi nhặng bò chung quanh dầy đặc. Hãy tưởng tượng mùi hôi thối ra sao.”
Người kia tỏ ý đồng tình.
“Không có động cơ nào cả, không món gì bị lấy đi. Bị giết trong giấc ngủ.”
“Mẹ kiếp, tình hình đang trở nên tệ hại như ở Mỹ. Chiến tranh và cách mạng xảy ra cứ mỗi năm phút.”
“Hẳn có thể là kẻ đào ngũ ấy, phải không?”
“Mấy nhà buôn sinh lôi thôi, đối phó với mọi chuyện... Hẳn là người nước ngoài, ta không bao giờ biết được...”
“Chúng ta sẽ ra sao đây...”
Vân vân. Vân vân.
Đến lúc này, Sturrock càng chú ý thêm. Sau khi nghĩ ngợi lan man thêm ít phút, ông không nhịn được nữa.
“Xin lỗi, hai ông...”
Có những ánh mắt mà ông muốn làm ngơ khi ông quay qua hai người đàn ông: xét theo loại quần áo rẻ tiền nhưng phô trương và thái độ hạ cấp thì họ hẳn là mấy con buôn hay đi đây đó.
“Tôi thật tình xin lỗi. Tôi biết chen vào câu chuyện của người khác là sự quấy rầy tệ hại, nhưng tôi có mối quan tâm cá nhân đến chuyện hai ông vừa bàn. Hai ông biết chứ, tôi có quan hệ làm ăn với một nhà buôn sống gần Caulfield, và tôi chẳng đặng đừng chú ý đến chuyện các ông mô tả - rất sống động - một vụ việc đặc biệt gây sốc và thê thảm. Hiển nhiên là tôi chẳng đặng đừng có mối quan ngại đối với câu chuyện, và tôi chỉ mong rằng nó không liên quan đến người tôi quen...”
Cả hai người đi buôn đều không giỏi đối ứng nên cảm thấy bất ngờ với lời lẽ hùng biện như thế, vốn ít khi thốt ra giữa bốn bức tường của quán Rising Sun. Người kể chuyện định thần trước, nhìn xuống khuy măng sét của Sturrock đang lủng lẳng phía sau ghế ngồi. Sturrock lập tức hiểu ra ý nghĩa của tia nhìn, cộng với cái đầu nghiêng xuống, một thoáng suy nghĩ, rồi nhìn lên khuôn mặt của mình.
Người kia vừa tính toán lợi lộc về tài chính từ việc bán thông tin - không lớn lắm, xét qua loại khuy măng sét, cho dù ngữ âm Mỹ miền Đông cho thấy có triển vọng nào đó. Anh ta thở dài, nhưng vẫn không giấu vẻ vui mừng tự nhiên khi loan tin xấu: “Gần Caulfield hả?”
“Vâng. Tôi nghĩ anh ấy sống trong một trang trại nhỏ hay đại loại như vậy, địa danh được gọi là Sông... tên con chim hoặc con thú, dường như là thế.”
“Sông Dove.”
“Vâng, đúng rồi. Sông Dove.”
Người đàn ông liếc qua bạn đồng hành của mình: “Nhà buôn đó, có phải là người Pháp không?”
Sturrock cảm thấy lạnh xương sống. Hai người nhận ra điều này trên khuôn mặt ông. Không cần thiết phải nói gì thêm.
“Một nhà buôn người Pháp ở Sông Dove bị sát hại. Tôi không rõ có nhà buôn người Pháp nào khác hay không.”
“Tôi nghĩ không có. Ông có... tình cờ nghe qua cái tên nào không?”
“Nhất thời tôi không nhớ ra - chỉ nhớ đó là tên Pháp.”
“Người tôi quen có tên Laurent Jammet.”
Đôi mắt người đàn ông lộ vẻ vui mừng: “Tôi lấy làm buồn thật sự là vậy, vì tôi nghĩ đó là cái tên người ta nhắc tới.”
Sturrock rơi vào cơn im lặng bất thường. Trong cuộc đời dài, ông đã đối phó với nhiều cơn sốc, và đầu óc ông đã nghĩ đến tác động của tin tức này. Hiển nhiên là thê thảm đối với Jammet. Ít nhất là đáng lo đối với anh ta. Bởi vì có một vụ làm ăn còn dang dở ở đó mà ông muốn tiến hành, chỉ chờ khi có đủ điều kiện tài chính. Bây giờ Jammet đã chết, phải tiến hành càng sớm càng tốt, nếu không cơ hội sẽ vĩnh viễn qua đi.
Hẳn ông đã lộ vẻ thật sự bị sốc nặng, bởi vì một lúc sau, khi nhìn xuống ông thấy một cốc cà phê và một ly rượu bourbon đã được đặt trên mặt bàn. Hai người đi buôn đang nhìn ông với vẻ quan tâm thật sự - một tin tức về chuyện bạo lực đã là đáng phấn khích, nhưng đằng này lại chạm trán một người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thảm kịch - còn gì hay hơn nữa? Tin tức này có giá trị vài bữa ăn tối.
Sturrock run rẩy đưa tay cầm ly rượu.
Một trong hai người nhận xét: “Ông có vẻ như người đưa ma.”
