đệ tử xuống núi, mình làm mình chịu, đâu dám liên lụy đến thầy, đệ tử đến đó tự
Tam giáo thánh nhơn dầu giết tha mặc tình xử trị". Vương Thuyền nói: "Mi theo ta
tới đó gìn lòng dè dặt, khóc lóc cầu xin, họa may khỏi chết". Dặn rồi, hai người cỡi
mây bay đến lư bằng quỳ xuống, Vương Thuyền bẩm nói: "Đệ tử vâng pháp chỉ, bắt
thằng học trò ngoa ngạnh, là Tôn Tẫn đến đây, xin giáo chủ thi hành". Vương
Thuyền giao cái kim câu cho ông Nam Cực, rồi đứng hầu một bên. Tôn Tẫn nói:
"Tam giáo chủ ở trên đệ tử là Tôn Tần lạy ra mắt". Ba vị giáo chủ nói: "Tôn Tẫn,
ngươi muôn kiếp ngàn năm tu luyện, thành bạch hổ thanh long, đã lên được bậc Đại
la thiên tiên, và lãnh chức chơn nhơn, chảng phải dễ dàng gì đâu, vì sao tham luyến
hồng trần, vọng khai s át giới, chẳng tưởng đến thuận nghịch, trái trời làm bậy, có tội
với Hải Triều, vì nhỏ mà phạm lớn, nay Tam giáo nhóm đủ tại đây, người có lời chi
phân nói?" Tôn Tẫn bẫm rằng: "Đệ tử dày công tu luyện, đâu dám trái lời, lấy nhỏ
phạm trên, mà phải mắc tội. Vì đệ tử có muôn ngàn việc khổ, không biết làm sao,
túng phải xuống chốn hồng trần, vào nơi sát giới. Chẳng qua là cho tỏ chút lòng
trung hiếu của đệ tử mà thôi. Tôi nghĩ lại, cha anh tôi đều chết nơi tay Vương Tiễn,
mẹ tôi tuổi tác đã già, không người phụng dưỡng, nên gởi thư kêu tôi xuống núi, tôi
nghĩ lại làm con người, lẽ nào không lòng hiếu thảo, túng phải xuống núi, ý muốn
mai táng cha anh, phụng dưỡng mẹ già, không dè Vương Tiễn là đứa vô tình chém
học trò tôi là Viên Đạt, lại bày ra trận động Triều Tiên, thỉnh Chưởng giáo Nam
Cực, xuống phá trận chu tiên, rồi Vương Tiễn lại liệng tản thiên Tiễn, mà đâm tôi
chết, nhờ có Mao Toại trộm linh đơn cứu sống,không dè Hải Triều xuống núi, tôi ra
trước trận năn nỉ cầu xin, cho tôi mai táng cha anh tôi, rồi lập tức trở về núi. Hải
Triểu chẳng khứng dung tình, trước cùng tôi so tài cao thấp, bèn bày ra cái trận hỗn
ngươn, ý muốn giết tôi, may nhờ bọn Lưu Bang phá tan trận ấy. Hải Triều lại xuống
tình độc ác, dùng tản địa lôi, đánh phá Dịch Châu, bây giờ mẹ của tôi đang ở trong
thành, lẽ nào tôi ngồi mà nhìn sao? Túng phải dùng phép giải phá, cầu xin Tam giáo
thánh nhân soi xét".
