Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 18

Họ đi đến địa điểm mà Stewart cho họ biết đêm trước. Ánh sáng đã chiếu rọi qua bầu trời, và mọi thứ đều có màu xám: mây xám óng ánh như ngọc trai, tuyết xám nhàn nhạt. Lớp tuyết mịn trên mặt băng của con sông làm cho hình ảnh lộ ra: một con đường rộng chạy vòng qua khu bình nguyên, khoảng hai mét dưới mặt đất. Con sông đã xói mòn sâu hơn trong lớp vỏ trái đất kể từ lúc nó bắt đầu chảy.

Có những dấu hiệu - được một lớp tuyết mỏng bao phủ - cho thấy gần đây một người nào đó đã hiện diện. Một khu vực xù xì, có nhiều dấu giẫm đạp nơi mặt đất dốc xuống thành một bãi sông. Nhìn từ bên trên, mặt băng trên con sông phẳng phiu một màu trắng đồng nhất, ngoại trừ một điểm ở xa xa có màu sậm hơn, trông như bóng tối, có nghĩa là mặt băng bị vỡ và nước đông lại thành một lớp băng mới mỏng hơn, chỉ có ít tuyết bao phủ. Đó hẳn là địa điểm.

Alec đang đi bên cạnh mẹ, đôi lúc nắm lấy tay cô. Hành trình khó nhọc cho cậu bé; Elizabeth đã phân vân liệu có nên dẫn cậu đi theo không, nhưng ánh mắt của cậu gợi cho cô nhớ đến Nepapanees. Cậu bé trông cả quyết và nghiêm túc. Chỉ mới hôm qua cậu còn là một đứa con trai với người cha làm khuôn mẫu thử thách cho cậu. Bây giờ, cậu phải trở thành người lớn.

Nhóm người để lại chiếc xe trượt tuyết bên bờ sông rồi đi xuống gần dòng nước. Elizabeth nắm lấy tay Alec. Nhóm đàn ông bước đi thận trọng, dùng cây gậy dài chọc xuống lớp băng để thử độ dày. Nơi nào lớp băng vỡ, gần bóng tối, nước phía dưới trông như có màu đen. Một người kêu lên - nước cạn hơn là họ nghĩ. Họ xem xét dòng chảy, bàn với nhau phải làm gì. Elizabeth nhìn về hướng hạ nguồn, nơi con đường lượn vòng quanh. Ở đâu đó đằng kia, Nepapanees đang chờ đợi.

“Con ở đây,” cô bảo Alec, biết rằng cậu bé sẽ vâng lời. Cô bước về hướng hạ nguồn mà không ngoảnh mặt lại. Nhóm đàn ông lo lắng nhìn theo.

Những gì cô đã thấy: một khoảnh đứt quãng giữa bề mặt láng mịn trắng của con sông; một điểm thô nhám nơi các cành cây gãy xuống bờ nước, tạo thành một con đê nhỏ. Bất kỳ thứ gì trôi xuống theo dòng nước từ thượng nguồn sẽ vướng vào nơi đây cho đến khi các cơn lũ mùa xuân sẽ cuốn đi tất cả.

Elizabeth lướt đến dọc bờ nước phía trên con đê. Một phần đầu óc cô thắc mắc tại sao Stewart không tìm kiếm nơi đây, vì cô thấy lớp tuyết còn nguyên. Lớp băng dày dưới chân cô. Cô quỳ xuống, dùng bao tay gạt tuyết sang một bên, để lộ ra lớp băng bên dưới. Băng trong suốt như thủy tinh. Bóng tối của dòng nước bên dưới mở ra dưới tầm mắt cô, màu nâu-đen, đầy những cây cỏ mục. Cô dùng tay cào lớp băng, phá vỡ các mảng nơi các cành cây xuyên qua, tiếp tục cào bới, cho đến khi...

Là đây... sâu dưới kia, vướng trong lớp bùn lầy, cô thấy cái gì đó, cái gì đó vừa có màu sáng lẫn tối, cái gì đó to lớn và bất thường, bị mắc kẹt trong bóng tối của dòng nước.

Có những tiếng kêu, và vài người đàn ông vội đi đến phía sau cô, nhưng cô không nhận biết sự hiện diện của họ, và không nhận biết hơi thở mình đang gấp gáp giữa hai hàm răng, cũng không nhận biết đôi bàn tay trần trụi của mình đang chảy máu và xanh tím vì lạnh, vẫn còn bới tung các rìa băng sắc nhọn. Rồi đám đàn ông cầm gậy và rìu đến bên cô, đập vỡ lớp băng thành từng mảng sủi bọt. Những bàn tay kéo cô tránh xa khỏi lỗ hổng nhưng cô làm họ kinh ngạc khi nhào xuống, đầu chúi xuống trước, đưa tay nắm lấy thi hài chồng cô kéo lên. Trong cơn sốc thình lình của cái lạnh chết người, dù mở to hai mắt cô chỉ nhìn thấy màn đen sâu thẳm và ánh sáng xám-xanh phía trên; cho đến lúc có cái gì đó thoát ra tự do và trôi đến đôi cánh tay cô đang giăng ra giống như người tình trong một cơn ác mộng.

Xác của một con nai đang bơi về phía cô, đôi mắt thối rữa mở rộng và sâu hoắm, đôi môi đen sì đã bị rút rỉa đến tận hai hàm răng toe toét, xương sọ trắng hếu qua lớp lông lù xù. Lớp da nổi lều bều chung quanh như là một tấm voan tả tơi.

Khi kéo cô lên khỏi mặt nước, trong một lúc họ nghĩ cô đã chết. Đôi mắt cô nhắm lại, nước chảy ra khỏi miệng cô. Peter Eagles ép ngực cô rồi cô ho, nôn ra nước sông. Cô mở mắt. Họ đã mang cô lên bờ, tháo lớp áo sũng nước, chà xát da thịt cô. Một người đã đốt một đống lửa. Người khác mang đến tấm chăn. Alec đang khóc. Cậu bé không sẵn sàng chịu mất thêm mẹ.

Elizabeth nhận ra vị nước sông trong miệng, vị vương lại giữa hai hàm răng, vị lạnh lẽo và chết chóc.

Khi hai hàm răng đã thôi đánh lập cập, cô nói: “Anh ấy không có ở đó.”

George Cummings đã dùng một góc tấm chăn chà xát hai bàn tay cô.

“Có cả một khoảng dài để tìm kiếm; tụi tôi sẽ đập vỡ hết các tảng băng cho đến khi nào tìm được anh ấy.”

Cô lắc đầu, vẫn còn hình dung ra vẻ mặt của con nai chết đang mỉm cười trong vẻ chiến thắng với cô: “Anh ấy không có ở đó.”

Sau đó, họ ngồi quanh đống lửa, ăn món thịt ruốc và uống trà. Bình thường họ vẫn câu cá, nhưng không ai muốn câu cá ở đoạn sông này; thậm chí không ai nêu ý kiến. Alec ngồi dựa vào Elizabeth, và cô cảm nhận hơi ấm từ người cậu bé.

Họ dựng lều trú ẩn trên một bãi sông khác, cách xa tầm mắt nơi họ đã làm vỡ mặt băng, được các dải bờ sông cao che chắn gió lạnh. Nhưng không khí yên ắng đến ngạc nhiên; làn khói từ đống lửa tỏa vươn lên cao.

William Blackfeather khẽ cất tiếng, không nói đến riêng người nào: “Ngày mai, khi trời vừa sáng, ta sẽ đi tìm kiếm, đoạn trên và đoạn dưới. Bọn ta sẽ bao trùm một vùng rộng.”

Gật đầu.

Rồi Peter: “Nước cạn đến mức kỳ lạ. Mình nghĩ khó mà bị nước cuốn trôi được. Dòng chảy không mạnh.”