Nhận ra mình cần phải làm gì, Sturrock ngập ngừng kể lại câu chuyện buồn về một món quà đã hứa cho người vợ đang bệnh, và một món nợ chưa trả xong. Thật ra ông không lập gia đình, nhưng có vẻ như hai người lữ hành không màng đến. Đến một lúc, ông dựa vào thành bàn, đôi mắt dõi theo một đĩa thịt hầm đang được đưa ngang qua, và hai phút sau một bữa tối với thịt nướng được dọn lên trước mặt. Ông thật sự nghĩ (không phải là lần thứ nhất) mình đánh mất năng khiếu cố hữu - đáng lẽ ông phải là nhà văn viết tiểu thuyết lãng mạn, vì đã dễ dàng dựng lên câu chuyện về một người vợ đang bị ho hen. Khi cuối cùng ông nghĩ mình đã trọng thưởng cho họ (không ai có thể kết án ông không hào phóng với trí tưởng tượng), ông bắt tay với họ và rời khỏi quán cà phê.
Trời đã về chiều và ngày đang trốn chạy ở chân trời phía tây. Ông chầm chậm bước về phòng trọ, đầu óc bận rộn về việc làm thế nào tìm ra số tiền để đi Caulfield, vì đấy là việc cần làm để nuôi dưỡng giấc mơ của ông.
Có lẽ còn có một người ở Toronto vẫn còn kiên nhẫn đối với ông, và nếu ông tiếp xúc với bà đúng cách, bà có thể cho ông vay khoảng hai mươi đô. Vì vậy, đến cuối đường ông rẽ về hướng khu vực trong lành dọc bờ hồ.
༺༒༻
Một lúc lâu sau khi mặt trời mọc, khi không còn có thể giả vờ đấy là ban đêm, tôi đành phải đầu hàng sự mệt mỏi và bước lên cầu thang để đi ngủ. Bây giờ hẳn là đã gần trưa, nhưng tôi không thể ngồi dậy. Thân thể tôi không chịu nhận mệnh lệnh, hoặc nói đúng hơn, đầu óc tôi không còn muốn ra mệnh lệnh. Tôi nhìn chăm chăm trần nhà, cảm thấy chắc chắn là tất cả nỗ lực của con người - đặc biệt là nỗ lực của tôi - chỉ là vô vọng. Francis vẫn chưa trở về nhà, vì thế càng cho thấy tôi hoàn toàn bất tài, thiếu can đảm hoặc vô tích sự. Tôi lo lắng cho nó, nhưng nỗi quan ngại của tôi không sánh bằng việc tôi không có khả năng quyết định để làm việc gì. Tôi không lấy làm ngạc nhiên vì nó bỏ đi khỏi một người mẹ như thế.
Angus thức dậy khi tôi bước lên tầng trên, và không nói tiếng nào. Trước đây chúng tôi khó ăn nói với nhau về Francis, dù cho không phải lâm vào tình huống nặng nề. Angus thường lặp đi lặp lại rằng đứa con đã mười bảy tuổi và có thể tự lo cho nó; con trai ở tuổi này thường vắng mặt khỏi nhà nhiều ngày. Những lời lẽ không nói ra đè nặng lên tâm tư tôi trong căn phòng nhỏ: Francis đã đi vắng; người đàn ông đã chết. Dĩ nhiên là hai chuyện này không liên quan gì với nhau.
Một tiếng nói trong tâm tư tôi đặt nghi vấn liệu Angus có đau buồn lắm không nếu Francis không trở về. Đôi lúc hai người nhìn nhau một cách hằn học như là hai kẻ thù truyền kiếp. Tuần trước, Francis về muộn và từ chối làm một việc nhà được giao phó cho nó. Nó bảo sẽ làm việc này vào buổi sáng, thế là nó làm to chuyện bởi vì Angus vừa tranh cãi không có kết quả với James Pretty về hàng rào ranh giới đất. Angus bực tức nói với nó rằng nó là đứa trẻ ích kỷ, vô ơn. Khi anh nói đến từ “vô ơn”, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Francis nổi cơn giận dữ: Angus mong nó phải biết ơn vì đã cho nó chỗ cư trú; anh đối xử với nó như là một gia nhân có giao kèo; anh luôn ghét bỏ nó... Angus thoái lui, chỉ hơi lộ vẻ khinh thường khiến cho tôi thấy lạnh cả người. Lúc ấy tôi lớn tiếng mắng Francis, giọng tôi run run. Tôi không rõ nó có giận lây tôi hay không; trong một thời gian dài nó không nhìn thẳng vào mắt tôi.
Làm thế nào tôi đã có thể ngăn chặn chuyện này? Có lẽ Ann có lý khi chế nhạo tôi; tôi không có năng lực quán xuyến một gia đình, cho dù tôi thường tỏ ra khinh khi phụ nữ nào nghĩ đấy là điều quan trọng. Đấy không phải là vì tôi đã không tạo ra được cái gì có giá trị.