Ba vị giáo chủ nói: "Tôn Tẫn, ngươi tuy có lòng trung hiếu, há chẳng biết Vương
Tiễn tính thâu lục quốc, là vâng sắc chỉ mà làm hay sao, nay người chấp nê chẳng
biết, cứ trái nghịch lòng trời, trốn không khỏi tội, hãy nghe lời ta mau mau bãi binh,
xa lánh hồng trần, thì chẳng mất vị thần tiên, nếu còn ỷ mạnh, dẫu người có thần
thông đi nữa, cũng không ra khỏi ngoài Tam giáo cho đặng, đến lúc ngũ lôi tới đánh,
thì việc đã muộn rồi". Tôn Tẫn sa nước mắt nói: "Đệ tử mong cảm ba vị từ bi, tình
nguyện rút binh về nước Tề, chẳng dám nghịch ý trời". Hồng mông thánh nhân nói:
"Tôn Tẫn!Cha, anh ngươi đã chết, thì việc hiếu đạo chẳng thiếu sót chổ nào, song ơn
vua chưa trả, lòng còn hổ thẹn, nay kiếp số Yên Đơn đã dứt, kiếp số Lâm Tri cũng
gần mãn, vốn là người tiên phật, không giữ nghĩa quân thần, nay ta cũng cho ngươi
làm trọn niềm trung hiếu, song phải vâng theo thời về núi, chớ nên tham luyến mắc
tội cùng trời". Tôn Tẫn nghe nói lạy tạ. Như lai nói: "Thảm thay! Thảm thay! Ba vạn
sanh linh trong thành Dịch Châu khó trốn khỏi tai lôi pháo, ta là người phật lấy lòng
từ bi làm gốc, tưởng lòng hiếu của ngươi, vậy ngươi phải độ mẹ ngươi, và mấy chị
dâu của ngươi lánh khỏi nạn". Thái Thượng lão quân nói: "Tôn Tẫn! Nguơi tuy lên
bậc thần tiên, song trần duyên chưa mãn, nơi Dịch Châu thì tận hiếu, đất Lâm Tri
phải tận trung, vận số như vậy, không được trái trời, từ nay về sau dẹp binh về nước,
hễ gặp ngũ ôn thần (là thần làm bệnh dịch) phải mau về động, nếu chẳng vâng lời ắt
không khỏi lôi hoành (sét đánh)". Nam Cực nói: "Tôn Tẫn, ngươi đi bãi binh cho
mau, không đặng trễ kỳ khác lấy thành". Tôn Tẫn dạ dạ xin vâng, lật đật xuống đài
bay về dinh, rồi đó Tam giáo nói với Hải Triều ràng: "Đạo hữu! Nay khuyên giúp
vua Tần, bìng định Dịch Châu ứng theo kiếp số, rồi chớ ở lại đây". Nói dứt lời cùng
Nam Cực, Vương Thuyền từ biệt Thủy Hoàng, thót lên cầm thú bay bổng trên
không, xảy nghe tiếng trống nhạc tiên, một vừng mây bay phơi phới, bay tuốt lên
thiên môn (là cửa trời).
Nói về Tôn Tẫn về đến dinh, buồn bực dàu dàu, một mình ngồi trong trướng, chờ
đến trời sáng chúng tướng vào ra mắt, tâu rõ đặng khi hôm Tôn Tẫn đi hội Bình
Linh. Tôn Tẫn nói: "Mấy vị kỳ bài! Ta thỉnh chúng ngươi đến đây phá trận Hỗn
ngươn. Hôm qua lại cướp dinh làm nên công lớn, cũng nhờ sức chúng ngươi, mỗi
người ta thưởng cho vàng ròng mười lượng, lụa nhiều ngàn cây và có lời này chúng
ngươi phải ghi nhớ". Sáu vị kỳ bài đều quỳ xuống, Tôn Tẫn vội vàng đỡ dậy nói:
"Chúng ngươi ngày sau đều có tước lộc, bây giờ chẳng cần tới nước Hàn làm chi, ai
về nhà nấy, chờ thời dấy động thôi, hãy đi đi". Chúng kỳ bài lạy từ Tôn Tẫn, mang
đồ thưởng vật, xách gối vâng theo lời, nhà ai nấy về, chẳng tới nước Hàn. Đến sau
nước Sở, nước Hán giành nhau, làm nên nghiệp cả, việc ấy là việc sau. Đây nói về
Tôn Tẫn cho sáu vị kỳ bài về rồi, kêu Tôn Yên mau chạy ngựa vào thành, rước bà
nội và gia quyến ra dinh, thương nghị việc lớn, không được chậm trễ. Tôn Yên vâng
mạng lật đật chạy vào thành, tới phủ Yên Đơn xuống ngựa vào hậu đường nói rõ các
việc. Yên Đơn công chúa vội vã cùng hai vị Cao, Lý phu nhân gom góp tiền bạc.
