Sòng Bạc

CHƯƠNG 19

Heidi nói:

— Nếu đây mà là một con voi, thì con sẽ là một con cá sấu chắc.

Bên phải là Marc Andréa, bên trái là con bé Tyrol, ở giữa là Cimballi, mà hai hàng răng đánh vào nhau lập cập như gõ mõ (bốn mươi sáu độ chênh lệch, giữa Le Caire và Atlantic City) Sarah không muốn đi. Cô ta nói rằng những khách sạn thì cô đã thấy khá đủ rồi năm này qua năm khác, vả lại cô cũng còn phải đảo về Montego Bay một chút. Tuy chính thức là đang nghỉ đó, nhưng không dừng được, thể nào cô cũng phải thỉnh thoảng trở về để xem coi thế nào, Marc Lavater cũng đã bỏ lại chúng tôi, tụi trẻ con và tôi, nhưng anh ta mới chỉ đi khỏi trước vài phút thôi. Thực ra anh cũng như chúng tôi, đều đến Atlantic City, anh ở nhà Henry Chance, chỉ cách chúng tôi mấy cây số. Sự có mặt của anh ta ở đây sau này sẽ có một tầm quan trọng cơ bản.

Tôi ngắm cái giàn giáo khổng lồ bằng kim loại. Đúng là phải có không ít sức tưởng tượng mới có thể nhìn thấy trong cái mớ bòng bong này con vật da dầy tương lai. Lúc ấy là vào mười giờ rưỡi sáng, có thể hơn thế một chút. Tôi đi từ Long Island đến đây bằng xe hơi cùng với Marc Lavater. Đến đây anh mới đi việc của anh. Hôm qua tôi đã thuật lại chi tiết cho Lavater cuộc du lịch và sự gặp gỡ của tôi với Baltazar. Kết luận chung của chúng tôi là: Kết quả nghèo nàn và chúng tôi chưa thấy những kết quả này có gì để cải thiện được tình thế của tôi, mắc kẹt giữa một sự chắc chắn, một linh tính là tôi đã mua phải một cái khách sạn bị cướp không bởi một vụ bắt cóc, nếu không phải là bởi một vụ án mạng và sự bắt buộc đối với tôi là không được làm gì, nói gì cả. Tôi chỉ còn tìm thấy sự an ủi là ít ra thì về phía chúng, bọn Caltani cũng không dám động đậy gì. Tất cả đều chỉ ra rằng chúng đang bằng lòng về hoàn cảnh này. Tôi cũng bắt buộc phải làm như chúng thôi, với hy vọng là Người Anglais, tiếp tục cuộc điều tra một cách tuyệt đối bí mật, sẽ đem lại được những khám phá mới, hoặc Baltazar từ Cap sẽ gửi đến cho tôi những phát hiện nào đó. Thực ra, vào cái sáng ngày chủ nhật 27 tháng Ba năm 1977 này, tôi nhớ là tôi rất bình tĩnh và không có một linh cảm nào về những gì sẽ xảy ra: Sự vui sống của Heidi và Marc Andréa, Heidi lôi kéo Marc Andréa, đã lây sang tôi: Chúng tôi đã hát vang khi ngồi trên xe vượt qua New York Bay bằng cây cầu Verrazzauo. Chuyến đi bằng xe hơi đến Atlantic City này cũng cho tôi kiểm tra được sự gần cận của nơi tôi đầu tư vốn với New York. Công trường Con Voi Trắng vắng tanh, nếu người ta còn gọi đây là một công trường được. Nhìn từ bên ngoài, thì sòng bạc có vẻ đã hoàn thành rồi, trừ những khu vườn trang trí, những lối đi vào phía sau, hiện thời đất còn bỏ hoang và dùng làm nơi để các xe cộ máy móc, ở bên trong, trái lại, hầu như toàn bộ phần nội thất ở phần sòng bạc cũng như ở các tầng lầu của khách sạn là còn phải làm tiếp. Ngày mở cửa chính thức đã được định vào mùng 9 tháng tư trước ngày chủ nhật lễ Phục Sinh, mà ở đây người ta gọi là lễ Easter. Đã có lúc chúng tôi nghĩ đến việc cho mở cửa sớm hơn một tuần, những hãng quảng cáo phụ trách việc “lăng xê” sòng bạc đã chứng minh rằng như vậy sẽ làm đảo lộn tất cả kế hoạch của họ.