Trong khi thao thức, tôi có cảm tưởng như một cơn mộng du đang ám ảnh mình; tôi đã đọc câu chuyện về một người nhân tạo chán ghét thế giới do bề ngoài khiến cho người ta sợ hãi và có ác cảm. Vào cuối câu chuyện, người nhân tạo này bỏ đi đến miền Bắc Cực để trốn lánh nhân loại. Trong cơn mê sảng vào đêm tối, tôi thấy Francis đang bị vây đuổi, giống như con quái vật, do tội giết người... Đến sáng tôi thấy đấy quả là chuyện điên rồ; thậm chí một con cá hương Francis cũng không muốn giết. Nhưng nó đã đi khỏi nhà được một ngày một đêm.
Có một điều gì đấy vương vấn đầu óc khi tôi trăn trở giữa những tấm chăn, và cuối cùng khiến cho tôi đi vào phòng của Francis, lục lọi giữa mấy vật bừa bãi. Khó mà nói những vật gì còn lại và những vật gì đã mất đi, vì thế phải mất một lúc lâu tôi mới thấy được vật mình muốn tìm. Khi tìm được, tôi trở nên cuồng loạn, lấy ra mọi thứ trên ngăn tủ, cào bới dưới giường và xé toang những gì còn lại trong ngôi nhà để tìm kiếm. Nhưng không có kết quả - bởi vì tôi đang cầu nguyện cho những vật không hiện diện nhưng lại có ở đấy. Tôi tìm được hai cần câu của nó và một cần câu dự phòng mà Angus làm cho nó khi hai người vẫn còn thân thiện với nhau. Tôi tìm được chiếc hộp đựng đồ nghề đi câu và cái túi ngủ. Chỉ những thứ mất đi là một bộ quần áo và con dao của nó. Không nghĩ ngợi gì, tôi cầm lấy chiếc cần câu nó yêu thích mà bẻ gãy làm hai rồi mang giấu hai đoạn gẫy dưới đống củi. Khi xong việc, tôi thở dồn dập. Tôi cảm thấy phạm tội và nhơ bẩn như thể chính tôi đã kết án Francis, vì thế tôi đi vào trong nhà, nấu nước nóng để tắm. May mắn là lúc tôi chưa ngồi vào bồn tắm thì Ann Pretty đã đi vào gian bếp mà không hề gõ cửa nhà.
“À, chị Ross ạ, quả là chị có cuộc sống nhàn nhã! Tắm vào ban ngày... Ở tuổi này, chị nên thận trọng với việc tắm nước nóng. Chị biết không, em chồng tôi bị lên cơn tai biến trong bồn tắm.”
Tôi biết, vì Ann đã kể cho tôi nghe ít nhất hai chục lần. Ann thích nhắc nhở tôi là chị trẻ hơn tôi ba tuổi, như thể đấy là cả một thế hệ. Về phần mình, tôi không muốn vạch ra rằng chị trông già trước tuổi và có thân hình như con gấu, trong khi tôi vẫn giữ vóc dáng và ít nhất khi còn trẻ đã được người ta cho là đẹp. Dù sao đi nữa thì chị cũng chẳng màng.
“Chị có biết người ta đang điều tra không? Họ đã mời nhân viên Công ty đến. Cả một đoàn. Họ đang dọ hỏi suốt dọc dòng sông.”
Tôi gật đầu một cách lửng lơ.
“Hora đã đến từ MacLarens và nói họ đang trao đổi với mọi người. Tôi đoán họ sắp đến đây.” Chị nhìn quanh như muốn săm soi: “Ông ấy nói Francis đã đi vắng từ sáng hôm qua.”
Tôi không muốn bận tâm sửa lời chị mà nói còn lâu hơn thế nữa. Tôi chỉ nói: “Nó sẽ bị sốc khi trở về.”
“Lúc trước nó có đi săn với Jammet không?” Chị tỏ vẻ ranh mãnh, đôi mắt đảo quanh phòng như cú vọ; một con kền kền đang hăm hở tìm xác chết.
“Một đôi lần. Nó sẽ buồn khi nhận được tin. Nhưng hai người không thân thiết với nhau lắm.”
“Kể cũng là chuyện kỳ quặc. Chúng ta rồi sẽ ra sao? Dù sao chăng nữa, anh ấy là người xa lạ. Người Pháp có tính nóng nảy, phải không? Khi còn ở Sault St Marie, tôi biết họ luôn thù hằn với nhau. Tôi nghĩ một người trong số họ đến đây để làm ăn.”
Trước mặt tôi, chị không kết án Francis, nhưng tôi có thể mường tượng chị ta sẽ làm thế ở nơi khác. Chị vẫn thường nghĩ nó cũng là người xa lạ, với mái tóc đen và da sẫm màu. Chị ta tự cho mình là phụ nữ đã từng đi đây đi đó nhiều nơi, và từ mỗi nơi đi qua chị đều mang đi một định kiến như là món kỷ niệm.
“Vậy thì chừng nào cậu ấy trở về? Chị có lo lắng không, với một kẻ sát nhân đang lởn vởn quanh đây?”
“Nó đi câu. Có lẽ ngày mai mới về.”
Bỗng dưng tôi ước muốn chị ta ra về. Chị nhận biết được, và hỏi mượn tôi ít trà khô - dấu hiệu cho thấy chị nghĩ không thể lấy của tôi món gì khác. Tôi trao trà cho chị theo cách sốt sắng hơn ngày thường, thêm ít hạt cà phê trong thái độ hào phóng để đảm bảo còn lâu chị mới quay trở lại, theo phép lịch sự của người sống nơi hoang dã là khi trở lại chị phải mang một món tương đương...