Và đem ít tên tỳ nữ, Tôn Yên bảo hộ ra thành đi tới cửa dinh. Tôn Tẫn rước vào
trong dinh thăm xong rồi, công chúa nói: "Con trẻ rước mẹ đền có việc chi chăng?"
Tôn Tẫn nghe hỏi trong bụng tính rằng: "Nếu ta nói thiệt rằng:Đêm nay Hải Triều
bắn súng phá thành Dịch Châu, thì mẹ ta thêm lo sợ, vả lại mẹ ta cùng Chiêu Vương
có tình anh em, đâu khứng ngồi xem, chắc là khóc lóc cùng ta, làm cho ta tới lui rất
khó, chi bằng d8ừng nói thiệt hay hơn". Tính rồi bẩm rằng: "Mẹ ôi!Nay rước mẹ đến
đây, cà dấy phép thần thông, quyết tử chiến một trận, e mẹ ở trong thành kinh sợ,
nên con sai vợ chồng Tôn Yên đưa mẹ cùng hai chịdâu, qua nước Triệu, tạm đỡ ít
ngày, chừng con lui đặng binh Tần sẽ tới nghinh tiếp".
Công chúa nói: "Lời con rất phải, vì mẹ niên cao kỷ trưởng, ở giữa chốn sa
trường lo sợ chẳng yên, đến bây giờ hễ nghe chiêng trống thì kinh lòng vỡ mật, y
theo lời con nói, tới nước Triệu hay hơn,, song con phải tiểu tâm gìn giữ". Tôn Tẫn
nói: "Con biết, xin mẹ chớ lo". Vợ chồng Tôn Yên quỳ xuống nói: "Nay tam thúc
muốn cùng người Tần quyết chiến, vợ chồng cháu lẽ phải ở đây giúp sức, vì sao tam
thúc sai qua Hàm Đan?" Tôn Tẫn nói: "Ta cùng người giao chiến, chẳng dùng một
người một ngựa, thôi hai vợ chồng cháu dẫn bổn hộ quân binh, bảo hộ tổ mẫu ba
người kíp qua Hàm Đan, chẳng nên chậm trễ". Vợ chồng Tôn Yên vâng mạng, lạy từ
Nam quận vương vội vàng gát xe dẫn binh mã bảo hộ Yên Đơn cùng hai vị phu
nhân, thẳng qua nước Triệu. Lúc ấy Tôn Tẫn tống biệt quý nhơn, rồi trở vào trướng,
giây phút mặt trời vừa lặn, Tôn Tẫn kêu sáu tên học trò vào trướng, ra mắt xong
rồi,Tôn Tẫn nói: "Vì hôm qua phá trận Hỗn ngươn; mắc tội với Hải Triều, khi hôm
qua có tam giáo thánh nhơn xuống phàm, lập hội Bình linh, ta chẳng dám trái trời,
không biết làm sao phải rút binh về nước Tề, bỏ đất Dịch Châu, mất còn ngoài
bụng". Chúng học trò nói: "Sư phụ đã chẳng khứng trái nghịch lòng trời toan định rút
binh, đệ tử đâu dám chẳng tuân". Tôn Tẫn truyền lệnh, canh một cuốn cờ dứt pháo,
canh hai nhổ trại dời dinh. Chúng tướng vâng mạng, đâu đó đều sắp đặt sẵn sàng.