Một trong sáu người bảo vệ có võ trang và mặc đồng phục gắn huy hiệu Con Voi Trắng, kiểm tra việc vào cửa của chúng tôi ở ngoại vi của một hàng rào tạm thời. Anh ta nhận diện tôi rồi mở một cái cửa làm bằng mấy tấm ván và thép mạng cầu, cho xe tôi vào và lại đóng lại ngay. Anh ta bảo có cà phê nóng, nếu tôi muốn.

Chỉ một giây đồng hồ sau, anh ta nhảy lò cò trên một chân, vì chân kia vừa nhận được một cú đá truyền thống của Heidi. Tôi giải thích:

— Biết làm sao được, đấy là chuyên khoa của nó.

— Lẽ ra người ta phải mộ nó vào đội Cosmos mới phải. Để thay thế gã Pelé.

— Thế Sôcôla, có không chú? - Heidi hỏi.

Nhưng có lẽ hỏi thế cũng chỉ là để thanh minh cho cú đá vừa rồi thôi, vì không đợi trả lời, nó đã kéo thằng con trai tôi chạy ào về phía nhà cửa và không phải đợi lâu: Những căn phòng rộng lớn, vắng vẻ, đã vang lên những tiếng cười đùa: Chúng tổ chức ngay một cuộc chơi đi trốn tìm vĩ đại mà tất nhiên tôi phải là con mồi, còn chúng là người đi săn. Bảy trăm tám mươi phòng, hai tá dãy phòng, cộng với các phòng phục vụ, các phòng khách, nhà ăn, nhà biểu diễn, các quầy rượu, các phòng thể dục thể thao, cộng thêm phần chính của sòng bạc: Những chỗ để trốn quả là không thiếu. Bọn trẻ la hét quá trời, đến nỗi một người bảo vệ khác phải chạy vào: Anh ta tưởng đã xảy ra tai nạn gì rồi. Tôi nói cho anh ta an tâm, và anh ta đi ra. Sự canh gác của bảo vệ cốt nhất là ở ngoài. Theo lý thuyết họ không được ở trong nhà và chỉ được đi tuần qua thôi.

Cuối cùng tôi cũng thu hồi lại được hai con quái vật của tôi trong một dẫy buồng. Dẫy này đã gần hoàn thành rồi, chỉ còn thiếu có đồ đạc nữa thôi. Nhưng các thứ thảm len và thêu đã được trải dưới sàn và treo lên tường, hầu hết các phòng khác chưa được như thế. Có điện rồi, nhưng sân và tường còn để trơ, và khi định rửa tay, tôi mới biết là các ống nước chưa bắt. Gần như ở hành lang nào cũng ngổn ngang những cuộn thảm len, những đồ điện, những két, những hộp các tông đựng các thảm thêu và vải bọc tường.

Chúng tôi đã xuống hầm trú ẩn bằng con đường hầm gia cố, bắt đầu từ ngay bên dưới tầng trệt. Trong đường hầm này các cửa sắt đã được đưa đến nhưng còn chưa lắp vào. Chúng nằm ngay trên mặt sàn bê tông và chúng tôi phải trèo qua để đi. Hệ thống điều hòa nhiệt độ vẫn chưa chạy, nhưng việc thay đổi không khí không có vấn đề gì, vả lại tôi cũng không có ý định ở đây lâu, mặc dù Marc Andréa và Heidi cứ bám lấy cái bàn Craps.

Một cái mùi hắc làm cay mũi, rồi cay cả họng. Heidi và con tôi tung những con xúc xắc quá mạnh đến nỗi rớt ra cách bàn đến hai mươi lăm thước. Chúng dường như không hay biết gì cả. Chúng hơi chảy nước mắt một chút, nhưng lấy tay chùi đi ngay, và nhất định không để bị xao lãng, vẫn tiếp tục chơi, hai má đỏ hây lên vì thích thú.

— Mười một!

