Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Chương 8

Cậu thầy tu trẻ tuổi người Pict gầy gò, dáng vẻ ốm yếu nói thành thạo ngôn ngữ của Edwin. Chẳng chút nghi ngờ gì, cậu bé đã rất sung sướng khi có bạn đồng hành là một người cùng cỡ tuổi, và trong suốt phần đầu của cuộc hành trình xuống núi xuyên qua lớp sương mù của buổi sớm mai, cậu đã nói chuyện một cách đầy hứng thú. Nhưng kể từ khi hai đứa bước chân vào tới rừng, thầy tu trẻ tuổi bỗng trở nên lặng thinh khiến Edwin băn khoăn không biết có phải cậu đã làm gì đó khiến người dẫn đường của mình phật ý hay chăng. Có lẽ chỉ vì cậu ta quá lo lắng không muốn những gì đang ẩn nấp sau đám cây chú ý tới mình; vì rằng lẫn giữa tiếng chim hót líu lo kia còn có cả những tiếng rít và những tiếng lầm bầm nghe thực quái gở nữa. Khi Edwin hỏi thêm một lần nữa, mục đích là để phá tan sự im lặng chứ không phải để thấy yên tâm, “Vậy là vết thương của anh trai tớ chắc không nguy hiểm đến tính mạng hả cậu?” Câu trả lời cậu nhận được thực là cộc lốc.

“Cha Jonus bảo không. Không có ai thông thái hơn cha.”

Vậy thì Wistan không bị thương nặng rồi. Quả thực là, người chiến binh cũng đã xoay xở xuống đồi chỉ một lúc trước đó, trong lúc trời vẫn tối. Liệu anh ấy có phải dựa cả người vào cánh tay người dẫn đường này không? Hay anh ấy đã xoay xở tự trèo lên lưng con ngựa cái của mình, trong khi một thầy tu cầm chắc dây cương dẫn đường?

“Dẫn thằng bé này xuống nhà người thợ sửa thùng. Nhớ chú ý để không ai thấy cháu rời khỏi tu viện đấy nhé.” Đó là những lời cha Jonus căn dặn thầy tu trẻ tuổi, cậu ta đã nói vậy với Edwin. Vậy là chẳng bao lâu nữa, Edwin sẽ được gặp lại người chiến binh, nhưng không biết anh ấy sẽ đón tiếp cậu thế nào đây? Cậu đã làm Wistan thất vọng ngay trong thử thách đầu tiên. Thay vì nhanh chóng chạy tới hỗ trợ Wistan khi có những dấu hiệu đầu tiên của cuộc chiến, Edwin đã trốn chạy vào đường hầm dài dằng dặc đó. Nhưng mẹ cậu không có mặt dưới đó, và chỉ khi đầu kia của đường hầm cuối cùng cũng hiện ra, ở đằng xa và tràn trong ánh trăng giữa màn đêm, cậu mới thấy như được cất khỏi những đám mây nặng nề của một giấc mơ và mới hãi hùng nhận ra những gì vừa xảy ra.

Ít nhất thì cậu đã làm hết sức mình sau khi ra tới chỗ không khí buổi sáng lạnh giá. Cậu đã chạy gần như suốt quãng đường ngược trở lên tu viện, chỉ chậm lại ở những đoạn đường dốc nhất. Thỉnh thoảng, khi dấn bước qua rừng cây, cậu có cảm giác mình đã lạc đường, nhưng rồi cây cối thưa thớt dần và tu viện hiện ra dưới nền trời nhợt nhạt. Vậy là cậu lại tiếp tục trèo dốc và tới được cánh cổng lớn, thở không ra hơi và hai chân đau ê ẩm.

Cánh cửa nhỏ bên cạnh cổng chính không bị khóa, cậu trấn tĩnh hết mức, cẩn thận rón rén đi qua các khoảng sân. Cậu đã để ý thấy có khói trên đường leo dốc lúc gần tới tu viện, nhưng ngay lúc này, khói khiến ngực cậu ngứa ngáy, thật khó mà không ho lên thành tiếng. Cậu cũng biết chắc chắn một điều, rằng lúc ấy đã quá muộn để di chuyển chiếc xe chở cỏ khô, và cảm giác trống rỗng lấp đầy trong cậu. Cậu đã gạt cảm xúc sang một bên và tiếp tục dấn bước vào bên trong tu viện.

Được một lúc rồi mà Edwin vẫn chưa chạm trán một thầy tu hay một tên lính nào. Nhưng khi cậu lần bước dọc theo bức tường trên cao, đầu cúi thấp để không bị phát hiện từ ô cửa sổ xa tít đằng kia, cậu đã thấy đám ngựa của bọn lính chen chúc nhau trong khoảng sân nhỏ phía dưới, bên trong cánh cổng chính. Bị giam trong bốn bức tường cao, những con vật vẫn thắng nguyên yên cương ấy bồn chồn đi loanh quanh, dù làm vậy chúng cứ đâm phải nhau do chỗ đó qua chật chội. Thế rồi khi Edwin tới gần nơi ở của các thầy tu, nếu là một thằng bé khác trạc tuổi cậu rất có thể sẽ lao ra để chạy tới khoảng sân chính giữa, nhưng Edwin thì đủ nhanh trí để nhớ lại vị trí của các khu đất rồi đi tiếp bằng đường vòng, tận dụng những gì cậu nhớ về các lối đi tắt phía sau. Kể cả khi đã tới nơi, cậu cũng vẫn trốn sau một cột đá rồi thận trọng hé nhìn qua.

Hầu như không nhận ra nổi khoảng sân chính giữa nữa. Ba dáng người mặc áo choàng đang mệt mỏi quét sân và trong khi cậu theo dõi, bóng người thứ tư xuất hiện cùng một cái xô rồi rảy nước lên lớp sỏi, khiến mấy con quạ đang trốn quanh đó bay vụt đi. Rải rác khắp mặt sân là rơm và cát, Edwin chợt trông thấy vài đống gì đó cậu đoán là xác chết được phủ một lớp vải gai. Tòa tháp đá cổ lỗ, cậu biết đó là nơi Wistan cầm cự, hiện ra lờ mờ phía trên quang cảnh này, nhưng chính tòa tháp cũng đã thay đổi: nó đã cháy rụi thành than và nhiều chỗ chuyển màu đen sì, đặc biệt quanh lối vào hình vòm và quanh toàn bộ các ô cửa sổ hẹp. Trong mắt Edwin, cả ngọn tháp dường như đã bị teo lại. Đúng lúc cậu vươn cổ ló ra từ sau cột chống để cố xác định xem những vũng chất lỏng quanh các đống vải bao bố kia là máu hay là nước, hai bàn tay xương xẩu bỗng tóm lấy vai cậu từ phía sau.

Cậu xoay người lại và thấy cha Ninian, vị thầy tu câm lặng, đang nhìn thẳng vào mắt mình. Edwin không hét lên, nhưng cậu hạ giọng nói, tay chỉ về phía những xác chết: “Anh Wistan, người anh em Saxon của cháu. Anh ấy có nằm ngoài kia không?”