George gật đầu về phía EIizabeth, ra hiệu cảnh báo. Nhưng có vẻ như cô không lắng nghe.

Kenowas hạ thấp giọng: “Lớp băng bị đập vỡ còn mới. Lớp băng trước không dày, chỉ dày bằng phân nửa so với lớp mới.”

Tất cả đều im lặng, chìm sâu vào ý nghĩ của riêng mình.

Rồi Kenowas lớn tiếng: “Tôi không đi trên lớp băng đó, cho dù đuổi theo con gì đi nữa.”

“Anh nói gì?” Amaud có tính thô lỗ và hiếu chiến, ngay cả khi không say rượu. Kenowas nhìn qua anh. Giữa hai người từ lâu đã có mối hiềm khích.

“Tôi cũng không nghĩ Nepapanees đã đi ra đó. Ngay cả một thằng dốt như anh cũng phải suy xét cho kỹ.”

Không ai cười, cho dù đó là câu có ý giễu cợt. Có sự thật trong lời nói của anh, vì Nepapanees là người đặt bẫy sắc sảo nhất, người có kinh nghiệm nhất trong bọn họ.

Điều mà nhiều người nghĩ, tuy không nói ra, là linh hồn của Nepapanees đang dẫn dắt họ qua xác con nai. Anh không được rửa tội, nên anh có linh hồn con nai phù hộ thay vì có thiên thần nhỏ. Một linh hồn mạnh mẽ, nhanh nhẹn, quả cảm, biết rõ các khu rừng và bình nguyên. Còn giỏi hơn là một thiên thần bé nhỏ. Làm thế nào mà một đứa bé, sinh ra từ ngày xưa trong một xứ sở nóng bức, giữa sa mạc, lại biết cách sinh tồn giữa vùng hoang dã lạnh giá được? Nó có thể dạy cho anh những gì?

Rồi Elizabeth - là người được rửa tội với một vị thánh đặc biệt để phù hộ cô và có một phần dòng máu da trắng trong huyết quản - lắc đầu và tặc lưỡi khi tức giận, hoặc chế giễu và kéo tóc anh khi vui vẻ. Khi cải đạo ở tuổi trưởng thành, cô yêu thích suy nghĩ của Thánh Francis[57], với lòng từ tâm và cách truyền thông với chim chóc cùng những con vật khác. Vị Thánh gần giống Nepapanees về điểm này và vì thế Người được yêu mến ở đây - bốn đứa trẻ và hai người lớn đã chọn Người làm thánh bổn mạng cho họ.

Bây giờ có vẻ như Thánh Francis ở quá xa và không can hệ gì đến thực tại, Người không hiểu được cái chết này, không hiểu được nỗi đau giá lạnh của cô. Elizabeth không thể gạt ra khỏi đầu óc hình ảnh cái đầu của con nai. Cô tin chắc chồng mình không ở trong dòng sông, không ở nơi nào gần đó, nhưng có lẽ cô đã lầm. Có lẽ đức tin của chồng cô luôn là đức tin đúng, và cô đã nhìn thấy linh hồn của anh, trở về để trêu ghẹo cô đã không nhận đức tin theo anh.

Cô cảm thấy xa lạ, lạnh cóng hơn là cái lạnh, bị tách rời khỏi nhóm đàn ông và thực phẩm và đống lửa. Thậm chí tách rời khỏi tuyết và không khí tĩnh lặng và bầu trời rỗng không đáy. Chỉ có thân hình mềm mại của đứa con trai cô là còn kết nối cô với trần thế này; một thân thể mỏng manh có hơi ấm con người, dễ tan vỡ.

༺༒༻

Nhiệt độ tiếp tục hạ. Trong cái lạnh này, có cảm giác như không khí đang cô đặc lại thành cái kẹp sắt. Nó lấy đi hơi thở con người, hút hơi ẩm từ lớp da, cháy bỏng như lửa. Có sự im lặng sâu lắng, hầu như có ý thức trên khoảnh sân, trên đó các bàn chân dẫm lên lớp tuyết với tiếng động đến kinh ngạc.

Đó là tiếng động đánh thức Donald: tiếng lớp tuyết bị ép chặt và kêu cọt kẹt dưới chân người.

Viện cớ một cơn sốt nhẹ, anh đã nằm trên giường cả ngày và ngủ cho đến chiều, một chiếc ghế chặn dưới nắm cánh cửa, mơ màng một cách dễ chịu khi ánh sáng tắt dần. Không có gì bất thường về các bước chân - vẫn còn có người đi lại - chỉ có điều các dấu chân tạo nên hình mẫu kỳ lạ, không đồng đều, khiến anh tỉnh khỏi cơn mụ mẫm thoải mái. Tuy không chú tâm, anh vẫn lắng nghe người ta bước đi, dừng lại, rồi bước tiếp một đoạn ngắn. Rồi lại dừng. Anh chờ đợi - mẹ kiếp! - nghe họ bước tiếp. Cuối cùng, anh chống hai cùi tay gượng ngồi dậy, nhìn ra khoảnh sân đang tối dần. Vài khung ánh sáng hình vuông chiếu ra, có lẽ là từ những văn phòng. Thoạt đầu anh không nhìn ra người ấy, nhưng đấy chỉ vì người này ở trong bóng tối; có lẽ anh ta đoán phòng của Donald trống vắng vì không có ánh sáng. Rồi Donald nhìn ra người kia: một người đàn ông mặc áo lông thú, với mái tóc dài sẫm màu. Anh thắc mắc toán đi tìm kiếm đã trở về chưa. Anh không nhận ra người này, và sau một lúc thấy là người này không ở trong toán đi tìm kiếm. Anh ta có bộ dạng lấp lấp ló ló, nhìn chung quanh mình với cử chỉ cẩn thận tột độ, di chuyển nhanh nhẹn như diễn viên kịch câm. Anh ta đã say bét nhè. Donald nhìn mà thấy buồn cười khi anh ta loạng choạng qua cái gì đó trong bóng tối, và càu nhàu. Rồi, khi không có tiếng nào đáp lại, anh bước đến các nhà kho và mất hút. Một người đã quá say nên không giúp gì được trong cuộc tìm kiếm. Donald lại nằm xuống, kéo tấm chăn lên tận cằm.

Có những người ở Pháo đài Edgar say sưa nhiều tháng, cả mùa đông không làm được tích sự gì. Quả là buồn khi thấy họ lâm vào tình trạng đó, có nghĩa là đời sống của họ sẽ ngắn ngủi. Tật say xỉn là căn bệnh ngày càng trầm trọng, và thoạt đầu Donald bị sốc khi thấy nhân viên lớn tuổi của Công ty không làm gì để ngăn chặn, mà lại còn cho phép nhân viên tải hàng được tự do uống loại rượu kém chất lượng. Khi anh thử trao đổi với Jacob thì anh này tránh né; chỉ vì rượu mà Jacob đã lụi con dao vào bụng Moody. Theo như Donald biết, từ lúc ấy Jacob đã không động đến giọt rượu nào. Chỉ có một lần Donald đem vấn đề ra bàn với Mackinley, để chỉ thấy Mackinley tròn đôi mắt nhợt nhạt nhìn mình với vẻ ngạc nhiên nếu không nói là khinh miệt. Mackinley chỉ chốt lại vấn đề bằng câu: “Cả thế gian làm việc theo cách đó.” Các thương nhân dùng rượu để dẫn dụ người đặt bẫy và nhân viên; nếu Công ty không cung cấp rượu thì sẽ bị mất lợi thế về tay những nhóm cạnh tranh với họ vốn không có tính đắn đo mà cũng không màng đến an sinh của người làm việc cho mình. Hành động theo cách khác sẽ là ngây thơ. Donald cảm thấy có điều gì đó không ổn trong cách biện luận này, nhưng không dám nói ra.