Tôi rời xa chiếc bàn. Từ hôm đến đây với Henry Chance, Caliban và Patty đến giờ, người ta đã xúc tiến công việc ở đây. Sơn phết đã xong, những đồ trang trí bằng gỗ sồi đã được lắp đặt. Tường cũng đã được ốp gỗ ở đằng cuối phòng, phía phải, người ta đã dựng những vách ngăn của những căn phòng riêng của tôi. Tất cả đều đã làm xong chỉ còn có cửa là chưa có.

Tôi đi xem. Chưa phải thực sự là lo sợ, mà chỉ thấy hơi tò mò và bực mình. Tôi nghĩ nhiều đến cái bao tử rỗng của tôi hơn. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa: Sau khi hít hết không khí, tôi nhận thấy cái mùi hắc là từ ở đường hầm bên trái bay ra, đường hầm mà chúng tôi đã dùng để đi xuống đây. Đường hầm này bắt đầu từ dưới phòng chơi, trước hệ thống thang máy. Đằng sau tôi:

— Mười một! Bác có chơi nữa hay không nào? Bác xẹp rồi hả?

Tôi trèo lên cái cửa bọc sắt đè nằm dưới sàn, cao hơn mặt đất sáu mươi phân. Tôi tiến thêm lên vài thước nữa. Cái mùi càng ngày càng khó chịu, mà không phải chỉ có mùi thôi: Không khí đã chở đến những hơi khói màu xanh nhạt làm tôi nghĩ giống như dầu mazut đổ trên mặt nước. Mắt tôi dàn dụa nước mắt và cay xè một cách rất khó chịu. Thôi... thế là đủ.

— Anda và Heidi! Lại đây!

Không thấy trả lời ngoài một tiếng hét đắc thắng: Mười một! Tôi đi rảo bước quay lại:

— Đi thôi, đi!

Marc Andréa vội vơ lấy mấy con xúc xắc bằng một giáng điệu nhanh nhẹn, đứng xa tôi ra rồi, vừa múa may, vừa hát theo cái giọng trẻ con muốn thách thức người lớn.

— Ba thua con rồi nhé! Ba thua con rồi nhé!

Nhưng Heidi đứng yên, chớp chớp mắt. Nó nhìn ra đường hầm, nhìn tôi:

— Có chuyện gì hở bác?

— Có! Phải ra khỏi nơi đây thôi. Cứ bình tĩnh.

— Cháu bình tĩnh - nó nói, rồi hét lên - Anda, thôi nào!

Và tức khắc con tôi nghe lời ngay. Có lẽ đây là lần đầu tiên đối với nó. Tôi nắm mỗi tay một đứa và kéo chúng ra phía đường hầm.Trong mấy giây vừa qua tình trạng ở đó đã đổi khác rồi: Những cuộn khói màu xanh tím, gần như trong suốt lúc nãy, bây giờ đã thành những giải khói dài đang uốn khúc tiến tới chầm chậm. Chúng tôi vượt qua buồng thông áp thứ nhất, sang đến buồng thứ hai. Ngay sau đó, đường hầm rộng ra một chút và hơi ngoặt về phía trái.

— Nhanh lên, các con!

Tôi bắt chúng phải chạy. Marc Andréa bỗng bị một cơn ho rũ rượi.Tôi hét lên: “Mặc áo khoác”. Nhưng chúng đã để những áo khoác trên bàn Craps: “Cởi các áo len ra, mau!” Và tôi bắt chúng lấy áo che lên mặt. Chúng tôi lại chạy. Ra khỏi chỗ quặt, tôi nhìn thấy trước mặt một đường hầm đầy khói. Hai mắt tôi cay xè và chan chứa nước mắt, chẳng còn thấy đường nữa. Đi thêm vài thước nữa, và trước khi đến ngưỡng cửa bọc sắt thứ ba, tôi mới thấy là tôi đang làm một việc điên dại. Không khí bây giờ hầu như không thể thở được nữa, Heidi và tôi bắt đầu ho. Nhưng Marc Andréa thì nặng hơn cả: Nó đã nằm lăn ra đất và cả người nó bị co giật. Tôi đã gần hoảng hốt. Tôi vừa ẵm nó lên vừa chạy, vào đúng lúc có một tiếng nổ ầm vang ở mười hay mười lăm thước trên cao, rồi một ánh lửa đỏ bùng lên qua bức tường khói. Không còn chỉ là chuyện khói xì ra ở đâu nữa như tôi tưởng lúc đầu, mà đúng là một ngọn lửa đang tấn công vào tất cả những bình vernis lớn và những chất lỏng dễ cháy khác mà tôi thấy chất đống ở căn phòng dưới phòng chơi.