Vị thầy tu câm lặng có vẻ hiểu những gì Edwin nói, ông ta lắc đầu đầy vẻ dứt khoát. Nhưng khi đưa một ngón tay lên môi làm cử chỉ ra hiệu quen thuộc ấy, ông ta nhìn vào mặt Edwin như để căn dặn. Thế rồi, lén lút đưa mắt nhìn quanh, Ninian lôi Edwin đi xa khỏi khoảng sân.

“Liệu có chắc chắn không hả anh,” cậu đã hỏi Wistan hôm trước, “bọn lính sẽ đến chứ? Ai sẽ cho chúng biết chúng ta đang ở đây chứ? Em biết chắc các thầy tu này tin rằng chúng ta chỉ là những người chăn cừu bình thường.”

“Ai mà biết được, cậu bé. Có thể họ sẽ để cho chúng ta yên. Nhưng anh hình dung có một người sẽ tiết lộ sự có mặt của chúng ta ở đây, và ngay lúc này đây, rất có thể Brennus tốt tính đang phát lệnh ra quân. Kiểm tra cho kỹ vào, chiến hữu trẻ tuổi ạ. Người Briton thường dùng các thanh gỗ mỏng để phân chia một kiện cỏ khô từ bên trong. Chúng ta cần độc có cỏ khô thôi, từ trên xuống dưới.”

Edwin và Wistan lúc ấy đang ở bên trong căn nhà kho phía sau tòa tháp cổ. Tạm thời dừng bổ củi, người chiến binh bị một nỗi hối thúc trong lòng, anh cứ nhất quyết phải chất cỏ khô được trữ phía sau nhà kho cho đầy chiếc xe kéo ọp ẹp. Từ lúc họ bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ này, cứ lâu lâu Wistan lại yêu cầu Edwin trèo lên trên các kiện cỏ rồi dùng một cây gậy thọc sâu vào bên trong. Đứng quan sát kỹ lưỡng từ dưới mặt đất, người chiến binh thỉnh thoảng lại báo Edwin kiểm tra lại một vị trí, hoặc đề nghị cậu thọc một chân xuống một điểm cụ thể nào đó, đến khi không xuống thêm được nữa mới thôi.

“Những thầy tu mộ đạo này thuộc dạng người đãng trí,” “Wistan giải thích như thể cho Edwin nghe. “Rất có thể họ đã bỏ quên một cái thuổng hoặc một cây chĩa trong đám cỏ. Nếu vậy, tìm được chúng chính là giúp ích cho họ đấy, vì trên này hiếm dụng cụ lắm.”

Mặc dù vào lúc ấy, người chiến binh không hề nhắc gì đến mục đích của đống cỏ khô này, nhưng Edwin vẫn biết ngay rằng nó nhất định có liên quan tới cuộc đối đầu đang chờ họ phía trước, và đó chính là lý do vì sao cậu đặt ra câu hỏi về đám lính kia, khi hai người đang chất những kiện cỏ lên.

“Ai sẽ là người phản bội lại chúng ta hả anh? Các thầy tu không nghi ngờ gì chúng ta. Họ quá bận cãi nhau, họ thậm chí còn chẳng thèm để mắt gì đến chúng ta nữa.”

“Có thể là như vậy, cậu bé ạ. Nhưng kiểm tra cả chỗ kia nữa. Ngay chỗ ấy đấy.”

“Có phải cặp vợ chồng già sẽ phản bội chúng ta không? Nhưng họ quá thật thà và ngốc nghếch.”

“Ừ thì họ là người Briton, nhưng anh không nghĩ họ sẽ phản bội lại chúng ta. Nhưng em lầm khi nghĩ rằng họ là những người ngốc nghếch rồi đấy, cậu bé ạ. Bác Axl chẳng hạn, là một con người rất sâu sắc.”

“Anh chiến binh ơi, tại sao chúng ta lại đi cùng họ? Họ làm chúng ta chậm bước khắp nơi nơi.”

“Đúng là họ khiến chúng ta chậm bước, và chúng ta sẽ sớm ai đi đường người nấy. Nhưng sáng nay khi chúng ta lên đường, trong lòng anh tha thiết mong muốn có bác Axl đi cùng. Có lẽ anh vẫn còn muốn được vậy một thời gian nữa. Như anh đã nói, bác ấy là một người rất sâu sắc. Bác ấy và anh có thể còn đôi chuyện để bàn. Nhưng thôi, giờ hãy tập trung vào những gì chúng ta đang phải đối mặt ở đây đi. Chúng ta phải chất cho đầy chiếc xe này một cách cẩn thận và chắc chắn. Chúng ta cần cỏ khô thật sạch. Không được lẫn gỗ hay sắt. Em thấy anh cần sự giúp đỡ của em thế nào rồi đấy, cậu bé.”

Thế mà Edwin đã làm Wistan thất vọng. Làm sao mà cậu lại ngủ lâu đến thế? Nội việc nằm xuống như thế đã là một sai lầm. Lẽ ra cậu chỉ nên ngồi dựa lưng vào góc tường mà chợp mắt một chút giống như Wistan vẫn làm, để luôn sẵn sàng đứng bật dậy khi nghe thấy những tiếng động đầu tiên. Thay vì thế, chẳng khác gì một đứa trẻ sơ sinh, cậu đã nhận một ly sữa từ tay bà già ấy rồi lăn ra ngủ li bì ở góc phòng.

Có phải mẹ cậu đã gọi cậu trong những giấc mơ? Có lẽ đó là lý do vì sao cậu đã ngủ lâu đến thế. Nhưng khi vị thầy tu đi cà nhắc lay cậu dậy, tại sao thay vì chạy tới giúp người chiến binh, cậu lại theo họ suốt dọc lối đi ngầm dài dằng dặc lạ hoắc ấy, hệt như lúc cậu vẫn còn đang mê đắm trong giấc ngủ.

Cậu chẳng nghi ngờ gì đó chính là giọng mẹ mình, đúng giọng nói đã gọi cậu lúc bị nhốt trong nhà kho. “Hãy gom đủ sức mạnh vì mẹ, Edwin. Hãy gom đủ sức mạnh và tới giải cứu mẹ, tới giải cứu mẹ, tới giải cứu mẹ.” Giọng nói sáng hôm trước không có vẻ gấp gáp như giọng nói hôm nay. Và còn nữa: lúc cậu đứng trước cánh cửa sập mở rộng ấy, mắt trân trân nhìn xuống những bậc thang dẫn vào bóng tối trong hầm, cậu thấy một điều gì đó cứ lôi kéo mình, mạnh đến mức khiến cậu choáng váng, gần như phát ốm.

Thầy tu trẻ tuổi đang dùng một cái gậy gạt cây mận gai khỏi lối đi, chờ cho Edwin vượt qua chỗ mình đứng. Cuối cùng thì cậu ta cũng lên tiếng, mặc dù chỉ thì thào.

“Lối đi tắt. Chẳng mấy chốc nữa sẽ thấy mái nhà của người thợ sửa thùng.”