Sau một lúc, anh nghĩ về những gì Bà Ross đã nói cho anh nghe tối qua. Nesbit là người trẻ như anh, chỉ mới từ Scotland đến đây. Người có học thức và gốc gác khá. Một thư ký cấp thấp, nhưng có trí thông minh để thăng tiến trong Công ty. Các mối tương đồng khiến cho anh bị đánh động; hoặc đúng hơn, một khi đã xét qua các mối tương đồng thì sự khác biệt bắt đầu đánh động anh. Tật giật mình vì hay lo lắng và tiếng cười cay đắng của Nesbit, cùng nỗi căm ghét cuộc sống của bản thân. Anh ta đã sống ở xứ sở này lâu hơn Donald gấp hai lần, và dù chịu nhiều khổ sở vẫn nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ rời đi.

Donald thoáng rùng mình khi suy ngẫm tương lai của Norah, với khuôn mặt bầu bĩnh tỏ vẻ hồ nghi, cách ăn nói xấc xược, và vòng tay tạo thoải mái cho Nesbit. Trong quá khứ, anh đã nghe qua những mối quan hệ dị chủng - ngay ở Pháo đài Edgar cũng là thông thường - nhưng Donald vẫn nghĩ việc này sẽ chẳng bao giờ dính dáng đến mình. Anh nghĩ đời mình đã có chủ đích kết hôn (nhưng vì lý do nào đó, chi tiết vẫn chưa rõ ràng) với một cô gái nói tiếng Anh - một cô gái như Susannah, mà thực ra anh chưa hề dám mơ đến người nào đẹp đến vậy. Trong mười tám tháng đầu sống ở Pháo đài Edgar, có vẻ như chủ đích ấy ngày càng xa vời. Nhưng khi nhìn đến các cô gái bản địa hiện diện nhiều ở Pháo đài thì anh thối lui, dù cho cánh đàn ông giễu cợt anh về cô này cô kia vốn hay cười khúc khích trước mặt anh. Nhưng anh chưa hề gặp người phụ nữ bản địa nào đẹp như Nancy Eagles. Anh vẫn còn cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ thân người mềm mại của cô, bàn tay cô táo bạo và gây xúc cảm - tức là, nếu anh tự cho phép mình nghĩ đến. Nhưng anh không nghĩ đến. Khó mà tưởng tượng bằng cách nào Norah đã có cùng ảnh hưởng tạo kích động đối với Nesbit.

Bức thư viết cho Maria nằm trên mặt bàn. Đêm hôm qua, sau khi cơn tức giận qua đi, anh nhặt lên nhúm giấy đã bị vò nát, vuốt lại cho phẳng phiu rồi cố ép lại giữa những tờ giấy khác, đặt đôi giày ủng nén lên trên, nhưng anh e như thế vẫn chưa đủ. Có lẽ dù sao đi nữa thì cũng không nên viết thư cho cô. Có lẽ vò nát nó thành một nhúm là điều may mắn. Chính Susannah là người anh phải nghĩ đến, và anh nghĩ đến, cố nắm bắt hình ảnh của cô, để nghe trong đầu giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát như ánh bạc.

Khi ánh nắng chiều đã tắt hẳn, Donald ăn mặc tử tế. Anh đói bụng, mà anh nghĩ đó là dấu hiệu của sinh lực, và đi ra hành lang không một bóng người. Anh tìm thấy Nesbit trong văn phòng - chính là ánh sáng anh thấy từ bên kia khoảnh sân. Không thấy bóng của Stewart, Bà Ross hoặc của ai khác.

Nesbit đang ngồi ngã ra khỏi bàn với vẻ mặt nhăn nhó, tấm lưng gù gù vươn thẳng. Anh ngoác miệng ngáp, lộ ra những chiếc răng hàm đen đúa: “Sổ sách kế toán chết tiệt. Tai ương trong đời tôi. Một trong những tai ương. Có lúc một kế toán viên làm việc ở đây - Archie Murray. Cái anh trai trẻ trông tức cười - như con chuột. Nhưng từ khi anh ta đi, tôi phải tự làm lấy, và đây không phải là điểm mạnh của tôi, không ngại gì mà cho anh biết. Chẳng phải là điểm mạnh gì cả.”

Donald thoáng có ý nghĩ muốn ngỏ lời giúp anh ta, nhưng cảm thấy mình không tha thiết lắm.

“Không phải là chúng tôi có thu nhập dồi dào để xử lý. Nhiều chi tiêu hơn là thu nhập, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Ở chỗ anh làm thì xoay xở như thế nào?”

“Khá tốt, tôi nghĩ vậy. Nhưng rồi tụi tôi là thương điếm chứ không phải điểm xuất xứ của sản phẩm. Tôi đoán có lúc - nhiều năm trước, trước khi có nhiều người - cả xứ sở này có đầy lông thú.”

Nesbit lộ vẻ u sầu: “Tôi thấy không khi nào vùng quanh đây có nhiều thứ gì cả. Anh biết người bản địa gọi vùng này là gì không? Xứ Chết đói. Ngay cả mấy con chồn chết tiệt cũng không tìm ra thứ gì để ăn - và dĩ nhiên chúng đều là của nợ. Đến lúc làm một chầu.”

Từ nơi đang ngồi, Nesbit lượn qua Donald rồi rút ra một chai whisky mạch nha phía sau một vài cuốn sổ kế toán: “Đi nào.”

Donald đi theo Nesbit vào phòng khách của anh này - một căn phòng nhỏ, trơ trụi kế bên phòng làm việc, chỉ có một đôi ghế bành nhồi quá dầy và vài bức chạm nổi không rõ loại gì.

“Chiều nay ông Stewart ở đâu?” Donald hỏi khi nhận một ly rượu đầy. May mắn là nó ngon hơn loại rượu rum ở Pháo đài Edgar. Donald vẩn vơ tự hỏi tại sao thế - nơi vùng hoang vu, không có thức ăn đàng hoàng và công việc quản gia lôi thôi - cư dân của Nhà Hanover lại uống rượu như vua chúa.

Nesbit nói mơ hồ: “À, đi đây đi đó... Đây đó. Anh biết mà...” Anh nghiêng người tới trước trên ghế bành, chăm chăm nhìn Donald làm anh luống cuống: “Con người đó... Con người đó là vị thánh. Một vị thánh tuyệt đối.”

Donald thận trọng nói: “À...”

“Điều hành nơi này là một nhiệm vụ chẳng ai khen thưởng, anh tin tôi đi, nhưng ông ấy không bao giờ than van. Người ta không bao giờ nghe ông ấy phàn nàn gì về việc này, thực sự không hề giống công việc của anh. Và ông ấy là người có thể làm được bất kỳ việc gì; năng lực cao nhất, ở mức cao nhất.”

Donald nói có phần cứng nhắc: “Vâng, có vẻ như ông ấy có năng lực.”

Nesbit nhìn anh với vẻ tính toán: “Tôi dám nói anh hẳn nghĩ người nào bị điều ra tận cùng địa ngục này phải là nhân viên hạng hai, và có thể đúng trong trường hợp của tôi, nhưng không đúng trong trường hợp ông ấy.”

Donald cúi đầu - và rồi lắc đầu - một cách lịch sự, hy vọng mỗi cử chỉ tán đồng và phủ nhận được gán ghép đúng cách vào mỗi ý nghĩa.

“Người bản địa yêu mến ông ấy. Họ không thực sự đánh giá nhiều về chúng ta, và đó là ý nghĩ hai chiều nên cũng đúng lý, nhưng ông ấy... họ xem ông như là một thứ thần linh nhỏ. Bây giờ ông ấy đang đi ra ngoài, nói chuyện với họ. Trong một lúc, khi ông ấy trở về với tin tức của Nepapanees, tôi nghĩ tình hình có thể trở nên xấu đi, nhưng ông đi ra ngoài đó mà ban phát ân huệ cho họ.”