— Heidi trở lại, lẹ lên!

Tôi lại chạy, tay bồng Marc Andréa. Chạy được bốn năm thước mới phát hiện ra con bé không theo tôi. Nó đang quỳ gối, vừa ho, vừa khóc.

— Heidi?

Tôi lại phải trở lại, xốc nó lên mà kéo đi. Chúng tôi chạy qua cửa trung gian. Heidi, mà tôi gần như ôm vào người đã quẫy ra và nói: “Cháu đỡ rồi, bác Cimballi”. Không khí lại trở lại gần bình thường, trừ có những hơi khói do các hóa chất cháy chậm gây ra. Chúng tôi lại đến cạnh cái bàn Craps.

— Heidi, cháu đứng đây với Anda, và cả hai đứa không được đi đâu nhé. Đồng ý không?

Nó gật đầu và còn cười với tôi nữa, bình tĩnh một cách lạ thường: “Đồng ý, bác Cimballi”. Sự tự chủ của nó lây cả sang tôi: Được, hãy suy nghĩ một chút xem sao Cimballi, chúng ta đang ở trong một cái hộp khổng lồ bằng bê tông, muốn xuống đây phải đi bằng các đường hầm, cũng để đi ra nữa và nếu một đường bị tắc... Tôi đi sang phía đường hầm bên phải và chui vào đấy, tôi không đi xa được: Nó bị bít kín bởi một đống những bao, những hòm đựng dụng cụ và những máy xu cũ mà tôi không biết tại sao lại ở đấy. Nhưng có một điều chắc chắn: Mở được một con đường qua cái đống ấy để lên nhà xe sẽ phải mất hàng giờ đồng hồ.

Không được hoảng hốt, vẫn còn những đường cấp cứu nữa. Một trong những đường này là ở trong phòng riêng của tôi. Tôi chạy xuyên qua căn hầm đến đó.

— Lại đây.

Khói tiến thêm, đã qua được buồng thông áp và bắt đầu len vào trong hầm rồi. Nhưng hậu quả của nó bớt hẳn khi chúng tôi vào trong dãy buồng riêng.

Tôi biết rất rõ sự bố trí của những buồng này, vì chính tôi đã vẽ bản thiết kế dưới con mắt mỉa mai của một kiến trúc sư. Buồng giấy riêng của tôi là ở cuối dẫy, ở đầu một hành lang, lối vào đường cấp cứu số một là ở đấy, có một cái cửa sắt đóng lại. Cửa này đã được lắp rồi. Tôi mở cửa không khó khăn gì, đằng sau cửa là một đường ống, đường kính một mét hai, thẳng tắp và hơi dốc lên. Nó gây một ấn tượng rất lớn khi nhìn thấy nó vút lên bé dần cho đến một cái lỗ nhỏ xíu ở cách xa một trăm thước. Tôi bật đèn và ánh sáng bừng lên trong lòng ống. Lúc đó tôi mới nhận thấy tất cả sự vô lý trong tình thế của tôi: Tôi và lũ trẻ đang ở trong một cái hầm chống nguyên tử, được thiết kế để có thể chịu đựng được bất cứ một tai biến nào, thế mà bây giờ chúng tôi đang bị đe dọa sẽ chết ngạt ở đấy chỉ vì lý do duy nhất là không đóng được cửa hầm. Thật là khôi hài nếu không phải là một bi kịch. Nhưng con đường ống mà tôi thấy trước mắt đã làm tôi hoàn toàn yên tâm. Tôi gom tụi trẻ lại, chỉ có đôi mắt đỏ của chúng là dấu vết duy nhất còn lại của những thử thách chúng vừa trải qua. “Chui vào cái ống này hở bác?” Điều ấy chẳng những không làm cho chúng sợ, mà chúng lại còn thích thú nữa kia. Chúng cho tôi là vô địch trong việc bày ra những trò chơi ngộ nghĩnh. Tôi đẩy chúng lên cái lỗ tròn và tiến lên. Đối với chúng thì không có vấn đề gì, vì đường ống vừa với vóc người của chúng. Tôi, trái lại, phải khom lưng mà đi, và chỉ sau năm mươi thước mới nhớ ra quên đóng cái cửa sắt ở sau lưng tôi. Thực ra cái cửa này chỉ có thể đóng được từ phía trong thôi, nhưng ít ra tôi cũng có thể kéo nó lại. Thôi mặc kệ, tôi cứ tiếp tục đi.