Khi hai người ra khỏi khu rừng tới đoạn đất trống đổ xuống chỗ đám sương sớm đang dần tan, Edwin vẫn thấy có cái gì đó động đậy cùng những tiếng rít trong bãi dương xỉ diều hâu ven đường. Cậu bỗng nhớ tới một buổi chiều tối cuối mùa hè đầy nắng, khi cậu nói chuyện với cô gái ấy.

Thoạt đầu ngày hôm ấy, cậu còn chưa trông thấy hồ nước vì nó rất nhỏ và khuất sau đám cây bấc. Một đàn côn trùng đủ sắc màu bay vụt lên trước mặt cậu, bình thường ra điều đó sẽ thu hút sự chú ý của Edwin, nhưng hôm nay tâm trí cậu dồn cả vào tiếng động phát ra từ phía bờ hồ. Một con vật bị mắc bẫy? Cậu lại nghe thấy tiếng động một lần nữa, lẫn trong tiếng chim hót và tiếng gió. Tiếng động ấy cứ lặp lại theo chu kỳ: một tiếng sột soạt dữ dội bùng lên, như đang cố chống cự, rồi im lặng. Chẳng mấy chốc sau, lại thấy sột soạt. Thận trọng tiến lại gần, cậu nghe thấy có tiếng thở hổn hển. Rồi một cô gái hiện ra trước mắt cậu.

Cô gái nằm ngửa trên đám cỏ nhám, người vẹo về một bên. Cô lớn hơn cậu độ vài tuổi - chừng mười lăm hay mười sáu - mắt đang nhìn thẳng vào cậu không chút sợ hãi. Mất một lúc Edwin mới nhận ra rằng tư thế kỳ cục ấy là do hai tay cô bị trói dưới người. Đám cỏ nằm bẹp xung quanh đánh dấu khu vực cô gái đã dùng hai chân ẩy để trườn đi trong cuộc vật lộn. Chiếc áo cô đang mặc thuộc loại áo vải xô, được buộc gọn ở chỗ thắt lưng, dọc một bên người đã nhuốm bẩn, có thể còn ướt sũng cũng nên, cả hai chân cô da sẫm đến bất bình thường, đầy những vết cào xước mới nguyên từ đám cây kế.

Trong đầu Edwin lóe lên ý nghĩ cho rằng cô là ma quỷ hay yêu tinh, nhưng khi cô cất lời, không có tiếng vọng lại.

“Mày muốn gì? Đến đây làm gì?”

Lấy lại bình tĩnh, Edwin trả lời: “Nếu chị muốn, em sẽ giúp chị.”

“Mấy cái nút thắt này có khó gì đâu. Bọn nó chỉ trói tao chặt hơn bình thường mà thôi.”

Chỉ đến lúc ấy cậu mới nhận thấy mặt và cổ cô gái đầy mồ hôi. Vừa nói, tay cô vừa bận bịu giãy giụa dưới lưng.

“Chị có đau không?”

“Không đau. Nhưng một con bọ cánh cứng vừa đậu vào đầu gối tao. Nó bám chặt xong đốt tao. Sẽ sưng vù lên ngay cho mà xem. Tao thấy mày còn bé quá sao mà giúp tao được. Cũng chẳng sao, tao tự xoay được.”

Cô gái vẫn nhìn thẳng vào mặt Edwin, ngay cả khi cô gân mặt lên mà vặn vẹo nâng người lên khỏi mặt đất một chút. Edwin đứng sững ra nhìn, chờ đợi giây phút hai tay cô được giải phóng vung ra từ dưới lưng. Nhưng rồi cô gái chịu thua trũng người xuống, nằm thượt trên cỏ, thở hồng hộc mà giận dữ nhìn cậu.

“Em giúp được mà,” Edwin nói. “Em tháo gút giỏi lắm.”

“Mày chỉ là một thằng nhóc con.”

“Không đúng. Em sắp mười hai rồi.”

“Bọn nó sắp quay lại rồi. Nếu biết mày tháo dây cho tao, bọn nó sẽ cho mày ăn đòn.”

“Bọn họ là người lớn hết à?”

“Bọn nó nghĩ thế, nhưng thực ra chỉ toàn một lũ con trai. Nhưng mà lớn hơn mày và có ba thằng tất cả. Bọn nó không khoái gì hơn là được đánh mày đâu. Bọn nó sẽ dìm đầu mày xuống chỗ nước đầy bùn kia cho đến khi mày ngất đi mới thôi. Tao đã từng thấy bọn nó làm như thế.”

“Là bọn con trai trong làng à?”

“Làng gì mà làng?” Cô gái nhìn cậu đầy vẻ khinh miệt. “Làng nhà mày í hả? Ngày nào chúng tao chẳng đi qua hết làng này đến làng nọ. Chúng tao thèm gì đến làng của mày? Nhưng bọn nó chắc sắp quay lại rồi, đến lúc đó thì mày sẽ gặp phiền phức lắm đấy.”

“Em không sợ. Em giải thoát được cho chị, nếu chị muốn.”

“Tao luôn tự giải thoát cho mình.” Cô gái lại oằn người.

“Sao bọn họ lại trói chị thế?”

“Tại sao ư? Chắc là để nhìn cho vui. Nhìn xem tao cố thoát ra thế nào. Nhưng bọn nó bỏ đi rồi, đi trộm thức ăn.” Rồi cô lại nói: “Tao tưởng dân làng chúng mày phải làm việc cả ngày chứ. Sao mẹ mày lại cho mày đi lang thang thế này?”

“Em được đi vì em đã làm xong ba phần việc được giao cho ngày hôm nay.” Rồi cậu nói thêm: “Mẹ đẻ của em không sống ở làng nữa.”

“Thế bà ấy đi đâu?”

“Em không biết. Mẹ em bị bắt đi. Giờ em sống với dì.”

“Khi tao còn nhỏ tuổi như mày,” cô gái nói, “tao cũng sống ở làng. Nhưng giờ thì tao đi khắp nơi.”

“Chị đi với ai?”

“Ở… với bọn nó. Bọn tao thường xuyên đi qua chỗ này. Tao nhớ có lần bọn nó trói tao rồi bỏ tao đúng ở đây, đúng chỗ này, mùa xuân năm ngoái.”

“Để em cởi trói cho chị nhé,” nó bỗng nói. “Và nếu bọn họ quay lại, em sẽ không sợ ai hết.”

Nhưng một cái gì đó vẫn giữ chân Edwin lại. Cậu đã nghĩ cô gái sẽ đưa mắt nhìn ra chỗ khác, hay ít ra cô sẽ dịch người đi khi biết cậu chuẩn bị tiến tới gần. Nhưng cô gái vẫn tiếp tục nhìn thẳng vào cậu, trong khi dưới cái lưng uốn cong kia, hai bàn tay vẫn tiếp tục giãy giụa. Chỉ đến khi cô gái thở ra một hơi thật dài, cậu mới nhận ra cô gái đã nín thở một lúc khá lâu.