“À. Hừm. Đáng ngưỡng mộ,” Donald thì thầm, tự hỏi Jacob có khi nào được ai ban phát ân huệ hay không. Anh cũng nhớ lại một cách sống động người quả phụ bị bỏ mặc trên nền tuyết trong khi Stewart và Nesbit đi vào. Nhưng thật lạ kỳ, cho dù Donald lấy làm tự hào đã có đầu óc độc lập khi nghe lời tán dương nhưng không cả tin, lại quá dễ mà tin rằng người ta sùng bái Stewart. Anh thấy mình bị Stewart cuốn hút gần như ngang bằng việc anh kinh tởm Nesbit.

Nhìn vào chất rượu màu hổ phách trong ly mình, Nesbit nói: “Tôi biết mình là hạng hai. Có thể tôi không biết nhiều lắm, nhưng điều này thì tôi biết.”

Donald thắc mắc có phải Nesbit đang đánh mất chính mình hay không; trong một lúc anh có ý nghi ngờ kinh khủng là Nesbit sắp bật khóc.

Nhưng rồi Nesbit mỉm cười, với dáng vẻ cay đắng yếm thế mà anh đã quen thuộc: “Moody, còn anh thì thế nào, anh hòa nhập ra sao trong sự việc?”

“Tôi không rõ anh muốn nói gì.”

“Ý tôi nói, anh có phải là hạng hai không? Hoặc là hạng nhất?”

Donald gượng cười.

“Hoặc có lẽ anh chưa biết.”

“Tôi à... Tôi không đồng ý đó là cách phân biệt hữu ích.”

“Tôi không nói nó hữu ích. Nhưng nó hiển nhiên. Tức là, nếu anh có can đảm mà nhìn ra.”

“Tôi không nghĩ vậy. Anh có thể cho rằng chấp nhận đánh giá chính mình là can đảm, nhưng tôi thấy làm như thế là rũ bỏ trách nhiệm trong cuộc sống. Tư tưởng yếm thế như vậy khiến cho anh nghĩ mình có quyền từ bỏ mà bản thân không cần nỗ lực. Tất cả thất bại đều được biện minh trước.”

Nesbit mỉm cười một cách khó chịu. Donald thích cách trao đổi nửa nghiêm túc như thế này, mà lúc trước anh đã tham gia - thường là cuối một buổi tối mùa đông dài - nhưng vết thương bắt đầu hành hạ anh trở lại.

“Anh nghĩ tôi đã thất bại hả?”

Thình lình hiện ra trong đầu Donald hình ảnh của Nesbit bị kẹp trong vòng tay màu gỗ xà cừ của Norah, và cảm thấy có lỗi vì biết rõ con người anh ta. Hầu như cùng lúc, trong đầu anh, gương mặt của Susannah kết tinh rõ ràng và sắc nét tuyệt vời; sau cả thời gian dài dò dẫm trong sương mù, mỗi mảng tụ lại đúng chỗ và kết hợp lại với nhau, thế là cô hiện ra: toàn vẹn, chuẩn xác, yêu kiều. Cùng lúc, anh nhận ra với cú sốc rằng tình cảm của anh đối với cô có giới hạn, chủ yếu chỉ có lòng ngưỡng mộ và kính sợ. Anh bị thôi thúc phải chạy về phòng mình và viết nốt bức thư cho Maria. Con người Maria tinh tế, khó đoán. Thật lạ kỳ. Thật lạ kỳ nhưng cũng thong dong, niềm cảm nhận như thế. Thật tuyệt diệu! Anh kiềm hãm nụ cười về ý nghĩ này.

“Anh có nghĩ vậy không?”

Donald phải căng óc để cố nhớ xem câu hỏi là gì.

“Không, không phải. Nhưng tôi có thể tưởng tượng nỗi chán ngán ở một nơi chốn như thế này. Tôi tin mình cũng cảm thấy thế nếu rơi vào tình cảnh này. Người đàn ông cần có bạn bè, và cuộc sống đa dạng. Tôi biết mùa đông dài như thế nào, mà đó là tôi chỉ mới kinh qua mùa đông đầu tiên. Một người bạn thì không đủ, dù cho người này là hạng nhất.”

“Hoan hô! Này, anh có nghe gì không?” Nesbit nốc cạn ly rượu và đang chuẩn bị rót thêm vào ly thì dừng lại, nghiêng đầu nghe ngóng. Donald lắng nghe, đoán đó là bước chân trong hành lang, nhưng không có ai.

Nesbit lắc đầu rồi rót thêm whisky vào ly của Donald, cho dù anh này chưa uống xong ly đầu.

“Moody à, anh là người bạn tuyệt diệu. Tôi ước gì anh làm việc ở đây. Anh có thể gỡ rối cho các tài khoản mà tôi đã xới tung lên trong vòng hai năm nay.” Nesbit cười thoải mái, vẻ cay đắng đã biến mất.

Donald nói mà không ăn nhập gì với vấn đề đang trao đổi: “Hồi nãy tôi thấy một nhân viên của anh ngoài kia. Anh ấy không đi cùng nhóm tìm kiếm, nhưng lại say khướt nên tôi dám nói chỉ làm vướng víu người khác chứ chẳng giúp ích gì.”

Nesbit lại có tia nhìn xa xăm: “À... Đúng. Đó là vấn nạn mà chúng tôi vấp phải trong mùa đông, như tôi tin anh đã biết rõ.”

“Anh ấy là nhân viên tải hàng phải không?” Donald muốn hỏi ngay người này là ai, nhưng e như thế là quá đường đột.

“Tôi không rõ anh nói tới ai. Theo tôi biết, tất cả đàn ông ngoại trừ Olivier đã đi tìm kiếm ở con sông. Có lẽ anh đã thấy anh này.”

“Không, không, chắc chắn đó là một người lớn tuổi hơn. Thân người nặng hơn, anh biết không. Và có bộ tóc dài.”

“Ánh sáng yếu đó có thể đánh lừa thị giác của anh. Này, có lần tôi nhìn qua cửa sổ - đó là mùa đông năm rồi và tôi đang ngồi ở bàn giấy phòng bên - và suýt đứng tim. Có một con nai sừng tấm đứng sát bên ngoài, cao hơn hai mét - đang trừng trừng nhìn tôi. Tôi thét lên một tiếng kinh hoàng rồi chạy ra khỏi cửa nhưng khi ra ngoài sân thì không thấy nó đâu. Cũng không có dấu chân. Dĩ nhiên là nó không có cách nào vượt qua vách đá, nhưng tôi có thể thề trên một chồng Kinh Thánh là nó đã ở đó. Thử tưởng tượng mà xem!”

Donald chua cay nghĩ có lẽ anh ta say rồi. Donald biết chắc người đàn ông ngoài sân không phải là Olivier, và nhận ra - thực sự, như thể đầu óc anh đã đi ngủ trong mấy ngày qua - rằng một người chưa được xác định có thể là chuyện đáng cho họ quan tâm.

Đáng quan tâm đến nỗi một lúc sau, khi thuận tiện anh xin kiếu để lẻn ra ngoài, xem xét lớp tuyết bên ngoài khung cửa sổ phòng anh. Chính lúc ấy, anh thấy rằng không hiểu vì lý do nào, tiêu chuẩn quét dọn đã được nâng cao: tuyết trên mặt sân đã được quét sạch.