Tôn Tẫn dạy bày hương án, bổn thân nhắm Dịch Châu cúi lạy khóc nói: "Chẳng phải
tôi không hết lòng cùng bệ hạ, ngặt chẳng dám trái trời, bởi số trời đã định, chớ
trách tôi có thủy vô chung". Lạy rồi kế vừa tối, lật đật truyền lệnh nhổ trại, lén lén
đi theo đường nhỏ nhắm Hàm Đan tuốt đến.
Nói về vua tôi nhà Tần, nghe Tôn Tẫn rút binh thì rất mừng, chẳng khác người tù
đặng thả. Hải Triều truyền quân pháo thủ sửa soạn lửa cho sẵn, đến canh ba ứng
dụng. Khá thương thay vua tôi nước Yên, cậy có binh Tẫn Tẫn ở ngoài ngăn đỡ dinh
Tần, không dè đến canh ba pháo nổ lên, tức thì thành Yên sơn hóa ra một nơi ngoài
bể.
Có thơ rằng:
Kiếp số không tránh đặng,
Xoay vần lẽ tự nhiên.
Lửa cháy tro tàn rụi,
Xương trắng lụy tròng nghiêng.
Nói về vua Thủy Hoàng dắt binh vào thành, chẳng nhọc công đánh đập, xem
thấy cháy đầu phỏng trán, thây nằm đầy đất, người đều bị lôi pháo chết tươi, nhà cửa
ngã nghiêng ngã ngửa, khói tàn lửa rụi. Thủy Hoàng dạy đem thi hài các nẻo đường,
chẳng luận sang hèn, đều đốt hết. Hải Triều cáo từ về núi, Thủy Hoàng bày diên
yến đãi đằng chúng tướng, khao thưởng ba quân.
Nói về Tôn Tẫn dẫn chúng Toàn sơn suốt đêm kéo binh ra đi, hết canh một vừa
tới núi Kỵ Mã, cách thành Dịch Châu một trăm bốn mươi dặm, truyền lệnh ba quân
lớn nhỏ đều an dinh hạ trại, rồi kéo vào dinh Nam quận vương đứng phân hai hàng,
hỏi rằng: "Sư phụ vì sao dừng binh đóng trại chốn này?" Tôn Tẫn nghe nói, sa nước
mắt nói: "Chúng ngươi chưa rõ đến canh ba Hải Triều bắn súng phá thành Dịch
Châu, tám mươi dư dặm sanh linh khó trốn khỏi khổ lôi pháo, nên ta tạm nghỉ trốn
này, đặng thăm nghe tin tức Dịch Châu thế nào?" Đang nói chuyện, xảy nghe một
tiếng vang trời dội đất, chúng tướng thất kinh, vốn tiếng ấy là lôi pháo phá thành
Dịch Châu đó. Tôn Tẫn vùng khóc rống lên, chúng tướng cũng đều sa nước mắt, ra
dinh vọng giữa trời khóc tế một phen, rồi vào dinh an nghỉ, qua ngày thứ, truyền
lệnh nhổ dinh, nhằm Lâm Tri thẳng tới.
Nói về nước Tề vua Tương Vương, ngày kia lâm trào, quan huỳnh môn tâu rằng:
"Có Nam quận vương, kéo binh về nước, cách thành chẳng xa, nên tôi chẳng dám
chẳng báo". Tương Vương nghe nói rất mừng nói: "Nếu á phụ về đây, trẫm phải dẫn
văn võ ra thành tiếp rước". Bèn truyền chỉ giá xe, ra cửa Tây nơi thập lý trường đình,
xông đất trầm hương, các quan thì ra ngoài trường đình nghinh tiếp. Quan Lam kỳ
báo cho Tôn Tẫn hay rằng: "Có Thánh thượng ngự giá dẫn bá quan ra trường đình
tiếp rước". Tôn Tẫn nghe báo dạy đóng binh lại đó, rồi dẫn chúng tướng tay cầm gậy
đi bộ gần đến thập lý trường đình ngó thấy các quan văn võ vòng tay đứng hai hàng.