“Bình thường tao vẫn tự cởi được,” cô nói. “Nếu mày không đến thì chắc giờ này tao đã tháo xong rồi.”

“Họ trói chị để chị không bỏ chạy à?”

“Bỏ chạy ư? Bỏ chạy đi đâu mới được chứ? Tao đi lang thang cùng bọn nó mà.” Thế rồi cô nói tiếp: “Tại sao mày lại đến đây? Tại sao không đi giúp mẹ mày đi?”

“Mẹ em ư?” Cậu ngạc nhiên thật tình. “Tại sao mẹ em lại muốn em giúp chứ?”

“Mày nói bà ấy bị bắt đi còn gì?”

“Đúng, nhưng chuyện ấy xảy ra từ lâu lắm rồi. Giờ thì bà ấy rất hạnh phúc.”

“Làm sao bà ấy hạnh phúc được? Mày không nghĩ mẹ mày muốn có người đến cứu mình à?”

“Mẹ em chỉ đi xa thôi mà. Bà ấy sẽ không muốn em…”

“Trước đây bà ấy không muốn mày tới, vì mày vẫn còn là đứa trẻ con. Nhưng bây giờ mày sắp thành đàn ông rồi.” Cô gái đột nhiên im lặng, cong lưng lên cố phối hợp động tác. Rồi cô lại thả người xuống. “Thỉnh thoảng,” cô nói, “nếu bọn nó quay lại mà tao vẫn chưa tự giải thoát được cho mình, bọn nó cũng không tháo dây trói cho tao. Bọn nó cứ nhìn mà không nói một lời, cho tới khi tao cố gắng tháo ra và tay tao được tự do. Từ lúc về cho tới lúc ấy, bọn nó cứ ngồi ở chỗ kia nhìn và nhìn, cái sừng quỷ cứng lên giữa hai chân. Chắc là tao cũng đỡ cảm thấy khó chịu hơn nếu bọn nó nói gì đó. Nhưng bọn nó cứ nhìn và nhìn mà chẳng nói năng gì hết.” Rồi cô nói tiếp: “Khi nhìn thấy mày, tao tưởng mày cũng sẽ làm như thế. Tao tưởng mày sẽ ngồi kia mà nhìn chẳng nói năng gì.”

“Em tháo dây nhé? Em không sợ bọn họ, em tháo nút buộc giỏi lắm đấy.”

“Mày chỉ là thằng nhóc con.” Nước mắt đột nhiên rơi. Chuyện này xảy ra vô cùng chóng vánh, và vì nét mặt cô gái không có chút cảm xúc nào, lúc đầu Edwin cứ tưởng mình đang thấy mồ hôi. Nhưng rồi cậu nhận ra đó là nước mắt, và vì mặt cô gái đang quay nghiêng nên nước mắt chảy một cách kỳ cục, qua sống mũi mà lăn xuống gò má bên kia. Trong lúc đó, cô gái vẫn cứ dán mắt nhìn cậu. Nước mắt khiến cậu lúng túng, làm cho cậu đột ngột dừng lại.

“Vậy thì cởi đi,” cô nói, lần đầu tiên dịch người nằm nghiêng và đưa mắt ra xa chỗ đám cây cỏ nến mọc trong nước.

Edwin vội bước tới, như một tên trộm phát hiện thấy cơ hội đến gần, cậu quỳ xuống cỏ và bắt đầu kéo nút thắt. Sợi dây bện tuy mảnh nhưng thô ráp, siết vào cổ tay cô gái một cách tàn nhẫn; ngược lại, hai lòng bàn tay xòe ra bắt tréo nhau nhìn thật nhỏ nhắn và mềm mại. Lúc đầu, các nút thắt không chịu bung ra, nhưng Edwin buộc mình phải bình tĩnh, cậu cẩn thận nghiên cứu xem sợi dây cuộn vào theo chiều nào. Thế rồi cậu thử lại một lần nữa, và lần này một gút thắt bung ra dưới bàn tay cậu. Giờ thì cậu tiếp tục đầy tự tin, thỉnh thoảng lại đưa mắt liếc nhìn hai lòng bàn tay mềm mại đang chờ đợi như hai cánh bướm ngoan ngoãn.

Sau khi cậu rút sợi dây bện ra, cô gái liền quay người lại mà ngồi đối mặt với cậu ở khoảng cách gần tới mức khiến cậu đột nhiên cảm thấy không thoải mái. Cậu nhận thấy cô gái không có mùi phân ôi cũ, cái mùi quen thuộc hiện diện ở gần như tất cả mọi người: người cô tỏa ra thứ mùi của một đám lửa cháy từ củi ướt.

“Nếu bọn nó quay lại,” cô nói nhỏ, “bọn nó sẽ kéo lê em qua đám sậy rồi làm cho em gần chết ngạt cho mà xem. Em nên đi đi thì hơn. Quay về làng em đi.” Cô gái duỗi thử tay ra như thể không biết chắc lúc đó bàn tay có chịu nghe lời mình hay không, sau đó đẩy vào ngực Edwin. “Đi đi. Nhanh lên.”

“Em không sợ bọn họ.”

“Em không sợ, nhưng chúng nó vẫn sẽ làm những gì chúng muốn. Em đã giúp chị, nhưng bây giờ em phải đi ngay. Đi, nhanh lên.”

Khi Edwin quay lại chỗ ấy ngay trước khi mặt trời lặn, đám cỏ chỗ cô gái nằm lúc nãy vẫn rạp trên mặt đất, nhưng không còn vết tích gì của cô nữa. Ấy vậy mà, nơi đây vẫn mang lại cho cậu cái cảm giác thanh bình đến khác thường, cậu đã ngồi xuống cỏ mà ngắm đám cây hương bồ dập dờn trước gió.

Edwin chưa bao giờ nói với ai về cô gái - nhất là dì cậu, bà sẽ ngay lập tức kết luận cô là một con quỷ, và cậu cũng chẳng nói gì với bọn con trai trong làng. Nhưng những tuần lễ tiếp sau đó, hình ảnh sống động của cô gái cứ không mời mà trở lại trong cậu; thỉnh thoảng vào ban đêm, trong những giấc mơ; lúc khác lại giữa thanh thiên bạch nhật, khi cậu đang đào đất hay đang giúp sửa một mái nhà, và lúc ấy cái sừng quỷ sẽ lớn lên giữa hai chân cậu. Mãi rồi cái sừng cũng biến mất, bỏ Edwin lại trong cảm giác hổ thẹn, rồi những lời nói của cô gái lại vang lên: “Tại sao mày đến đây? Sao mày không đi giúp mẹ mày đi?”

Nhưng làm thế nào để đến được với mẹ cậu bây giờ? Chính cô gái đã bảo cậu “chỉ là một thằng bé con”. Nhưng trái lại, cô cũng đã nói, chẳng bao lâu nữa cậu sẽ trưởng thành. Mỗi khi nhớ lại những lời nói này, cảm giác hổ thẹn lại dâng lên mới nguyên trong cậu, thế nhưng cậu vẫn không biết phải tiếp bước thế nào.