༺༒༻

Sault St Marie hoàn toàn khác biệt so với Caulfield. Đó là nơi hiện diện nhiều sự giao nhau - hai hồ nước hợp lưu với nhau, một hồ đổ nước vào hồ kia giữa những ghềnh đá bướng bỉnh; hai con đường đến từ miền tây-bắc và miền đông cắt nhau; và đường biên giới của hai quốc gia. Tàu thuyền tụ hội ở đây từ phương bắc, từ phương đông và từ dưới nước Mỹ, từ Chicago và Milwaukee, những nơi xa lạ hơn và suy đồi hơn so với thương điếm hoang dã nhất. Nhưng lý do bề ngoài để đi đến đây là Nhà hát Grand Western, mà gia đình Knox đến tối hôm qua để xem vở Hôn lễ của Figaro được nhiều người nói đến. Yếu tố lôi cuốn chính là Delilah Hammer thủ vai nhân vật Cherubino, và ý tưởng cho một phụ nữ sắc tộc Mohawk hát nhạc Mozart đã được các nhà báo bàn tán trong nhiều tháng. Xem cô hát là đủ mãn nguyện. Thế nên Bà Knox mua vé tàu hơi nước, và gia đình bất chấp mùa đông mà đi.

Đối với Maria - người không có khiếu thưởng thức âm nhạc - cô ca sĩ trông thu hút và có phần cợt nhả, đặc biệt trong trang phục con trai, với mái tóc cột lên dưới một chiếc nón mềm. Cô có nét mặt như trai trẻ với đôi mắt đen thật to càng nổi bật thêm nhờ hóa trang, và miệng rộng với hàm răng thật trắng. Cô trông khá ấn tượng so với các nữ ca sĩ khác vốn trông béo tròn; Maria tự hỏi liệu Cô Hammer thích thủ một trong những vai ấy hay không. Khán giả - sự pha trộn của những người yêu nhạc kịch đã chưng diện cho buổi diễn và những người chỉ muốn thay đổi không khí - rộ lên tiếng tán thưởng mà trong khung cảnh như thế này thì có lẽ không khó gì mà đạt được. Cha cô càu nhàu cô ca sĩ không thích hợp với vai diễn (ông có ý nói đến giọng ca chứ không phải sắc tộc của cô), rồi ông và mẹ cô tranh cãi với nhau về việc chỉ huy dàn nhạc. Trong một lúc, có vẻ như ông trở về với con người của mình.

Bà Knox đã lo lắng về ông chồng, ông bị ghét bỏ - hoặc bị cho về hưu; không ai rõ - đã là tệ hại, nhưng còn tệ hại hơn nữa là ông ngồi trong phòng đọc sách từ giờ này đến giờ khác mà không làm gì; đầu óc tinh tế của ông không suy nghĩ, và bà tin chắc tinh thần của ông đã bị nghẽn, thể chất bị hoại dưỡng. Khi hai người tranh luận, bà cảm thấy sự sôi nổi đã chùng xuống. Nói chung, chuyến đi xem dường đáng công.

Tuy nhiên, đến sáng hôm sau, ông lại rơi vào tình trạng thờ ơ trong giao tiếp. Và Maria thấy đầu óc mình lại vương vấn với bộ mã kia.

Sau chuyến đến thăm Sturrock, Maria giam mình trong phòng với bản chép các dấu hiệu, cố quên đi tình trạng gia đình trong khi vẫn hoang mang với nội dung. Thoạt đầu cô thử chia các đường thành từng nhóm theo cách các đường này được sắp xếp với nhau - dù cho việc này giả định là Sturrock đã chép lại chính xác. Qua một bài báo trong tạp chí Edinburgh Review và qua cảm quan của mình, cô nhận ra mỗi dấu hoặc nhóm của dấu không thể đại diện cho một chữ cái theo ngữ hệ La Mã, nhưng có thể biểu hiện một từ hoặc một âm thanh. Sau khi sắp xếp đi và sắp xếp lại các nhóm và thế vào các âm thanh và từ, tất cả đều tạo ra một mớ lộn xộn những âm thanh vô nghĩa (da-ya-no-ji-te! ba-lo-re-ya-no?), cô đành dẹp qua một bên và cảm thấy càng vô vọng thêm so với lúc bắt đầu. Không có cơ sở nào để mong Maria Knox giải được điều bí ẩn; một cô gái dân dã ít học với vài tựa báo được đặt mua và chỉ với một bài báo lại muốn giải mã Bản đá Rosetta[58] như là bước khởi đầu. Nhưng các dấu có góc cạnh nhảy múa trong đầu cô, xâm chiếm những giấc mơ của cô, trêu tức cô với một ý nghĩa đong đưa ngoài tầm với của cô. Cô có ước muốn nguy hiểm là được thấy tấm thẻ nguyên thủy, rồi đầu óc cô chuyển về miền bắc, nơi có lẽ Francis và anh Moody đang nắm giữ manh mối.

Cô đẩy phần thức ăn sáng còn lại vòng quanh chiếc đĩa. Những mẩu trứng và nước sốt bít tết cô đặc thể hiện sự trừu tượng của mẫu hình thướt tha.

Cô đẩy chiếc ghế để đứng dậy: “Nếu mẹ không phiền... con muốn đi dạo một lát.”

Bà Knox nhíu mày nhìn cô con gái lớn: “Được rồi. Cẩn thận nhé?”

“Vâng, Mẹ ạ.” Maria đã bước nửa đường đến cánh cửa. Quả là nực cười khi mẹ cô nghĩ bất kỳ nơi nào bên ngoài Caulfield đều là hang ổ tội lỗi, nhung nhúc người da trắng buôn nô lệ. Bà sẽ phải làm quen với thực tế nếu Maria đi Toronto, và cô đã nhất quyết sẽ đi vào mùa hè tới.

Bên ngoài khách sạn, Maria rẽ sang phải, hướng về khu bờ sông. Dọc dài theo bờ hồ là hàng loạt những cầu tàu và nhà kho, thu thập hàng hóa trên cả miền bắc. Đây là cuộc sống náo động, xô bồ của thương mại, của kinh doanh; bẩn thỉu và ồn ào và hiện thực, khác hẳn với Caulfield và cửa hàng John Scott. Cô đã được cảnh báo phải tránh xa khu vực này, là một phần của những thứ hấp dẫn trong thị trấn. Những người đàn ông đi vượt qua cô cho kịp với những cái hẹn gấp với các chuyến tàu đến, giá cổ phiếu, buổi họp nghiệp đoàn. Đối với một cô gái quê được che chở thì đấy như là quả tim của mọi sự việc.

Cũng có những khách sạn và nhà nghỉ ở khu vực cuối thị trấn này; không đàng hoàng bằng Victoria và Albert, cách xa khỏi nhà hát. Cô thấy một phụ nữ và một đàn ông cùng bước ra và lơ đãng nhìn họ cho đến khi cô rùng mình bị sốc khi nhận ra người đàn ông là Angus Ross, nông dân ở Sông Dove. Cha của Francis. Khi ông quay đầu, cô thấy gương mặt ông; khuôn mặt trông nghiêng thô thiển, mái tóc màu cát. Cô bị sốc bởi vì người phụ nữ đi cùng ông không phải là Bà Ross. Trong nhiều tuần, người ta đã không gặp Bà Ross. Maria cảm thấy nóng bừng với nỗi nhục nhã không phải của cô. Có điều gì đó không ổn lắm, cho dù Ông Ross và người phụ nữ chỉ đi băng qua con đường. Ông không trông thấy cô, và theo bản năng cô thối lui và quay đầu xem xét qua khung kính của một cửa hàng gần cô nhất. Chẳng có hàng hóa gì, mà chỉ là một danh mục của các món, không giải thích cho vẻ hoang mang của cô.