Đi một trăm mét nữa, lại có một cái cửa tròn, cũng bọc sắt, và cũng mở ra rất dễ vì chỉ mới đặt vào đó thôi: Tôi vừa đặt tay vào nó đã đổ kềnh xuống với một tiếng ầm kinh khủng. Cái của nợ này phải nặng ít nhất là môt trăm năm mươi ký! Phía bên kia cửa, đường ống ngừng lại và được thay thế bởi một cái buồng nhỏ xíu sẽ dùng để thanh trừng. Một cầu thang rất hẹp, chỉ độ sáu mươi phân là nhiều, dựng thẳng lên trên. Tôi biết cầu thang này đưa đến đâu: Nó sẽ mở vào giữa những cột ốp của đường hào ở góc tây bắc của Con Voi Trắng. Lẽ ra ở chân thang còn phải có một cái cửa bọc sắt thứ ba nữa, nhưng cánh cửa cũng chưa được lắp vào mà còn để dựng đứng vào tường ở bên cạnh, ở bên phải của chân thang, có một màn hình kiểm tra, có thể nhìn được ở bên ngoài. Tôi tự mắng mình là đã không nghĩ đến việc sử dụng những màn giống như thế, chắc chắn là sẽ có ở đầu mấy đường hầm, để xem bên kia bức tường khói, đường có thông được không? Có thể lúc đó chúng tôi chỉ cách cửa ra chừng vài ba chục thước thôi. Nhưng chậm quá mất rồi. Vả lại, việc gì tôi phải lo ngại nữa. Bây giờ, chỉ còn cách hai bước chân nữa là ra đến ngoài trời rồi. Tôi bẳt đầu trèo lên thang, bọn trẻ con đi liền theo gót tôi. Tôi đến trước cái cửa bọc sắt cuối cùng. Vị trí của những tay gạt cho biết là chốt cửa đã được đóng lại. Nhưng những bàn tay gạt vẫn hoạt động được. Tôi càng chắc chắn như thế, vì cách đây hai tháng tôi đã nghịch ngợm vận hành nó với Caliban. Tôi hạ các tay gạt xuống và quay liên tiếp, cánh cửa mở ra...

Nhưng không thực sự, nó quay độ ba hay bốn phân thôi. Bề dày của nó không cho phép mở hé được đủ để nhìn ra ngoài, thậm chí không cho cả không khí trong lành ở ngoài lọt vào được nữa. Có một cái gì đó đã chặn nó lại, tôi run cả người lên: Cái chuyện cứt chó gì thế này? Tôi đẩy mạnh hơn, dùng hết sức lực, gồng người lên. “Các con giúp ba!” Chúng tôi cùng đẩy: Không hơn được một phân nào, cái cửa sắt tròn khổng lồ không nhúc nhích.