Nhưng tất cả những điều ấy đã thay đổi kể từ giây phút Wistan hất tung cánh cửa căn nhà kho, khiến ánh sáng lóa mắt tràn vào mà tuyên bố rằng chính Edwin là người được anh lựa chọn cho nhiệm vụ này. Giờ thì hai người đang ở đây, Edwin và người chiến binh đang cùng sánh bước trên khắp các nẻo đường trong vùng, và nhất định chẳng bao lâu nữa họ sẽ gặp cô. Tới lúc ấy, đám đàn ông đi cùng cô sẽ phải run rẩy.

Nhưng liệu có phái chính là giọng nói của mẹ cậu đã dẫn dắt cậu đi như thế? Không hoàn toàn chỉ vì nỗi sợ bọn lính? Những câu hỏi này cứ len lỏi vào trong tâm trí Edwin khi cậu theo chân thầy tu trẻ đi xuống lối mòn ít người đặt chân tới bên một dòng suối chảy xuôi dốc. Cậu có dám chắc mình không hoảng hốt khi tỉnh dậy rồi nhìn qua cửa sổ và trông thấy bọn lính chạy đi chạy lại quanh tòa tháp cổ? Nhưng lúc này, khi suy nghĩ thật cẩn thận về tất cả mọi chuyện, Edwin tin chắc mình đã không hề sợ hãi. Lúc nãy trời còn sáng, khi người chiến binh dẫn cậu vào tòa tháp đó và hai người trò chuyện cùng nhau, Edwin chỉ thấy nóng lòng được đứng bên Wistan đối mặt với kẻ thù đang tới.

Wistan đã rất quan tâm tới tòa tháp cổ này kể từ lúc họ mới đặt chân tới tu viện. Ewdin vẫn nhớ người chiến binh liên tục đưa mắt nhìn lên đỉnh tháp lúc họ cùng nhau bổ củi trong kho chứa gỗ. Và khi hai người vận chuyển củi trên xe ba gác khắp nơi bên trong tu viện, họ đã hai lần cố tình đi chệch hướng chỉ để được đi qua chỗ tòa tháp. Vậy nên khi các thầy tu đã biến cả vào trong tòa nhà dự họp và khoảng sân vắng hoe, Edwin chẳng ngạc nhiên gì khi người chiến binh tựa rìu vào đống củi mà nói: “Ra đằng này một tí đi, anh bạn chiến đấu trẻ tuổi, chúng ta sẽ xem xét thật kỹ càng anh chàng cao kều cổ lỗ đang chằm chằm nhìn chúng ta từ trên cao kia. Anh thấy chàng ta cứ dõi theo chúng ta từng bước và bực bội vì chưa ai chịu tới thăm mình.”

Khi hai người bước chân qua vòm cửa thấp lè tè vào bóng tối lờ mờ lạnh lẽo phía bên trong tòa tháp, người chiến binh bảo Edwin: “Cẩn thận nhé. Tuy ta tưởng mình đã vào tới bên trong, nhưng nhìn xuống chân mà xem.”

Đưa mắt nhìn xuống, Edwin thấy trước mặt mình là cái gì đó như một cái hào chạy men theo bờ tường tạo thành một vòng tròn. Hào quá rộng một người không thể nhảy qua, một chiếc cầu đơn sơ làm bằng hai mảnh ván là cách duy nhất sang được tới nền đất chính giữa tòa tháp. Khi Edwin đặt chân lên chỗ hai tấm ván và nhìn xuống bóng tối phía dưới, cậu nghe thấy tiếng người chiến binh vang lên sau lưng:

“Chiến hữu trẻ tuổi ơi, em có để ý thấy trong hào không có nước không? Và kể cả nếu em ngã thẳng xuống hào, ta biết chắc hào không sâu hơn chiều cao của em đâu. Em có thấy lạ không? Tại sao lại đào hào bên trong chứ? Mà tại sao phải đào hào cho một tòa tháp bé tí thế này? Làm thế để làm gì?” Wistan đi qua hai tấm ván rồi dùng gót chân dận thử xuống mặt đất giữa nền nhà. “Rất có thể,” anh nói, “người xưa xây tòa tháp này để giết mổ gia súc. Rất có thể nền nhà chỗ này trước đây đã từng là sàn giết mổ. Những bộ phận nào họ không muốn, họ chỉ việc vứt xuống hào là xong. Em thấy thế nào, cậu bé?”

“Rất có thể như vậy, anh chiến binh ạ,” Edwin nói. “Nhưng cũng chẳng dễ dàng gì nếu phải dẫn một con thú qua các tấm ván hẹp như thế này.”

“Có thể thời ấy có một cây cầu khá khẩm hơn chăng,” Wistan đáp. “Đủ chắc chắn cho một con bò, thậm chí một con bò mộng đi qua. Sau khi con thú đã được dẫn qua, và khi nó đã đoán ra được số phận của mình, hoặc khi nhát bổ đầu tiên không khiến nó quy gối, lối kiến trúc này sẽ đảm bảo việc trốn chạy chẳng dễ dàng gì. Thử hình dung con vật quằn quại cố tấn công, nhưng quay đâu cũng thấy là đường hào. Trong cơn điên cuồng như thế, đâu dễ gì để phát hiện ra cây cầu nhỏ. Chẳng ngốc tẹo nào khi cho rằng nơi đây vốn là một lò mổ đâu nhé. Cậu bé này, hãy cho anh biết, em thấy gì khi ngẩng đầu nhìn lên trên kia?”

Trông thấy một vòng tròn bầu trời tít trên cao, Edwin liền nói: “Anh ơi, tòa tháp mở thông lên trời. Giống như một cái ống khói.”

“Nhận xét của em rất thú vị. Nói lại xem nào.”

“Giống như một ống khói anh ạ.”

“Em nghĩ gì về điều này?”

“Nếu người xưa dùng nơi này làm lò mổ thì chắc họ cũng đã nhóm lửa ở ngay chỗ anh với em đang đứng. Chắc họ sẽ xẻ thịt con vật rồi nướng, để cho khói bay lên trời.”

“Rất có thể đúng như lời em nói, cậu bé ạ. Anh băn khoăn không biết các thầy tu theo đạo Cơ Đốc này có nghi ngờ chút nào về những gì từng diễn ra trong này không nhỉ? Anh hình dung, những con người lịch thiệp ấy vào trong tòa tháp này để được tận hưởng sự tĩnh lặng và riêng tư. Có thấy bức tường này dày dặn đến thế nào không. Âm thanh khó lòng lọt qua, cho dù lúc ta bước chân vào, lũ quạ ngoài kia vẫn đang kêu quang quác. Thấy ánh sáng lọt xuống từ trên kia thế nào không. Chắc sẽ gợi cho họ nghĩ tới ơn Chúa. Em thấy thế nào, cậu bé?”

“Đúng, rất có thể các thầy tu vào đây để cầu nguyện. Cho dù mặt đất ở đây bẩn quá làm sao quỳ gối cho được.”