Cô chờ cho đến khi hai người kia khuất khỏi tầm mắt. Trước đây cô chưa từng thấy hành động thiếu khuôn phép, nhưng cô tin đấy là thiếu khuôn phép. Xét cho cùng, Bà Ross đang ở đâu? Họ chỉ nghe ông nói là vợ ông đã đi tìm đứa con trai. Vì đã đọc qua mấy quyển truyện ghê gớm ngoài những truyện chín chắn, thình lình Maria nghĩ ra rằng có lẽ Ông Ross đã từ bỏ vợ mình. Còn Francis thì sao? Anh Moody và người bạn anh đã vọt đi tìm anh ta, nhưng có lẽ chẳng bao giờ tìm được. Có lẽ vì vậy mà họ vẫn chưa trở về. Có lẽ Ông Ross đã giết anh Jammet cũng nên...

Đến đây, Maria kiềm chế lại, tự nhủ không nên làm mồi cho mấy chuyện hão huyền. Nhưng cô vẫn cảm thấy run rẩy. Có lẽ cô nên dùng bữa sáng cho xong. Có lẽ - cô nhìn quanh, xem có ai đang nhìn mình hay không - có lẽ, do tình huống khác thường, cô nên tìm thứ gì đó để uống.

Phấn chấn vì táo bạo, Maria chọn một quán bar trông yên tĩnh cách xa bờ sông và bước vào. Cô hít một hơi thở sâu, nhưng không có ai ở đây ngoại trừ người quản lý và một người đàn ông đang ngồi ăn, lưng quay ra cánh cửa.

Cô gọi một ly vang nâu và một miếng bánh nướng mâm xôi hồng, ngồi ở một bàn trong cùng, phòng trường hợp có người quen biết đi ngang qua. Như là Bà Ross. Tim cô đập nhanh khi nghĩ đến điều này. Cô không bao giờ có lý do để thích hoặc không thích Bà Ross - người phụ nữ này khá xa cách - nhưng bây giờ cô cảm thấy xót thương cho bà. Trong số tất cả những người, cô và Bà Ross có lẽ giống nhau về nhiều mặt.

Phần rượu và bánh cô gọi được mang đến. Để đôi mắt có việc bận rộn, cô rút ra các mảnh giấy mà thử giải mã lần nữa. Cô nhận biết người khách hàng kia đã để ý đến mình, và lo sợ ông ta có thể đến ngồi cùng cô. Cô thấy chi tiết mà lúc trước mình không để ý: ông ta là người Da Đỏ có bộ mặt trông khá bất hảo, và nhất quyết không nhìn về phía ông ta nữa. Chẳng bao lâu, cô rút ra một cây viết chì và bắt đầu ghi chú kết quả công việc của mình, là một hàng dài những từ và âm tiết vô nghĩa.

Cô chăm chú vào công việc cho đến nỗi không để ý người quản lý đang đứng bên cạnh, cho đến khi anh ta đằng hắng: “Xin lỗi cô. Cô muốn dùng thêm không?” Anh đang cầm chai vang nâu trên tay.

“À. Cảm ơn, vâng. Bánh nướng rất ngon.” Cô lấy làm lạ vì bánh quả là ngon.

“Cảm ơn. Cô đang giải câu đố hở?”

“Gần như vậy.” Anh có đôi mắt đẹp, và bộ râu quai nón màu nâu rất dài. Anh có đầu óc thông minh không ngờ.

“Tôi đang cố tìm hiểu một bộ mã. Nhưng tôi nghĩ vô vọng, vì không biết nó được viết theo ngữ văn nào.”

“Ý cô nói là giống như Pháp, hoặc Ý?”

“Vâng... tuy tôi nghĩ đây là một ngữ văn của người Da Đỏ, và có nhiều thứ.”

“À. Thế thì cô cần sự giúp đỡ.”

“Đúng vậy. Sự giúp đỡ từ ai đó thông thạo tất cả các thứ này.” Cô nhún vai và mỉm cười, vì không chắc xảy ra việc này.

“Này cô, tôi có đề nghị được không? Cô thấy người ngồi đằng kia không? Ông ấy biết nhiều thứ tiếng của người Da Đỏ. Nếu cô muốn, tôi có thể giới thiệu cho cô.”

Anh thấy cô liếc nhìn với vẻ hồ nghi về phía bờ vai gù và mái tóc nhờn cuộn quanh cổ áo. “Ông ấy hoàn toàn... dễ chịu.” Anh mỉm cười như thể đã không tìm ra ngôn từ chính xác, nhưng thấy cũng ổn. Maria cảm thấy ngượng ngùng vì một sự đe dọa. Đó là hậu quả của việc đi vào nơi chốn bất hảo; cô bị ghim trên thanh gươm của tính liều lĩnh của mình. Cô nhìn các mảnh giấy và cảm thấy mình như là đứa học trò ngốc nghếch.

“Dĩ nhiên là cô không muốn. Hãy quên tôi nói gì. Tôi đã xấc xược.”

Maria ngồi thẳng dậy. Nếu muốn trở thành một học giả, một nhà tư tưởng, thì cô không nên né tránh con đường tri thức chỉ vì một cổ áo nhờn.

“Không phải, anh rất... tử tế. Cảm ơn. Tức là, nếu ông ấy không phiền hà.”

Người quản lý bước đến bàn kia và cất tiếng với ông khách. Maria thoáng nhìn thấy đôi mắt có những tia đỏ và nghĩ đi nghĩ lại về quyết định của mình. Nhưng ông đã đứng dậy và đi về phía bàn cô ngồi, cầm theo ly của ông.

Cô cười nhẹ với ông, hy vọng đó là cách cười của nhà chuyên nghiệp: “Xin chào. Tôi là Cô Knox. Ông là Ông...?”

Ông ngồi xuống: “Joe.”

“À, vâng, cảm ơn ông đã...”

“Fredo nói cô cần người hiểu biết các ngôn ngữ Da Đỏ.”

“Vâng. Tôi có một phần bộ mã, và, hừm, một người bạn của tôi nghĩ nó có thể là một ngữ văn của người Da Đỏ. Tôi đã cố giải đoán, nhưng vì tôi không biết đó là ngữ văn nào...”

Cô đã cười quá nhiều, rồi khẽ nhún vai, khi đối diện với ông cô càng lo sợ hơn. Ông già hơn là cô nghĩ lúc đầu, với những vệt trắng trên mái tóc. Làn da dưới đôi mắt nhăn nhúm, hai gò má chảy xệ. Có những vệt đỏ trong tròng trắng hai con mắt. Ông thở ra mùi rượu rum.

Nhưng khuôn mặt vẫn còn sắc sảo, hoặc xưa kia là sắc sảo: “Người bản địa không có chữ viết, thế thì tại sao bạn cô lại nghĩ vậy?”

“Tôi biết, nhưng, à... ông ấy đã nghiên cứu. Và những hình thù nhỏ này - ông xem, đây chỉ là một bản chép lại, nhưng có những nét vẽ của người Da Đỏ mà tôi đã từng thấy.”

Tuy ông trông ghê tởm nhưng không hiểu sao cô đẩy mảnh giấy về phía ông. Cô muốn ông ít nhất xem cô là nghiêm túc.

Ông xem xét mảnh giấy một hồi lâu nhưng không nói gì. Maria ước gì mình trở lại khách sạn.

“Đây là bản chép lại của cái gì?”

“Một tấm thẻ bằng xương.”

Ông cầm lên những mảnh giấy khác của cô, những mảnh giấy viết các kết quả: “Mấy cái tên này là gì?”

“À, đó không phải là tên; chỉ là kết quả tôi tìm ra khi thử các từ và âm tiết, ông biết chứ, thay thế cho các dấu ở đây...”

Ông xem xét các tờ giấy, giơ lên ánh sáng để nhìn cho rõ hơn. Ngón tay ông chỉ vào tờ giấy: “Deganawida. Ochinaway. Có nghĩ nó phát âm như vậy hả?”

Thái độ của ông đã trở nên hùng hổ hơn. Maria ngẩng mặt lên với vẻ thách thức. Phương pháp của cô không có gì là sai. Cô đã học phương pháp này từ tạp chí Edinburgh Review.