“À, tốt nhất là nên giữ mối giao hảo.”
Tuy thế, chị vẫn chưa vội ra về, mà lại nhìn tôi với thái độ tôi chưa từng thấy trên gương mặt chị bao giờ. Không hiểu sao, tôi cảm thấy bứt rứt.
Nước nóng giúp cho tôi thư giãn. Trong tháng Mười một thì việc tắm rửa không phải là thiết yếu, nhưng tôi thấy đấy là phương pháp văn minh thay cho cách tắm gây sốc mà tôi đã trải qua trong bệnh viện tâm thần. Vào những ngày đầu ở đó, tôi chỉ kinh qua việc tắm vòi bông sen hai lần. Tuy lúc khởi đầu người ta kinh hãi, nhưng sau đấy cảm thấy êm dịu, thậm chí hồ hởi. Đấy là phương cách đơn giản mà bệnh nhân (trong trường hợp này, chính là tôi) mặc chiếc áo mỏng bị trói vào chiếc ghế gỗ với một cái chậu to đựng nước lạnh phía trên đầu. Một nhân viên kéo một chiếc cần và thế là cái chậu đổ nước lạnh như băng ụp xuống người bệnh nhân. Đấy là trước khi Paul - tức Bác sĩ Watson - được cử giữ chức trưởng khoa và chủ xướng cách thức hòa dịu hơn, ít nhất đối với phụ nữ. Cách thức ấy là may vá, cắm hoa và mọi việc không đâu vào đâu. Tôi chỉ đồng ý vào bệnh viện nhằm tránh mấy công việc như thế.
Khi nghĩ đến thời gian trong bệnh viện tâm thần, tôi luôn cảm thấy vui vui - tôi đoán đấy là lợi điểm của tuổi trẻ khốn khổ. Tôi cần phải nhớ chia sẻ với Francis về tinh hoa của sự từng trải này khi nó trở về.
Ông tự giới thiệu mình là Ông Mackinley, người đại diện Công ty ở Pháo đài Edgar. Ông là người mảnh khảnh, mái tóc dầy được cắt ngắn trông giống như lông thú. Tôi có cái gì đấy khiến cho ông ngạc nhiên - tôi nghĩ là ngữ âm của mình, vốn nghe thanh lịch và có lẽ không hòa hợp với nơi chốn này. Do đó mà thái độ của ông trông ngượng ngập, cho dù tôi thấy ông cố tỏ ra tự chủ. Dù sao chăng nữa, ông không phải là người hạnh phúc.
Ông hỏi một cách thiếu tự nhiên: “Chồng bà có nhà không?” Hẳn ông nghĩ vì tôi là phụ nữ nên hiển nhiên không biết được hết mọi chuyện.
“Anh ấy đi có công chuyện. Còn con trai chúng tôi đang đi câu. Tôi là Bà Ross. Tôi tìm ra thi thể.”
“À, tôi hiểu rồi.”
Ông là một trường hợp lạ lẫm - một trong số những người Scotland hiếm hoi mà nét mặt biểu lộ tâm tư. Khi tổng hợp tất cả thông tin của tôi, nét mặt ông lại thay đổi, ngoài vẻ ngạc nhiên, e dè, tử tế và có phần khinh rẻ còn có thêm mối quan tâm sâu sắc. Tôi có thể nhìn ông cả ngày, nhưng ông có việc phải làm. Tôi cũng có việc cho riêng mình.
Ông rút ra một quyển sổ ghi chép và tôi bảo ông rằng Angus sẽ trở về sau khi đã đi Sault St Marie từ chiều hôm qua, còn Francis đi câu sáng hôm qua. Đấy là lời nói dối, nhưng tôi đã suy nghĩ sẽ phải nói gì và không ai biết được sự khác biệt. Có vẻ như ông quan tâm đến Francis. Tôi nói nó đã đi Hồ Swallow, nhưng có thể đi tiếp nếu không câu được cá.
Tôi nói họ thân thiện với nhau, ông ghi chép lại.
Tôi đã đắn đo suy nghĩ sẽ nói gì về Francis và Jammet và mối thân quen giữa hai người. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ Jammet là người bạn duy nhất của nó, cho dù lớn tuổi hơn nhiều và là người Pháp. Jammet đã thuyết phục Francis đi săn, việc mà Angus không hề nhúng tay vào. Lúc trước, vào mùa hè này, khi đi đến Maclaren và ngang qua ngôi nhà gỗ của anh, tôi nghe tiếng đàn vĩ cầm - âm thanh trọng sáng, cuốn hút khác hẳn với loại âm nhạc ẻo lả của Scotland - tôi đoán đấy là một điệu nhạc dân gian của Pháp. Âm thanh hấp dẫn khiến cho tôi bước đến ngôi nhà để muốn nghe cho rõ thêm. Rồi cánh cửa bật mở, một bóng người vọt ra, tay chân vẫy đập, rồi mất hút vào bên trong, như trong một trò đùa nghịch. Chỉ một lúc sau tôi mới nghĩ ra đấy là Francis. Tôi khó nhận ra nó, có lẽ vì lúc ấy nó đang cười to tiếng.