“Họ đứng cầu nguyện thì sao, chẳng hề nghĩ tới chuyện nơi đây đã từng là lò sát sinh và nơi nướng thịt. Em còn thấy gì nữa khi nhìn lên trên ấy, hả cậu bé?”

“Em chẳng thấy gì nữa.”

“Không gì hết sao?”

“Chỉ thấy có các bậc thang thôi ạ.”

“A, các bậc thang. Nói cho anh nghe về các bậc thang đi.”

“Chúng xuất phát từ chỗ đường hào, rồi cứ lượn vòng theo bức tường tròn. Chúng chạy lên tận chỗ mở trên đỉnh tháp.”

“Em quan sát tốt lắm. Giờ thì hãy lắng nghe cho kỹ đây.” Wistan tiến lại gần rồi hạ giọng. “Nơi này, không chỉ có tòa tháp cổ này, toàn bộ địa điểm này, nơi mà ngày nay người ta gọi là tu viện, anh dám cá trước đây đã từng là một khu thành lũy do tổ tiên người Saxon của chúng ta xây dựng trong thời chiến. Chính vì thế, nó có rất nhiều những cái bẫy xảo quyệt chào đón bọn người Briton xâm phạm chủ quyền.” Người chiến binh chậm rãi đi vòng quanh nền đất trung tâm, mắt nhìn xuống hào. Cuối cùng, anh cũng ngẩng đầu lên mà nói: “Hãy thử tưởng tượng nơi đây là một pháo đài đi cậu bé. Cuộc cầm cự cuối cùng đã bị phá vỡ sau nhiều ngày vây hãm và kẻ thù đang tràn vào bên trong. Giao chiến diễn ra ở mọi khoảng sân, trên mọi tường thành. Giờ thì hãy hình dung thế này. Hai người anh em Saxon của chúng ta đang ở ngoài sân kia chặn đánh một đám quân Briton. Họ chiến đấu thật dũng cảm, nhưng kẻ thù quá đông và hai người anh hùng của chúng ta buộc phải rút lui. Giả sử họ rút vào đây, vào chính tòa tháp này. Họ nhảy qua chiếc cầu nhỏ rồi quay lại đối mặt với kẻ thù chính tại vị trí này. Đám người Briton thấy rất tự tin. Chúng đã dồn được hai người anh em của chúng ta vào đường cùng. Chúng tiếp tục dấn bước cùng kiếm và rìu, ào ào qua cầu nhằm hướng hai người hùng của chúng ta. Người anh em dũng cảm của chúng ta tiêu diệt được tên đầu tiên trong số chúng, nhưng chẳng bao lâu sau đã phải rút lui sâu hơn nữa. Nhìn ra chỗ kia đi cậu bé. Họ lùi dần lên các bậc thang chạy vòng theo bức tường tròn kia. Vẫn có thêm nhiều người Briton chạy qua đường hào, cho tới khi toàn bộ nền đất nơi chúng ta đang đứng này đầy ních người. Thế nhưng sự áp đảo về số lượng của đám người Briton vẫn chưa trở thành lợi thế cho chúng. Vì hai người anh em dũng cảm của chúng ta vẫn sát cánh chiến đấu trên các bậc cầu thang, những kẻ xâm lược không có đủ chỗ cho hơn hai trong số chúng tham chiến một lúc. Hai người hùng của chúng ta rất cao tay, và mặc dù họ cứ phải lùi dần mỗi lúc một cao hơn, lũ xâm lược không tài nào áp đảo nổi họ. Đám người Briton cứ tiếp tục ngã xuống, những kẻ phía sau lại lao lên, chỉ để đến lượt chúng cũng ngã rạp. Nhưng nhất định là hai người anh em của chúng ta cũng đã thấm mệt. Họ càng ngày càng lùi thêm lên cao, lũ xâm lược dồn họ lên từng bậc thang một. Nhưng rồi chuyện gì xảy ra? Edwin, chuyện gì xảy ra? Liệu có phải người anh em của chúng ta cuối cùng đã mất hết can đảm? Họ quay lưng bỏ chạy trên những bậc thang cuối cùng, chỉ thỉnh thoảng mới xoay người lại vung kiếm. Chắc hẳn kết cục đã là như vậy. Đám người Briton đắc thắng. Những kẻ đang đứng theo dõi từ dưới kia thì mỉm cười, hệt đám người đói bụng khi đứng trước một bàn tiệc. Nhưng hãy nhìn cho kỹ, cậu bé ạ. Em nhìn thấy cái gì? Em thấy gì trong khi hai người anh em Saxon của chúng ta tới gần cái vòng sáng của bầu trời trên kia?” Túm lấy vai Edwin, Wistan xoay người cậu lại, đưa tay chỉ lên vòm trời. “Nói đi, cậu bé. Em thấy gì?”

“Người anh em của chúng ta đang cài bẫy anh ạ. Họ lùi lên cao chỉ để lùa lũ người Briton kia như lùa kiến vào hũ mật.”

“Giỏi lắm chàng trai ạ! Thế cái bẫy ấy ra sao?”

Edwin suy nghĩ một lúc, sau đó cậu nói: “Cái bẫy nằm ở ngay điểm tận cùng của các bậc thang. Từ đây em cũng thấy có cái gì đó trông giống như một hộc tường trên ấy. Hay đó là một cánh cửa cũng nên?”

“Khá lắm. Thế em nghĩ có cái gì nấp sau chỗ ấy?”

“Liệu có phải cả một tá các chiến binh cừ khôi nhất của chúng ta không ạ? Rồi cùng với hai người anh em của mình, họ sẽ lại chiến đấu đẩy quân xâm lược lùi dần và mở đường xuống tận giữa đám lính Briton đang đứng dưới này.”

“Nghĩ kỹ nữa đi, cậu bé ạ.”

“Một con gấu hung dữ vậy, thưa anh. Hay là một con sư tử.”

“Lần cuối cùng em gặp một con sư tử là khi nào, hả cậu bé?”

“Lửa vậy, thưa anh. Có lửa cháy phía sau hộc tường đó.”

“Giỏi lắm cậu bé ạ. Chúng ta không thể biết chắc chuyện gì đã xảy ra ngày trước. Nhưng anh dám cá rằng lửa chính là thứ đang chờ đợi trên kia. Trong cái hốc tường nhỏ bé ấy, thật khó mà trông thấy từ tít dưới này, có một ngọn đuốc, cũng có thể tới hai ba ngọn nữa, đang cháy rừng rực phía sau bức tường. Kể cho anh nghe nốt phần còn lại đi, cậu bé.”

“Người anh em của chúng ta ném đuốc xuống.”

“Cái gì cơ, ném xuống đầu kẻ thù à?”

“Không, thưa anh. Ném xuống hào.”

“Ném xuống hào? Con hào đầy nước?”

“Không anh ạ. Trong hào toàn là củi. Giống số củi chúng ta vừa đổ mồ hôi chặt.”