Tôn Tẫn vội vàng mau chân bước tới trên thềm quỳ xuống nói: "Vạn tuế, tôi là Tôn
Tẫn có đức gì, dám đâu làm nhọc đến bệ hạ xin tiếp tội đáng muôn thác". Tương
Vương với tay đỡ Tôn Tẫn dạy nói: "Á phụ trên ngựa nhọc nhằn, chẳng cần làm lễ,
ba năm không gặp, trẫm trông nhớ như khát nước, nay á phụ về triều, thiệt là nước
Đông Tề may lắm, xin đứng dậy". Tôn Tẫn tạ ơn đứng dậy, chúng tướng đều tới ra
mắt, chúc lạy xong rồi. Tương Vương mỉm cười nói: "Chúc mừng á phụ đất Dịch
Châu thắng bại thế nào?" Nam quận vương nghe hỏi nói không đặng, đau xót lòng
dạ, hai hàng nước mắt tuôn rơi nói: "Tôi có thủy vô chung chẳng hay bảo hộ nước
yên lý ưng muôn thác". Bèn đem việc đến nước Yên cùng Vương Tiễn giao chiến
ra sao, phá trận làm sao, đến sau, Hải Triều thỉnh tam giáo, bày hội Bình linh bắt tới
dạy bảo thế nào, rồi lén lén rút binh đến núi Kỵ Mã lãnh chờ lôi pháo đánh Dịch
Châu, điện tế Chiêu Vương rồi kéo binh về nước mà thuật hết đầu đuôi. Tương
Vương nghe nói, cảm thương khôn cùng, rưng rưng nước mắt nói: "Á phụ! Việc
thắng bại binh gia là sự thường, mấy người đó sống thác đều có số định không tránh
khỏi được, á phụ nay về trào, thật đáng ngàn muôn vui mừng, xin bớt lòng sầu não".
Bèn hối đem rượu cùng á phụ tiếp phong phụng quan rót một chung rượu đầy.,
Tương Vương bổn thân bưng trao cho Tôn Tẫn, Tương Vương tiếp uống liền ba
chung ngự tửu rồi ra khỏi trường đình. Tương Vương cỡi ngựa, Tôn Tẫn cỡi trâu theo
sau, trong thành Lâm Tri nhà nhà kết tụi, cửa cửa chong đèn, đầu đội lư hương quỳ
nơi đường tiếp rước, Tôn Tẫn dọc đường an dỗ trăm họ, giây phút đến cửa ngọ môn.
Tương Vương lên ngoai kim loan, các tướng chầu lại xong rồi, Tôn Tẫn bước lên làm
lễ, Tương Vương nói: "Á phụ thôi chớ làm". Rồi mời ngồi cẩm đôn, các tướng Toàn
sơn vào điện, lạy ra mắt xong rồi. Lúc ấy Lỗ Vương là Điền Đơn Mạch thường quân,
và Điền Năng đều bị bệnh lìa trần, duy còn Tam Vương là Điền Kỵ, thượng đại phu
Bốc Thương, cùng văn võ nội triều, nối tập tước công hầu tới cùng Tôn Tẫn làm
lễ.Tôn Tẫn đáp lễ, rồi bày tiệc, vua tôi ăn uống đến tối mới tan. Tương vương cầm
Tôn Tẫn, Bốc Thương, Điền Kỵ ba người ở nơi thiên điện (là cái điện gần bên điện
chánh của vua), để sớm tối bàn luận việc nước.