Mackinley không phải là người khờ dại, người đàn ông này, cho dù nét mặt biểu hiện như thế. Nhưng có lẽ đấy là màn kịch - khiến cho người ta bị lạc hướng. Bây giờ, quả là kỳ lạ, thái độ của ông đổi khác - ông nhìn tôi với vẻ gần như hiền hòa, như thể nhận ra rằng tôi chỉ là con người tội nghiệp, vô hại đối với ông. Tôi không rõ mình đã làm gì khiến cho ông có ý nghĩ ấy, nhưng tôi cảm thấy phiền hà.
Qua khung cửa sổ tôi nhìn ông đi lên con đường dẫn đến trang trại của nhà Pretty và nghĩ đến chị Ann. Tôi thắc mắc liệu thái độ mình thấy trên gương mặt chị có phải là do lòng thương hại hay không.
༺༒༻
Donald nhanh chóng học hỏi thêm đôi điều về Caulfield. Ít ra thì đó là khi anh gõ cửa một căn nhà khiến cho người trong nhà hốt hoảng - không ai lại gõ cửa khi không có chuyện gì bất thường. Khi hiểu ra rằng không có người thân nào của họ qua đời, bị thương hay bị bắt, người trong nhà kéo anh vào, pha trà cho anh rồi dồn dập hỏi han tin tức. Ghi chép của anh là mớ lộn xộn những thông tin đối chiếu nhau: gia đình đầu tiên không thấy gì nhưng nhắc đến một người anh em họ, là chồng của một phụ nữ mà anh phải chờ đợi cả một tiếng đồng hồ rồi nhận ra là người mình đã gặp lúc trước. Nhiều người chạy ra và nhiều người chạy vào để trao đổi các tin tức, giả thuyết, tiên đoán bi quan về tình hình đất nước. Cố hiểu ra những gì từ các trao đổi này thì giống như ôm lấy dòng sông trong hai cánh tay.
Đến khi trời sẫm tối thì anh đã hoàn tất một ngày làm việc thẩm vấn. Trong tiền sảnh ngôi nhà của Knox, anh cố rút ra kết luận từ những gì mình đã thu thập được. Ghi chép của anh cho thấy trong số những người được anh hỏi han, không người nào thấy điều gì bất thường - anh loại bỏ hành vi bất thường của một con sóc mà George Addamont trông thấy buổi sáng hôm ấy. Anh mệt mỏi vì đã được cho uống nhiều trà và sau đó là whisky. Anh đã hứa sẽ quay lại vài gia đình; nhưng anh tin chắc mình chưa gặp được kẻ giết người.
Anh đang băn khoăn làm thế nào hỏi lối vào phòng tắm thì cánh cửa mở, cô con gái kém xinh đẹp của nhà Knox bước vào. Donald lập tức đứng dậy và làm rơi vài tờ giấy; Maria nhặt lên và trao lại cho anh với nụ cười tinh quái. Donald đỏ mặt, nhưng thấy vui vì Maria chứ không phải Susannah phám khá sự vụng về của mình.
“Vậy là cha tôi đã trói buộc anh vào công việc thám tử phải không?”
Lập tức Donald nhận ra rằng cô đã thấy anh bất an đối với công việc ban chiều và đang chế giễu mình.
“Chắc hẳn là có người phải cố tìm ra kẻ thủ ác chứ?”
“Dĩ nhiên là tôi không có ý...” Cô bỏ lửng câu nói, lộ vẻ bực bội. Anh nhận ra rằng cô chỉ muốn nói chuyện vẩn vơ, nhưng đã muộn. Đáng lẽ anh nên tỏ ra đồng lòng một cách xởi lởi, hoặc nói ra lời châm biếm theo cách nào đó.
“Cô biết khi nào cha cô trở về không?”
“Không.” Cô nhìn anh với vẻ tính toán như thế. “Tôi không có cách nào biết được.” Rồi cô mỉm cười nhưng không có vẻ thân thiện: “Để tôi hỏi Susannah nhé? Có lẽ em tôi biết. Tôi đi tìm nó.”
Maria đi ra ngoài, và Donald thắc mắc mình đã làm gì khiến cho cô gay gắt đến thế. Anh tưởng tượng hai chị em đang cười khúc khích với nhau vì anh thiếu lịch thiệp trong giao tiếp, và cảm thấy thân thương đối với các quyển sổ kế toán ở thị trấn pháo đài, chứa đầy những con số ngăn nắp, mà chỉ với ít tính toán anh luôn có kết quả chính xác. Anh lấy làm tự hào về năng lực kết toán cho mấy mục mơ hồ như công tác lau chùi do phụ nữ người bản địa làm, hoặc thực phẩm do thợ săn mang đến, cho đến nỗi họ cân đối được chi phí “hiếu khách” mà Công ty trả cho gia đình các thương nhân. Ước gì con người cũng dễ quản lý như vậy.
Một tiếng ho lịch sự đánh động anh về sự hiện diện của Susannah trước khi cô này mở cánh cửa.
“Anh Moody đó hả? À, anh đang bị bỏ rơi; tôi pha trà cho anh nhé?”