“Đúng thế đó, cậu bé ạ. Và chúng ta sẽ còn bổ nữa, trước khi trăng kịp lên cao. Chúng ta cũng sẽ gom thật nhiều cỏ khô nữa. Một ống khói, em đã nói vậy. Em nói đúng lắm. Chúng ta đang đứng trong một ống khói. Đó chính là lý do khiến tổ tiên chúng ta xây tòa tháp này. Nếu không phải vậy thì xây tháp ở đây làm gì, vì đứng trên đỉnh tháp cũng có quan sát được gì hơn so với đứng trên bức tường bao bên ngoài kia đâu? Nhưng hãy hình dung thử xem, cậu bé ạ, một ngọn đuốc được ném vào cái chúng ta gọi là đường hào kia. Rồi một ngọn nữa. Lúc nãy, khi chúng ta đi quanh ngọn tháp này, ta đã thấy ở phía sau, sát mặt đất, có những lỗ hổng trên bức tường đá. Điều đó có nghĩa một ngọn gió mạnh thổi từ đằng Đông, giống những cơn gió đêm nay, sẽ thổi bùng khiến lửa cháy càng to hơn. Quân Briton làm sao mà thoát khỏi hỏa ngục này? Một bức tường dày bao quanh, chỉ có một câu cầu hẹp duy nhất dẫn tới tự do, còn con hào thì đang cháy rừng rực. Nhưng hãy ra khỏi chỗ này thôi cậu bé ạ. Tòa tháp cổ này sẽ rất bực mình nếu chúng ta cứ tiếp tục đoán bao nhiêu là bí mật của nó.”

Wistan quay về phía hai tấm ván, nhưng Edwin vẫn tiếp tục nhìn lên đỉnh tháp.

“Nhưng anh ơi,” cậu gọi. “Hai người anh em dũng cảm của chúng ta thì sao. Chẳng lẽ họ phải chịu chết cháy trong lửa cùng quân thù sao?”

“Nếu vậy, chẳng phải đó là một hy sinh vinh quang hay sao? Nhưng rất có thể kết cục cũng không tới mức như thế. Rất có thể khi sức nóng bỏng giãy của đám lửa đang dâng cao, hai người anh em của chúng ta đã chạy tới miệng ống khói và nhảy ra ngoài. Liệu họ có làm như vậy không, cậu bé? Cho dù họ chẳng có cánh?”

“Họ không có cánh,” Edwin nói, “nhưng có thể bạn chiến đấu của họ đã mang một chiếc xe kéo tới chờ sẵn dưới kia. Một chiếc xe kéo chứa đầy cỏ khô.”

“Có lẽ vậy, cậu bé nhỉ. Ai mà biết được chuyện xảy ra như thế nào vào thời xa xưa. Giờ thì hãy thôi mơ màng và chặt thêm ít củi nữa. Vì nhất định là các nhà tu hành của chúng ta sẽ còn phải trải qua rất nhiều đêm lạnh giá nữa, trước khi mùa hè tới.”

Trong một trận đấu, không thể có đủ thời gian để trao đổi thông tin một cách tỉ mỉ. Chỉ một cái liếc mắt thật nhanh, một cái khoát tay, một tiếng quát to để át đi tiếng ồn: thế là đủ để một chiến binh thực sự truyền đạt ý muốn của mình tới bạn chiến đấu. Chính trên tinh thần ấy mà trong tòa tháp vào buổi chiều hôm đó, Wistan đã cho Edwin hiểu rõ những suy nghĩ của mình, thế mà Edwin đã khiến anh phải thất vọng hoàn toàn.

Nhưng liệu người chiến binh có đặt quá nhiều kỳ vọng vào Edwin hay không? Ngay cả già Steffa cũng chỉ nói rằng Edwin có triển vọng lớn lao, rằng cậu sẽ trở thành một chiến binh cừ nếu được huấn luyện theo cách thức của chiến binh. Wistan vẫn chưa huấn luyện cậu cho xong, vậy làm thế nào mà Edwin biết cách phản ứng như một chiến binh thực thụ cho được? Và bây giờ, hình như người chiến binh đã bị thương, nhưng nhất định đó không thể là lỗi của một mình Edwin.

Thầy tu trẻ đã dừng lại bên bờ suối để tháo dây giày. “Chúng ta sẽ lội qua chỗ này,” cậu ta nói. “Cầu thì ở tít dưới kia, chỗ đó lại quá trống trải. Nhìn từ tận quả đồi gần đó cũng có thể phát hiện ra chúng ta.” Rồi chỉ vào giày của Edwin, cậu ta nói: “Giày của cậu trông được may khéo quá. Cậu tự làm à?”

“Bác Baldwin làm cho tớ đấy. Bác ấy là người khâu giày giỏi nhất làng, mặc dù mỗi khi trăng tròn, bác ấy lại rất hay nổi trận lôi đình.”

“Tháo chúng ra đi. Bị sũng nước thì chắc chắn chúng sẽ hỏng. Thấy các bậc đá để đặt chân lên không? Cúi thấp đầu xuống nữa đi, rồi cố nhìn xuyên qua mặt nước ấy. Đó, thấy chưa? Đường đi đấy. Đừng để mất dấu thì cậu sẽ không bị ướt đâu.”

Lại một lần nữa, giọng nói của cậu thầy tu trẻ có vẻ gì đó thật cộc lốc. Có phải vì kể từ khi lên đường, cậu ta đã có đủ thời gian để móc nối các sự kiện với nhau và nhận ra vai trò của Edwin trong những gì vừa xảy ra? Khi hai đứa mới bắt đầu cuộc hành trình, không chỉ có thái độ nồng nhiệt hơn, cậu chàng còn nói chuyện hầu như không ngưng nghỉ.

Hai đứa gặp nhau tại dãy hành lang lạnh giá ngay phía ngoài phòng của cha Jonus, Edwin đứng đợi trong khi vài người tranh luận trong phòng với những giọng nói tuy thì thào nhưng đầy sôi nổi. Nỗi sợ hãi không biết chuyện gì sắp xảy ra ngày càng tăng, và Edwin thấy nhẹ cả người khi thay vì cậu bị gọi vào trong phòng, một thầy tu trẻ bỗng xuất hiện với một nụ cười vui vẻ trên mặt.

“Tớ đã được chọn làm người dẫn đường cho cậu,” cậu ta nói một cách hoan hỉ bằng ngôn ngữ của Edwin. “Cha Jonus nói chúng ta phải lên đường ngay lập tức và lẻn ra ngoài sao cho không ai nhìn thấy. Dũng cảm lên, người anh em, chẳng mấy chốc nữa cậu sẽ được gặp lại người anh trai của mình.”

Cậu thầy tu trẻ tuổi có dáng đi kỳ lạ, hai tay ôm lấy người hệt như đang bị lạnh thấu xương, tay cậu ta giấu kín trong áo choàng đến nỗi thoạt đầu, khi theo chân cậu ta đi xuống lối mòn qua ngọn núi, Edwin đã băn khoăn không biết có phải cậu ta sinh ra vốn đã không có tay. Nhưng ngay khi hai đứa đã an toàn bỏ lại tu viện sau lưng, cậu ta bước chậm lại rồi vòng một cánh tay vừa gầy vừa dài qua vai Edwin đầy khuyến khích.