Nói về vợ chồng Tôn Yên, bảo hộ Yên Đơn công chúa cùng hai vị phu nhơn,
ngày đêm dong ruổi đi đến nước Triệu có quan vào báo cho Triệu vương hay, lật đật
sai quan ra thành nghinh tiếp, rước vào thành Hàm Đan, Tôn Yên dạy gia tướng đưa
quý nhơn và đưa hai vị phu nhơn đến Tây phủ trước rồi hai vợ chồng vào triều ra
mắt. Văn Vương mừng rỡ phong Tôn Yên làm Đông sàng phò mã, cùng Liêm Tú
Anh ra mắt Vương phi, rồi về Tây phủ, lạy ra mắt Liêm phu nhơn, nơi Tây phủ cả
bày yến diên nhóm thân mời bạn, thết đãi luôn vài ngày. Yên Đơn công chúa tinh
thần mỏi mệt đứng ngồi không an, bèn nói với Tôn Yên rằng: "Ta đến đây mấy
ngày, sao tinh thần không được khỏe, có khi tam thúc ở Dịch Châu cùng binh Tần
giao chiến có việc gì chăng? Cháu chớ nài lao khổ, đến Dịch Châu thăm coi thế nào,
cho khỏi lòng già ái ngại". Tôn Yên nói: "Tổ mẫu không biểu thì cháu cũng phải tới
Dịch Châu, thăm coi tam thúc thắng bại thế nào? Vậy thì ngày mai cháu sẽ đi". Yên
Đơn nghe nói rất mừng. Liêm Tú Anh bày tiệc cùng Tôn Yên tiễn hành, qua ngày
thứ lạy từ lão tổ cùng Liêm phu nhơn và Cao, Ly phu nhơn, lại dặn Tú anh hết lòng
thờ phụng Tổ mẫu, rồi vào triều từ biệt Văn Vương, ra khỏi thành Hàm Đan một
người một ngựa, tuốt lên Dịch Châu. Ngày kia đi vừa tới thành Dịch Châu ngước mắt
xem thấy, trong thành cờ xí không được tề chỉnh, ngồi ngó ngoài thành chẳng thấy
dinh Tần và binh mã nước Tề cũng không có, trong lòng nghi sợ chẳng an còn đang
ngẫm nghĩ, chẳng dè quân trên thành trong thấy chạy vào phi báo. Thủy Hoàng
nghe thấy thất kinh hỏi: "Vậy chớ nó dẫn bao nhiêu binh mã". Quân bẩm báo:
"Không có binh mã chi hết duy một người một ngựa mà thôi". Thủy Hoàng hỏi các
tướng rằng: "Tôn Yên đơn nhơn độc mã tới đây, có khi ngụy kế của Tôn Tẫn đó
chăng?" Bèn truyền hết năm dinh ba quân lớn nhỏ phải giữ gìn cho nghiêm ngặt.
Kim Tử Lăng tâu rằng: "Bệ hạ chớ lo, Tôn Yên đến đây vốn không phải là ngụy kế
của Tôn Tẫn đâu, vì Tôn Tẫn về Đông Tề, Tôn Yên chẳng biết tới lui, lầm vào chỗ
này, cũng như con phi nga bay vào lửa, đem mìng đến nạp, sao bệ hạ không sai
tướng phát binh vây bắt Tôn Yên, ấy là trảm thảo trừ căn đó, mà trả thù nơi Kinh
Kha lúc nọ". Thủy Hoàng nghe nói mừng lắm, truyền lệnh tướng quân lớn nhỏ, cùng
quân áp ra một lượt, cùng vây bắt Tôn Yên chớ cho chạy thoát, trái lệnh chém quách
chẳng dung. Các tướng vâng chỉ lật đật nai nịt, kéo binh ra thành.
Nói về Tôn Yên đang đứng ngoài thành xem ngó thấy thành Dịch Châu phía
Đông ngã, phía Tây sập, trong lòng cả kinh đang lúc buồn rầu thấy cửa thành mở
hoác, xông ra một đạo binh mã ào tới phủ vây. Tôn Yên thấy binh Tần thì nói:
"Không xong, Tần tặc nó đã phá thành Dịch Châu rồi, ta lầm đến đây, lời xưa có
nói:Một sợi tơ không nên chỉ, một tay vỗ chẳng kêu, có khi mạng ta khó gìn, đấng
trượng phu sống nào vui, thác nào sợ, hôm nay cùng Tần tặc liều chết với nhau".