“À, tôi chỉ phỏng đoán, ông phải đặt ra vài giả thuyết về âm tiết mà các dấu có thể tạo ra, rồi thử kết hợp. Tôi đã thử nhiều cách. Đây là kết quả của một... một kết hợp của...”

Người đàn ông ngả người lại và mỉm cười với cô; khuôn mặt ông nhăn nhó vẻ giễu cợt và thù địch: “Này cô, có phải đây là một hình thức đùa nghịch không? Ai đã nói với cô tôi ở đây?”

“Không, dĩ nhiên là không phải. Tôi không rõ... tôi không biết ông là ai!” Cô nhìn quanh, lo lắng tìm Fredo, nhưng anh này đang bận phục vụ vài khách mới vào.

“Ai vậy? Có phải là tên McGee mập khốn kiếp đó không? Hả? Hay là Andy Jensen? Có phải Andy không?”

“Tôi không biết ông đang nói gì. Tôi không biết ông ngụ ý gì, đây là chuyện không đúng chỗ.”

Bây giờ Fredo đã nghe giọng nói của cô; anh liếc nhìn qua cô... cuối cùng thì anh đang đi về phía cô.

Joe vẫn khăng khăng: “Bạn cô tên gì?”

“Thưa cô, tôi xin lỗi. Joe, anh đi đi.”

“Tôi chỉ muốn biết tên anh đó.”

“Có vẻ như ông... Joe nghĩ tôi đang chơi khăm ông ấy.”

“Joe, xin lỗi cô ấy đi. Nhanh lên.”

Joe nhắm đôi mắt và cúi đầu; thái độ cao nhã một cách kỳ quặc mang lại cho gương mặt xấu xí của ông một vẻ tinh tế vốn đã mờ đi với thời gian và rượu.

“Tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn biết tên người bạn của cô đã có cái... bất kỳ cái gì cô gọi.”

Maria lấy lại lòng can đảm khi có Fredo đứng bên cạnh. Và có vẻ gì đó trên gương mặt ông khi ông nhắm đôi mắt, vẻ gì đó cho thấy nỗi khổ đau lâu ngày không dứt, thậm chí u buồn, khiến cho cô muốn trả lời: “À, đó là Ông Sturrock, vì ông đã hỏi đến. Và đây không phải là chơi khăm. Tôi không chơi khăm.”

“Sturrock?” Joe lộ vẻ nghiêm túc. Cả tư thái của ông sắc sảo thêm, như thể những mối dây liên lạc đã được kết nối, làm cho ông biến đổi: “Tom Sturrock. Người Tìm kiếm phải không?”

“Đúng... là ông ấy. Ông biết ông ấy à?”

“Có lúc tôi biết. Tôi chúc cô được may mắn, và nói với bạn cô Kahon’wes gửi lời hỏi thăm.”

Maria nhíu mày, vật lộn với cái tên: “Ga-hoo ways?”

Người đàn ông, cho dù tên là gì, đứng dậy đi ra khỏi quán bar. Maria nhìn Fredo để mong có lời giải thích.

Nhưng anh cũng ngạc nhiên như cô: “Tôi xin lỗi, thưa cô, tôi không biết ông ấy như vậy. Bình thường ông thầm lặng, chỉ đến uống rượu, nhưng hoàn toàn dễ chịu. Để tôi mang cho cô một ly vang nâu nữa, hoặc một miếng...”

“Không, cảm ơn anh. Tôi phải đi. Cha tôi đang mong. Bao nhiêu...?”

“Không, không, tôi không thể để cho cô trả tiền.”

Sau ít phút hai bên kiên quyết, Maria chịu thuyết phục, cảm thấy đây là một tiền lệ tốt để mang ơn một người lạ. Cô ra về với tập giấy và những lời cảm ơn, nhìn thẳng về phía trước trong khi vội vã rời khu bờ sông.

Buổi sáng hóa ra là một cuộc phiêu lưu mà cô không định trước; con đường tri thức đầy chông gai và hoang mang. Nhưng ít nhất cô sẽ có chuyện để kể cho ông Sturrock nghe, và có lẽ chuyện nào đó để vực dậy cha cô từ trạng thái thờ ơ. Với cảm giác nhẹ nhõm khi bỏ lại đằng sau bến tàu, Maria bước chậm lại để tạo bố cục cho câu chuyện, và trong khi sắp đặt lại cuộc phiêu lưu trong lời kể đầy hồi hộp với một nữ anh hùng dũng cảm, cô gần như tự thuyết phục rằng mình đã không sợ hãi chút nào.

༺༒༻

Ánh sáng lờ mờ dưới tán cây và trời tối sớm, nên họ dừng lại, bởi vì hai đứa trẻ đang mè nheo. Espen cố giấu nỗi sợ hãi, nhưng anh không rõ xây chỗ ẩn náu bằng tuyết như thế nào, và cũng không biết cách đốt lửa khi lớp tuyết dày như thế này. Anh quét một khoảnh trên nền đất, mất một hồi lâu mới đốt được đống lửa với những cành cây ẩm ướt, nhưng trước khi nước sôi, khối tuyết được đắp chung quanh đã tan chảy và dập tắt ngọn lửa. Hai đứa trẻ nhìn qua màn lệ vì thất vọng và lạnh. Line luôn cất tiếng trấn an, cổ họng khô khốc vì khát, đôi môi nứt nẻ vì lạnh. Cô chưa bao giờ cất tiếng nhiều đến thế trong đời; cô nhất quyết không đầu hàng, không tỏ ra sợ hãi, không khóc.

Cuối cùng, khi Torbin và Anna đã thiếp đi trong giấc ngủ mệt nhọc, cô nói: “Ngày mai ta sẽ đến con sông. Tuyết làm ta đi chậm lại, nhưng ta sẽ đến đó.”

Trong một lúc, Espen không trả lời. Cô chưa từng thấy anh buồn rầu như thế. “Em không thấy nó hả?”

“Thấy cái gì? Anh đang nói gì?” Trong trí tưởng tượng của cô, rừng đầy rẫy những gấu, người Da Đỏ tay vung cây rìu, chó sói mắt sáng như ngọn đèn.

“Dấu vết của chúng ta. Sáng nay chúng ta đi trên chính dấu vết của chúng ta. Anh đã thấy nó, rồi quay lại. Ta đã đi theo những vòng tròn.”

Line nhìn lại anh, trong khoảnh khắc tự hỏi việc này có nghĩa là gì.

“Line, ta đã đi theo những vòng tròn. Anh không biết ta đi theo phương hướng nào. Thiếu la bàn hoặc không nhìn thấy mặt trời thì anh không biết gì hết.”

Cô cần dẫn dắt anh, trấn an anh, cho anh biết cô vẫn nắm quyền chỉ đạo: “Khoan đã. Ta đã lạc lối. Thế thì ta lạc lối một lần. Có lẽ đó không phải là vòng tròn lớn. Ta không phải đi theo những vòng tròn. Cây cối thay đổi, cao hơn, vì vậy ta hẳn đang đi xa hơn về hướng nam. Em đã để ý điều này, rất rõ ràng. Ta chỉ cần tiếp tục đi. Em tin chắc ngày mai ta sẽ đến con sông.”

Anh không tỏ vẻ như đã tin cô. Anh nhìn xuống, giống như đứa trẻ ngỗ nghịch không muốn đầu hàng nhưng không biết đi đâu.

Cô ôm lấy khuôn mặt anh trong hai bàn tay vẫn còn mang găng - trời quá lạnh nên không thể thân mật hơn: “Espen... anh yêu. Đừng thối chí bây giờ. Chúng ta đã tiến gần đến đích. Khi đến Caulfield và khi có nơi ăn chốn ở, ta sẽ ngồi trước một lò sưởi và sẽ cười đùa về chuyện này. Quả là một cuộc phiêu lưu để bắt đầu cuộc sống bên nhau!”