“Cậu thật là ngốc nghếch khi quay trở lại thế này, sau khi đã trốn thoát một cách tài ba như thế. Cha Jonus đã rất giận khi biết tin này. Nhưng giờ thì cậu đã an toàn rồi, và nếu may mắn sẽ không ai hay biết gì về chuyện cậu quay lại. Nhưng chuyện này mới thực ghê gớm làm sao! Anh trai của cậu hay sinh sự như thế lắm hả? Hay là do một ai đó trong đám lính đã tình cờ xúc phạm tột độ anh trai cậu? Có lẽ khi nào tới bên giường anh ấy, cậu nên hỏi xem mọi chuyện bắt đầu từ đâu, vì không ai trong số chúng tớ hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao cả. Nếu anh cậu đã xúc phạm đám lính thì nhất định phải là điều gì vô cùng ghê gớm, vì ngay lập tức họ đã quên biến mục đích chính vì sao họ tới đây gặp cha trưởng tu viện, họ phát điên lên và đòi anh cậu phải trả giá cho sự liều lĩnh của mình. Những tiếng quát tháo đã khiến tớ tỉnh giấc, mặc dù phòng tớ ở tít phía xa. Tớ hốt hoảng chạy ra và cũng chỉ biết đứng một cách vô dụng bên các thầy tu khác, hoảng hốt nhìn những gì đang xảy ra. Chẳng bao lâu sau, các thầy tu cho tớ biết, rằng anh trai cậu đã chạy vào bên trong tòa tháp cổ kia để tránh sự tức giận tột bậc của đám lính, và mặc dù họ đổ xô vào đuổi theo anh ấy với ý định sẽ xé xác anh ấy ra thành từng mảnh, nhưng có vẻ như anh ấy bắt đầu dùng hết sức mình chiến đấu chống lại họ. Anh ấy quả là một đối thủ đáng kinh ngạc, ngay cả khi bọn họ có tới ba mươi hoặc còn hơn thế nữa, trong khi anh ấy chỉ là một chàng chăn cừu người Saxon. Chúng tớ đứng nhìn và nghĩ sẽ thấy họ mang thân thể nhuốm máu của anh ấy ra không biết lúc nào, nhưng thay vì thế, hết người lính này tới người lính khác hoặc hoảng hồn chạy ra khỏi ngọn tháp, hoặc loạng choạng khiêng những người bị thương ra ngoài. Chúng tớ thật không thể tin nổi vào mắt mình nữa! Chúng tớ cầu nguyện để cuộc hỗn chiến sớm kết thúc, vì cho dù sự xúc phạm ban đầu có là gì đi chăng nữa, thì bạo lực tới mức ấy vẫn là điều không thể biện minh cho nổi. Nhưng cuộc hỗn chiến vẫn tiếp tục kéo dài, và rồi, anh bạn trẻ ạ, tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Ai dám nói đó không phải là do Chúa, cau mày vì một cuộc đôi co xấu xa như thế lại diễn ra ngay trong những tòa nhà của Người, đã chỉ tay khiến lửa bùng lên thiêu cháy họ? Nhưng có lẽ một trong số những người lính khi chạy đi chạy lại với ngọn đuốc trên tay đã sẩy chân vấp ngã mà gây ra tội lỗi tày trời. Thực kinh khủng làm sao! Cả ngọn tháp đột ngột cháy bừng lên rừng rực! Ai mà tưởng tượng được rằng, một ngọn tháp cổ lỗ ẩm thấp như vậy lại có thể chứa nhiều mồi lửa đến thế? Nhưng nó cứ thế cháy rừng rực trong khi đám quân của chúa đất Brennus cùng anh trai cậu mắc kẹt bên trong. Nếu họ quên đi cuộc tranh chấp mà chạy cả ra ngoài thật nhanh thì sự thể đã tốt đẹp hơn, nhưng tớ nghĩ rằng thay vì làm như vậy, họ lại tìm cách dập lửa và khi nhận ra thì đã quá muộn, tất cả đã bị nhận chìm trong biển lửa. Thực là một tai nạn rùng rợn, một số ít những người thoát được ra ngoài thì quằn quại mà chết một cách thảm khốc trên mặt đất. Nhưng đúng là điều kỳ diệu của những điều kỳ diệu, cậu ạ, vì hóa ra là anh trai của cậu đã trốn thoát! Cha Ninian tìm thấy anh ấy trong màn đêm ngoài trời, tuy choáng váng và bị thương nhưng vẫn còn sống, trong khi tất cả chúng tớ lúc ấy còn đang đứng nhìn ngọn tháp rực cháy và cầu nguyện cho những người mắc kẹt bên trong. Anh trai của cậu sống sót, nhưng cha Jonus, người cũng đang tự chữa chạy các vết thương của mình, đã nhắc nhở những người biết chuyện phải giữ kín miệng không cho ai biết, kể cả cha trưởng tu viện. Vì ông ấy sợ nếu tin tức lan ra ngoài, chúa Brennus sẽ gửi thêm quân lính lên đây tìm cách trả thù, chứ chẳng thèm quan tâm chuyện xảy ra là một tai nạn chứ không phải do anh trai cậu gây ra. Cậu sẽ ổn thôi nếu không thì thào kể chuyện này cho bất cứ ai, ít nhất cho tới khi hai người đã đi xa khỏi vùng này. Cha Jonus đã rất bực mình khi cậu liều mạng quay lại tu viện, nhưng ông ấy cũng thấy vui vì nhờ thế, việc giúp cậu trở lại đoàn tụ với anh trai giờ đã trở nên dễ dàng hơn. ‘Hai người bọn họ phải cùng nhau rời khỏi vùng này,’ ông ấy nói thế. Cha Jonus là người tài giỏi nhất đời, là người thông thái nhất trong số chúng tớ ở đây, kể cả sau những gì lũ chim gây ra cho ông ấy. Tớ xin nói rằng, anh trai cậu đã nợ ông ấy và cha Ninian cả cuộc đời đấy.”

Nhưng đó là chuyện lúc nãy. Bây giờ thì cậu thầy tu trẻ đã trở nên xa cách, hai cánh tay một lần nữa lại nhét chặt trong áo choàng. Khi Edwin theo cậu ta vượt qua suối, cố hết sức quan sát cho kỹ các tảng đá nằm phía dưới dòng nước chảy xiết, cậu chợt nhận ra mình phải thú nhận tất cả mọi chuyện với người chiến binh; phải cho anh biết về mẹ cậu và về việc từ trước tới giờ bà đã gọi cậu ra sao. Nếu cậu giải thích tất cả mọi thứ từ đầu tới cuối, một cách thành thực và thẳng thắn, thì có lẽ Wistan sẽ hiểu và sẽ cho cậu một cơ hội nữa.

Mỗi tay cầm một chiếc giày, Edwin nhẹ nhàng nhảy qua các tảng đá, trong lòng phấn chấn với triển vọng mới này.