Chẳng rộn ràng, cũng không kinh sợ, bèn dừng ngựa ngừng thương coi binh Tần áp
tới. Vương Tiễn giục ngựa tới trước nạt rằng: "Tôn Triều bối, thành Dịch Châu mi đã
lại phá rồi sao không cao bay xa chạy mà trốn. Còn dám đến thám dọ binh tình, đem
thân chịu chết, mau mau xuống ngựa chịu trói thì thôi, nết trì diên ắt ngươi làm
quỷtrên ngọn mâu này". Tôn Yên ngồi trên ngựa thấy Vương Tiễn chạy tới thì thầm
nghĩrằng: "Thôi để ta dùng kế gạt nó thăm nghe Tôn Thúc ở chỗ nào và Dịch Châu
vì sao bị phá". Nghĩ rồi cười nói: "Điện tây hầu! Cách mặt đã lâu mạt tướng giáp trụ
trong mình, không làm trọn lễ". Vương Tiễn nghe nói trong bụng nghĩ thầm
rằng:'Thằng tiểu bối này ngày thường xấc xược, không biết kiêng ai, cớ sao hôm nay
có lòng cung kính ta như vậy, liệu có khi nó thế yếu thời suy thấy ta mà sợ, nên phải
cung kính,. Hễ con người thì lấy lễ nghĩa làm trước, nay nó lễ nghĩa nói với ta, thì ta
cũng chẳng giận làm chi". Bèn gò ngựa cười nói:'Tôi chào tiểu tướng quân đó, chẳng
hay tướng quân có việc chi chăng?" Tôn Yên nói: "Mạt tướng đến đây vốn không
phải là đi thám dọ quân tĩnh chi đâu, vì tôi đưa tổ mẫu, mẫu thân qua đất Hàm Đan
trở về, chẳng dè Dịch Châu ra cớ sự như vầy, cho nên tôi hỏi tướng quân vậy chớ
Dịch Châu làm sao mà lấy đặng, còn chú tôi ở chỗ nào? ' Vương Tiễn nói:'Té ra
tướng quân mắc qua Hàm Đan, nên không rõ đặng sự tình, chú của ngươi đã về núi
Thiên Thai rồi, còn Dịch Châu bị Hải Triều thánh nhơn, dùng lôi pháp phá tan. Ta
nhắm ngươi ngày thường bổn tánh can cường, thiệt tay hảo hán, hôm nay ngươi
không về đặng, chi bằng quy hàng chúa ta, thì chẳng mất ngôi phong hầu. Tướng
quân ngươi hãy suy tính lấy". Tôn Yên nghe nói trong lòng thương cảm, nước mắt
tuôn rơi, nghĩ rằng: "Dịch Châu bị lôi pháo bắn, chú ta lại về núi rồi, khá thương thay
bá vạn sanh linh, đều mắc tai họa". Nghĩ rồi giận lắm nạt rằng: "Vương Tiễn, mi phá
nhà phá nước của ta, cừu sâu tợ biển oán chất bằng non, chớ chạy". Nói dứt lời hươi
kích đâm tới. Vương Tiễn lật đật rước đánh, hai người đánh đến năm mươi hiệp,
tướng Tần thấy Vương Tiễn đánh không hơn Tôn Yên đều áp ra đao thương loạn đả,
vây đánh Tôn Yên. Tôn Yên lòng chẳng run sợ, đánh giết dường như mãnh hổ bị
say, qua lại tung hoành, đánh đến vài mươi hiệp nữa, nhắm ngay mặt Triệu Cao đâm
tới. Triệu Cao đỡ không kịp quất ngựa tránh qua, Tôn Yên một ngựa xông ra trùng
vây, giục ngựa bạch long câu chạy tuốt. Chúng tướng bên tần biết Tôn Yên lợi hại,
chẳng dám rượt theo, kéo binh về thành.