Cô mỉm cười duyên dáng, khác biệt với cô chị, nhưng vẫn khiến cho anh giật nảy người, tuy lần này anh vẫn cầm lấy được các trang ghi chép.
“Không, cám ơn, tôi đã được... À, vâng, có lẽ, thật là... Cám ơn cô.” Anh cố không nghĩ đến hàng lít nước trà mình đã uống.
Khi mang trà đến, Susannah ngồi xuống để tiếp chuyện anh.
“Cô Knox ạ, đây là công tác kinh khủng. Tôi mong chúng ta gặp lại nhau trong tình huống vui vẻ hơn.”
“Tôi biết. Quả là dễ sợ. Nhưng kỳ rồi cũng dễ sợ - anh bị... tấn công. Anh khỏi hẳn chưa? Trông kinh khiếp.”
“Khỏi nhiều rồi, cám ơn cô.” Donald mỉm cười, muốn tỏ ra vui vẻ với tin tốt lành, dù thật ra vết thương trên lớp mô mềm hay gây đau nhức.
“Anh kia có bị phạt không?”
Donald đã không nghĩ đến việc Jacob bị phạt: “Không, anh ấy rất ăn năn và đã trở thành người che chở chí cốt cho tôi. Tôi nghĩ đó là cách người Da Đỏ muốn dàn hòa đối với việc làm xấu. Còn hữu ích hơn là hình phạt, cô có nghĩ như vậy không?”
Susannah mở tròn mắt trong vẻ ngạc nhiên, và Donald nhận thấy đôi mắt cô đặc biệt thu hút với màu nâu lục nhạt, lấp lánh ánh vàng.
“Anh có tin nơi anh ấy không?”
Donald cười: “Có. Tôi nghĩ anh ấy khá chân thực. Anh ấy hiện giờ ở đây.”
“Trời đất! Anh ấy trông thật dễ sợ.”
“Tôi nghĩ thủ phạm thật sự là thói say xỉn, mà anh ấy đã thề từ bỏ. Anh ấy thực sự rất hiền - anh có hai đứa con gái nhỏ mà anh yêu mến hết mực. Cô biết không, tôi đang giúp anh ấy tập đọc, và anh bảo tôi anh mê đọc và viết ngang bằng mê đi săn nai.”
“Thật vậy sao?” Cô cũng cười, rồi cả hai chìm vào im lặng.
“Anh nghĩ sẽ tìm ra hung thủ giết cái anh đáng thương kia không?”
Donald nhìn qua những dòng ghi chép của mình, vốn thực sự chẳng giúp được gì. Nhưng Susannah có cách nhìn anh với vẻ hiền dịu và tin tưởng đến nỗi anh mong mình giải quyết được không chỉ vụ án mạng, mà cả những lầm lỗi khác.
“Tôi nghĩ có ai đó hẳn phải thấy một người lạ ở nơi chốn như thế này - có vẻ như người ta đều biết được những người khác đang làm gì.”
Cô nhăn mặt cười: “Đúng, họ biết được.”
“Một chuyện kinh tởm như thế... chừng nào chưa đưa được người đó ra trước công lý thì chúng tôi sẽ không ngơi nghỉ. Cô không phải sống trong sợ hãi.”
“À, tôi không sợ hãi.” Susannah nghiêng đầu trong vẻ thách thức. Cô cúi người về phía anh, hạ thấp giọng. “Anh biết không, chúng tôi đã sống qua thảm kịch.”
Đó là lời phát biểu lạ thường đến nỗi Donald nhìn chăm bẳm: “À, tôi đã không biết... Tôi rất lấy làm tiếc...”
Susannah có vẻ hài lòng. Vì là người nhỏ tuổi nhất trong gia đình, quả là điều hiếm hoi khi cô là người kể lại Câu chuyện Trọng đại - ai nấy ở Caulfield đều đã biết, và người xa lạ ít khi được cô buông tha. Cô hít một hơi dài, say sưa với khoảnh khắc của mình.
“Đã lâu lắm rồi, chuyện ấy xảy ra khi hai chị em tôi còn nhỏ nên tôi không nhớ được, anh biết không, đó là bà bác tôi.”
Cánh cửa mở ra một cách bất ngờ đến nỗi Donald tin chắc Maria hẳn đã nấp sau đó mà nghe lỏm.
“Susannah! Em không được kể cho anh ấy nghe chuyện đó!” Mặt cô tái nhợt và căng thẳng, mặc dù qua lời lẽ khó biết được cô khó chịu vì Susannah kể chuyện hay vì Donald nghe chuyện. Cô quay qua Donald: “Anh đến đây, cha chúng tôi đã trở về.”
Knox và Mackinley đang hiện diện trong phòng ăn; một chồng những trang ghi chép được đặt trên mặt bàn. Donald buồn rầu nhận thấy họ đã ghi chép nhiều hơn mình. Donald nhìn quanh quất để tìm Jacob: “Jacob đâu? Anh ấy sẽ dùng bữa với chúng ta chứ?”
“Jacob ổn. Anh ấy đang chăm sóc cho... à... thi hài.”
“Anh ấy có ý kiến gì đối với các thương tích?”
Có phần tức giận, Mackinley chăm bẳm nhìn anh: “Tôi tin chắc anh ấy có ý kiến giống như chúng ta.”