“Nếu ta không đi tới Caulfield thì sao? Con ngựa của anh bị bệnh. Chúng không ăn đủ no. Ngày mai ta có thể đi tới hồ! Rồi em sẽ cảm thấy ngu xuẩn.”

Cô hôn anh, làm cho anh cười.

“Em là ma nữ[59]. Khó mà tin được. Thảo nào em luôn muốn gì được nấy.”

“Hứ!” Line mỉm cười, nhưng nghĩ anh vừa thiếu công tâm, và cũng sai lầm. Cô có muốn Janni mất tích trong vùng hoang dã không? Cô có muốn đến sống ở Himmelvanger? Tuy thế, ít nhất anh vui tính hơn, và đó là điều cốt yếu. Nếu cô có thể giữ cho anh tiếp tục đi, giữ cho tất cả tiếp tục đi, thì tất cả sẽ ổn.

Khi hai người nằm bên nhau trong chỗ trú ẩn tội nghiệp, ôm lấy hai đứa trẻ ở giữa, Line nghe những âm thanh qua giác quan mệt mỏi: tiếng nổ như súng lục của nhựa cây đóng băng, băng tuyết rơi từ những nhánh cây. Và có một lần, từ nơi rất xa xôi, cô nghe tiếng chó sói tru vang vọng vào màn đêm trống vắng, và cô toát mồ hôi cho dù trời lạnh.

Sáng hôm sau, con ngựa của Espen từ chối di chuyển. Nó đã ăn vỏ cây rồi đi tướt, phân lỏng nhỏ giọt ở vùng hông và nhuộm bẩn nền tuyết. Nó đứng với bộ dạng thật tội nghiệp. Espen cố ép nó ăn bột yến mạch trộn trong nước ấm, nhưng nó quay đầu đi. Cuối cùng, khi họ tiếp tục lên đường, Espen phải đi bộ dắt con ngựa của mình, còn hai đứa trẻ ngồi trước Line trên lưng ngựa của cô. Dắt - hoặc kéo thì hơn - một con ngựa còn khó khăn hơn là đi bộ một mình, và sau một tiếng đồng hồ Espen gọi Line đến bàn bạc.

“Việc này là điên rồ. Nếu để nó lại thì ta đi nhanh hơn. Nhưng việc này là quá tàn nhẫn. Nếu ta đến gần con sông thì sao?”

“Hãy đi thêm chút nữa. Có thể nó sẽ khỏe hơn. Tuyết đã ngưng rơi và trời đang ấm hơn.”

Đúng thế: tuyết đã hầu như ngưng rơi hẳn và ít nhất ở vài chỗ lớp tuyết trên mặt đất có vẻ như mỏng hơn.

“Càng đi thêm càng khó khăn hơn. Nó chỉ muốn đứng yên một chỗ. Anh nghĩ chẳng bao lâu nó sẽ quỵ xuống. Nó làm anh quá mệt.”

“Anh muốn em dắt nó một đoạn không? Anh có thể ngồi lên với Torbin và Anna cho đến khi khỏe lại.”

“Đừng có ngốc. Em không làm được. Không... em không làm được đâu.”

Con ngựa - tên là Bengi, dù Line đã tự dặn lòng không nghĩ đến nó qua cái tên - đang dỏng tai về phía hai người. Lưng nó trông trũng hơn hôm qua, đôi mắt lờ đờ.

“Nếu ta để nó ở lại thì sao? Lúc nào ta cũng có thể quay lại tìm nó sau này.”

“Em không nghĩ vậy.”

Line thở dài. Cô đã tưởng tượng ra nhiều chuyện, nhưng không tưởng tượng được một con ngựa bệnh tật làm cản trở bước đường của mình. Cách vài mét, hai đứa trẻ đã xuống ngựa, và được nghe phải vận động để sưởi ấm nên đang chơi một trò chơi khá chán nản.

Line vỗ về cổ con vật: “Tội nghiệp Bengi già!” Nó nhướng mắt nhìn cô với vẻ cảnh báo. Cô đi đến quyết định: “Ta bỏ nó ở lại. Nếu nó không theo kịp thì ta phải bỏ nó ở lại. Ta nói với hai đứa trẻ ta sẽ quay lại tìm nó, hoặc đại loại chuyện như vậy.”

Espen nặng nề gật đầu. Ở một nơi khác, một con người Line khác hẳn đã nức nở cho con ngựa bị bỏ bê mặc cho số phận của nó. Nhưng không phải trong trường hợp này.

Hai người đi về phía bọn trẻ. Ngay lúc ấy, khi Line chưa kịp mở miệng để giải thích, một tiếng nổ lớn vang dội giữa đám rừng cây. Tiếng nổ lớn đến nỗi Anna giật nẩy người và suýt ngã xuống. Họ cùng nhìn nhau.

Espen kích động thốt lên: “Một người đi săn!”

Line hỏi: “Anh có chắc đó không phải là nhựa cây đóng băng chứ?”

“Tiếng nổ quá lớn, và nghe khác. Đó là súng trường. Có người đang đi săn quanh đây.”

Anh có vẻ chắc chắn. Hai đứa trẻ reo lên vì vui mừng và nhẹ nhõm đến nỗi Line cũng vui lây. Có người đang hiện diện gần đây. Bỗng dưng cuộc sống văn minh ở gần tầm với.

Espen vội nói thêm: “Để anh đi xem mình tìm ra họ được không... Chỉ để hỏi mình đi đúng đường hay không.”

Line gay gắt hỏi: “Làm thế nào anh quay lại được?”

“Em đốt lửa đi. Anh không đi lâu đâu. Người này chắc ở gần đây thôi.” Espen bắt đầu la lên bằng tiếng Anh: “Này! Ai đó? Này!”

Không cần chờ tiếng đáp trả, anh quay lại: “Anh nghĩ họ ở đằng kia. Anh không đi lâu. Nếu anh không tìm ra họ thì anh cũng quay lại. Anh hứa.”

Espen nở nụ cười tự tin, rồi đi vào giữa đám cây rừng. Những bước chân anh biến mất trong bầu không gian tĩnh lặng.

Con ngựa kia, Jutta, kêu lên một tiếng than vãn dài của loài ngựa.

 

[57] Thánh Francis: Thánh Francis của Assisi (1182-1226): gốc người Ý, khoảng năm 1208 lập nên Dòng tu Phanxicô, năm 1228 được phong thánh. Ông có lòng yêu thương đối với loài vật, hay gọi các con thú là “anh em”. Ông đặc biệt yêu mến chim chóc, và khoảng năm 1220 viết nên “Bài giảng đạo cho chim chóc”. Năm 1980, Giáo hoàng John Paul II phong ông là thánh bổn mạng của các nhà sinh thái học.

[58] Bản đá Rosetta: một bản đá hoa cương của Ai Cập cổ đại, vào năm 196 TCN được khắc nhiều dòng chữ bí ẩn, đến năm 1799 được quân đội Pháp dưới quyền Napoléon Bonapartre tìm ra. Vì bản văn được khắc theo ba ngữ văn khác nhau: Hy Lạp, chữ tượng hình. Ai Cập và chữ thông dụng, các học giả có thể diễn giải ý nghĩa của hai ngữ văn sau bằng cách so sách với ngữ văn Hy Lạp, từ đó mở ra môn Ai Cập học hiện đại. Hiện giờ Bản đá Roseyta được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Anh, London.

[59] Ma nữ: trong nguyên bản là “vargamor”, theo truyền thuyết Bắc Âu là phụ nữ sống cùng đàn chó sói, có ma thuật mê hoặc đàn ông để làm mồi cho chó sói và do đó kiểm soát được đàn sói.