Nói về Tôn Yên xông ra khỏi thành, thấy binh Tần chẳng rượt theo, bèn gò ngựa
đi chậm chậm, trong bụng nghĩ rằng: "Việc pháo bắn Dịch Châu ấy ắt là thiệt, còn
nói chú ta về núi, thì ta chẳng tin đặng, nếu chú ta về núi có đâu dẫn luôn binh mã
theo sau, trong đó ắt có cớ chi, vậy ta tuốt qua nước Tề, thăm nghe cho rõ, rồi trở về
Hàm Đan, cũng không muộn chi". Nghĩ rồi giục ngựa suốt đêm tuốt đến Lâm Tri.
Chẳng bao lâu tới Lâm Tri, vào chàng tỏ hết các việc, quan Huỳnh môn vào điện tâu
rằng: "Nay có cháu ba đời của Thoại lăng quân, ở bên Dịch Châu, Yên Sơn đến đây,
cón đứng ngoài ngọ môn hầu chỉ". Tương Vương nghe tâu cả mừng, truyền chỉ mời
vào. Tôn Yên vào điện, chầu lạy xong rồi. Tương Vương hỏi: "Ngự đệ bởi đâu mà
đến?" Tôn Yên bèn đem các việc tâu hết một hồi, và hỏi rằng: "Chẳng hay chú tôi
quả thiệt về núi chăng? Có khi bệ hạ biết chớ?" Tương Vương nói: "Á phụ ở đây,
vậy để trẫm mời ra". Bèn sai quân cận đến phụng các, bẩm cùng Tôn Tẫn, Tôn Tẫn
theo chỉ vào điện. Tôn Yên thấy Tôn Tẫn lòng rất vui mừng, bước tới quỳ xuống đơn
trì nói: "Cháu là Tôn Yên lạy ra mắt chú". Tôn Tẫn xem thấy sa nước mắt hỏi:
"Cháu đến đây làm gì?" Tôn Yên nói: "Tổ mẫu sai tôi qua Dịch Châu, thăm coi chú
đánh với binh Tần thế nào?" Tôn Yên nói: "Không phải ta có thủy không chung, vì
sức người không trái trời đặng, cho nên túng phải tới đây". Nói rồi bước tới làm lễ
Tương Vương. Tương Vương mới ngồi. Tôn Tẫn tâu rằng: "Tôi đến xin từ giã bệ hạ".
Tương Vương nghe nói thất kinh hỏi: "Á phụ muốn đi đâu bây giờ?" Tôn Tẫn nói:
"Qua Hàm Đan phụng dưỡng mẹ già?" Tương Vương nói: "Á phụ đi sao cho đành.
Vả chăng nhà Tần phá lấy Dịch Thủy rồi chắc làm sao cũng kéo binh xâm phạm
Lâm Tri này, nếu Á phụ qua Hàm Đan rồi, binh Tần kéo đến, chừng ấy biết lấy ai
mà ngăn cự, như Á phụ có tưởng nhớ quý nhơn, thì sai người rước đến Lâm Tri này,
mẹ con sớm tối, tụ hội cùng nhau vậy chẳng là hay hơn, mẹ Á phụ là bà nội trẫm,
vậy rước tới đây thì sao mà không đặng". Tôn Tẫn bị Tương Vương hết lời khuyên
cầm túng phải nói: "Bệ hạ đức lớn bằng trời, rước mẹ tôi về nước Tề, cảm ơn chẳng
xiết". Tương Vương nghe nói rất mừng, thân viết thơ, Tôn Tẫn cũng viết một phong
thư trao cho Tôn Yên dặn rằng: "Cháu chớ từ cực nhọc, hãy lãnh bức thư này, cùng
tờ thơ của bệ hạ qua đất Hàm Đan rước Tô Mẫu đến nước Tề chẳng nên chậm trễ".
Tôn Yên lãnh thơ rồi, vội vàng quỳ xuống tâu rằng: "Xin bệ hạ kịp tả hữu thơ, đặng
tôi đến Hàm Đan cho sớm".