Knox khẽ ho, để kéo họ chú ý về vấn đề trước mắt, nhưng Donald nhận thấy ông này có phần thối lui, trong khi Mackinley tiến lên để chủ trì cuộc bàn thảo, ông là người lĩnh trách nhiệm. Công ty đã nhận lấy công tác.
Mỗi người đúc kết nhận xét của mình, với kết luận là không ai trông thấy gì nhiều. Vài ngày trước, một thương nhân có tên Gros André đã đi qua đây. Và ngày hôm trước một người bán hàng rong tên Daniel Swan - mà ai nấy đều quen biết - đến Caulfield, rồi đi St. Pierre. Knox đã gửi tin báo cho vị quan tòa ở đó. Mackinley tìm ra một đứa bé đã trông thấy Francis Ross đi đến ngôi nhà gỗ của Jammet vào một buổi tối - đứa bé không nhớ là tối hôm nào - và bây giờ Francis mất tích.
“Bà mẹ nói mình không biết khi nào cậu ta trở về. Tôi đã hỏi han vài người hàng xóm về cậu. Xem chừng cậu ta là con người lập dị, giữ kín mọi chuyện cho riêng mình.”
Knox xen vào: “Điều này không có nghĩa cậu ta là hung thủ.”
“Chúng ta phải xem xét mọi điều khả dĩ. Ta không biết một trong hai người kia có thăm viếng Jammet hay không.”
“Hẳn là thương nhân kia đã thăm viếng chứ? Xem chừng anh ta là người Pháp. Lúc trước anh đã nói rằng có lẽ có chuyện tranh chấp trong công việc làm ăn.”
Mackinley quay sang nhìn Donald: “Tôi đề nghị theo dõi anh ta, để tìm hiểu.”
“À, tôi có nên theo dõi cái anh Swan kia không?”
Knox lắc đầu: “Không cần. Tôi đã phái một liên lạc viên và anh ta sẽ bị bắt giữ ở St. Pierre. Tôi sẽ đích thân đi đến đó, nên tôi sẽ thẩm vấn anh ta. Chúng tôi đề nghị anh chờ ở đây với Jacob và thấm vấn cậu Ross khi cậu ta trở về.”
Trong một chốc Donald cảm thấy thất vọng, và rồi nhận ra rằng mình có cơ hội nên không ngờ mình được may mắn đến thế.
Mackinley nhíu mày: “Có lẽ theo dõi cậu ta thì họ sẽ làm được việc hơn. Nếu cậu ta trốn chạy thì không ích gì mà chờ đợi cho đến khi mất hẳn dấu vết.”
“Nhưng họ truy tìm ở đâu? Có lẽ cậu ta đã không đi Hồ Swallow. Chúng ta chỉ nghe bà mẹ nói về việc này. Và cậu ta chỉ là một chú nhóc. Cậu ta không có động cơ để hạ thủ, theo những gì ta biết. Mà ngược lại; dường như hai người đã là bạn với nhau.”
Mackinley nhìn trừng trừng: “Ta nên giữ đầu óc rộng mở[8].”
Knox nói: “Dĩ nhiên rồi. Nhưng tôi nghĩ ông Moody sẽ tốn công vô ích khi đến hồ ấy.” Ông quay qua Donald: “Có lẽ anh nên chờ ở đây một hoặc hai ngày; nếu cậu ta không trở về thì anh có thể đi tìm. Một ngày không tạo sự khác biệt nào đối với Jacob; chú nhóc không phải là dân Da Đỏ và sẽ dễ cho ta truy lùng dấu vết.”
Jacob là tín đồ Cơ đốc, nhưng vẫn cảm thấy bất an với ý nghĩ chạm đến một thi hài, mà lại là thi hài bị hạ thủ theo cách gây thương tích nhếch nhác. Anh cùng hai người tình nguyện được trả công, một người làm hộ sinh, được phái đi mang thi hài về Caulfield, và cô này là người không ngại làm việc với mùi hôi thối. Cô hộ sinh chỉ tặc lưỡi trong thái độ vĩnh biệt, rồi bắt đầu lau chùi các vết máu khô. Xác chết đã mềm[9], nên họ kéo duỗi nạn nhân, vuốt hai mắt cho nhắm lại, và đặt một đồng tiền xu vào miệng. Cô hộ sinh buộc một dải khăn vòng quanh đầu để giữ cho miệng khép kín, che phủ các vết thương, rồi họ lấy một tấm chăn quấn lấy thi hài; chỉ có mùi hôi là còn tỏa ra. Con đường dẫn về Caulfield gập ghềnh đến nỗi Jacob phải lấy một tay giữ lấy thi hài tránh lăn khỏi cỗ xe. Ba người và gác dan của Scott đứng quanh chiếc bàn trong im lặng rồi quay đi. Họ đều cảm ơn thời tiết; quả là may mắn khi trời lạnh.
Donald lần bước theo mùi thuốc lá đến nhà kho, nơi Jacob đang hút dọc tẩu giữa một đống rơm, và ngồi xuống bên cạnh. Jacob mân mê các sợi thuốc lá trong chiếc bình. Nói về người chết sẽ là không may, anh nghĩ chắc như vậy. Nhưng anh biết chính Donald muốn nói về chuyện này.