Nếu chỉ có một mình tôi thôi, thì tôi cũng đã sợ rồi. Với con trai tôi và Heidi ở bên cạnh thì là một sự hoảng hốt thực sự. Tôi đấm vào bốn mươi phân thép, thật là nực cười. Tôi quay lại: Sau chúng tôi, nhìn thăm thẳm xuống là cây cầu thang hẹp, rồi cái phòng thanh trừng nhỏ xíu và nằm lăn lốc dưới đất là cánh cửa thứ hai đã đổ lộn nhào lúc nãy để lộ ra cái lỗ rộng ngoác vào cửa đường ống. Tôi chạy ào xuống chân cầu thang. Tôi liếc nhìn vào trong những đường ống: Không còn nghi ngờ gì nữa.Cách một trăm mét, ở đầu đằng kia của cái ống nhòm vĩ đại này, những hơi và khói độc đã bắt đầu tuôn vào và tiến về phía chúng tôi. Chỉ là chuyện một phút đồng hồ nữa là nhiều thôi, thế là chúng tôi bị dồn như những con chuột mắc bẫy vào trong một thiết bị khủng khiếp bằng thép và bê tông. Tôi luôn luôn cố gắng nâng cánh cửa sắt mà tôi đã làm đổ xuống để lắp lên cái lỗ tròn cho nó cô lập chúng tôi. Vô ích. Phải ba người mới nổi. Cơn hoảng hốt lại bùng lên, rồi lại tự chủ được. Chiếc camera và màn ảnh kiểm tra. Tôi bật sáng màn ảnh lên, thấy ngay hình của đường hào, ở bên ngoài. Ồ! không khí trong lành... và bộ mặt, bằng một cận ảnh rất lớn, một người bảo vệ của Con Voi Trắng đang nhìn thẳng vào ống kính. Người đó cười, chắc chắn là biết có chúng tôi đằng sau cánh cửa sắt. Hắn giơ một bàn tay, ngón trỏ chỉ vào một cái gì ở trước mặt gần dưới chân hắn. Tôi vận động ống kính kiểm tra cho quay xuống. Lúc đó tôi mời phát hiện ra một phiến gỗ đặt tréo để chặn cánh cửa không mở ra được. Người đàn ông ngồi xổm xuống, để cho hình toàn thân của hắn nằm vào trong ống kính. Hắn vẫn tiếp tục cười, một cách mỉa mai. Rồi, rất từ từ, tôi thấy hắn đặt tay lên phiến gỗ và không có một chút gì vội vàng, đập đập tay cho phiến gỗ dịch ra. Phiến gỗ dịch sang bên, rồi đổ xuống. Tay hắn lại ra hiệu: Bây giờ ông có thể đi được rồi. Người đàn ông cười một lần cuối cùng, rồi đi ra xa. Tôi chạy ào lên cầu thang nhảy vào xô cánh cửa và lần này nó mở thực sự, cắt ra một hình tròn sáng một cách kỳ lạ, trong ánh chói lòa của nắng và một bầu trời xanh. Tôi nâng Marc Andréa và Heidi cho qua lỗ cửa. Chúng nhảy xuống đất. Tôi cũng chui ra ngoài và không thể không nhìn lại một lần cuối cùng con đường ống bây giờ đã có những cuộn khói xanh xuất hiện. Tôi quay người lại và đối mặt ngay với Marc Lavater. Tôi không có thì giờ để định thần lại được, anh ta đứng trước tôi, nét mặt cau lại bởi sự giận dữ và lo sợ:

— Trời đất, Franz, chuyện gì đã xảy ra thế này?

Cơn giận trong tôi cũng bùng lên, tôi có thể đánh anh ta chỉ vì cái câu hỏi ngu xuẩn ấy. Tôi hét lên:

— Tên bảo vệ đâu rồi? Cái đứa đã đặt và cất phiến gỗ chặn cửa ấy?

Marc nhìn chòng chọc vào tôi, không hiểu. Rồi bỗng nhiên, anh ta làm một việc hoàn toàn có vẻ rối trí, anh ta lao xuống đường hào, chạy dọc theo nó và với một sự cuồng nhiệt thực sự, dập hai tấm gỗ khác chặn các cửa cấp cứu số hai và ba, rồi lao những tấm gỗ nặng này ra xa. Tôi tưởng ông ta đã phát điên. Tôi đến chỗ ông.

— Marc, anh đang làm việc xóa bỏ những chứng cớ của việc người ta tìm cách giết chúng tôi, tôi và lũ trẻ!

Ông gật đầu, bình tĩnh trở lại, vừa nói vừa thở:

— Chính thế, chính thế.

Ông nhìn qua vai tôi, cánh tay và ngón tay trỏ duỗi ra phía trước, ông muốn chỉ cho tôi cái gì đó. Tôi quay lại, cách chúng tôi một trăm thước, cả Con Voi Trắng đang bốc lửa. Một đám cháy vĩ đại.