“Cho tôi biết anh nghĩ gì.”
Jacob đã quen với những câu hỏi lạ lùng của Donald. Anh này luôn hỏi Jacob nghĩ ra sao về chuyện này chuyện nọ. Dĩ nhiên là điều bình thường nếu được hỏi về thời tiết, hoặc khả năng săn được thú, hoặc thời gian di chuyển, nhưng Donald lại thích nói về những chuyện mù mờ và vụn vặt, như truyện mà anh vừa đọc, hoặc nhận xét của ai đó nói ra hai ngày trước. Jacob cố gắng nghĩ Donald muốn biết những gì.
“Anh biết mà, nạn nhân bị lột da đầu. Công việc nhanh chóng, sạch sẽ. Bị cắt ngang họng trong khi đang nằm, có lẽ là đang ngủ.”
“Liệu một người da trắng có thể làm việc này không?”
Jacob nhăn nhở cười, hàm răng trắng sáng trong ánh đèn: “Bất kỳ người nào cũng có thể làm, nếu anh ta muốn.”
“Anh có linh cảm... về việc ai có thể làm, hoặc tại sao, hay không? Anh đã ở đó.”
“Ai làm hả? Tôi không biết. Ai đó không có chút tình gì đối với anh ta. Tại sao giết anh ta hả? Có lẽ anh ta đã làm chuyện gì đó trước kia. Có lẽ anh ta làm hại đến ai đó...” Jacob ngưng lại, đôi mắt dõi theo khói thuốc đang tỏa lên xà nhà, rồi tiếp: “Nhưng mà không. Nếu hung thủ muốn làm vậy, hắn muốn nạn nhân tỉnh giấc, để biết hắn đã chiến thắng.”
Donald gật đầu tỏ ý khuyến khích cho Jacob nói tiếp.
“Có lẽ vì việc nào đó anh ta định làm mà họ giết anh, để ngăn chặn. Nhưng tôi nghĩ trước kia có lẽ hung thủ đã từng gây án theo cùng cách thức.”
Donald kể cho Jacob nghe về việc chờ cho cậu con trai Ross trở về, và theo dõi cậu này nếu cần. Mackinley sẽ theo dõi anh thương nhân, hiển nhiên là nghi phạm số một, thế là được tiếng tăm và chính ông ta đã bắt được hung thủ.
Jacob cười: “Có lẽ ông ấy không nên đi một mình nếu quả thực người kia dữ dằn như vậy. Có thể hắn sẽ hạ sát ông ấy.” Anh đưa một ngón tay quét ngang cổ mình.
Donald cố nén cười theo. Từ lúc làm bạn với Jacob, anh đã biết rằng nhiều người không ưa Mackinley.
“Anh có nghĩ đó là chuyện kỳ quặc vì không một ai đã từng thấy... à, những người Da Đỏ, trong vòng ít ngày trước? Ý tôi nói, nếu đúng là một người Da Đỏ đã giết anh ấy.”
“Nếu người Da Đỏ không muốn ai thấy họ thì không ai thấy được. Ít nhất đối với sắc tộc của tôi thì là như vậy. Đối với mấy người khác...” Anh khịt mũi với vẻ miệt thị: “Chippewa, tôi không rõ, có thể họ không có tài truy tìm dấu vết.” Anh cố ý cười mỉm, để cho Donald thấy mình chỉ nói đùa.
Đôi lúc Donald cảm thấy mình như là đứa trẻ bên cạnh anh con trai này, người chỉ lớn hơn anh vài ba tuổi. Sau khi vết thương anh đã lành, anh bắt đầu giúp Jacob tập đọc và viết, nhưng quan hệ giữa hai người không phải là thầy trò. Donald nghĩ rằng kiến thức từ sách vở mình truyền đạt cho Jacob không phải thực sự là kiến thức của mình để ban phát; anh chỉ tình cờ nắm được kiến thức ấy mà truyền tải, trong khi nếu Jacob nói chuyện gì cho anh nghe thì là do kiến thức hoàn toàn của anh này, như thể tuôn ra từ nhận thức riêng của anh này. Nhưng có lẽ Jacob có cùng ý nghĩ; dù sao chăng nữa thế giới quanh anh này chỉ là một chuỗi những dấu hiệu mà anh tình cờ hiểu ra, theo cùng cách thức như Donald có thể nhận ra ý nghĩa của từ ngữ trên giấy mà không cần phải suy nghĩ. Donald muốn biết Jacob nghĩ gì về chuyện này, nhưng không thể nghĩ ra làm thế nào khởi sự đặt câu hỏi.
[7] Người hướng đạo: người Da Đỏ có năng khiếu đặc biệt định hướng đường đi trong rừng, theo dấu chân người và thú... nên thường được người da trắng thuê đi dẫn đường. Câu hỏi ở đây có ý khinh rẻ, vì Knox thấy Jacob là người Da Đỏ nên cho rằng anh này không có tài năng đặc biệt gì khác.
[8] Giữ đầu óc rộng mở: ý nói nên xét qua mọi tình huống, không bỏ sót chi tiết nào.
[9] Xác chết đã mềm: một thời gian sau khi qua đời thì các bắp cơ của xác chết trở nên xơ cứng, sau đó mềm trở lại như lúc còn sống.