Khi Horace đánh thức ta dậy sáng nay, ta vẫn còn cảm thấy niềm vui sướng tương tự âm ỉ trong lòng. Horacce giậm chân trên nền đất rừng ẩm ướt ta đặt lưng nằm xuống sau những gì ta đã cô sức làm đêm qua. Nó biết quá rõ thể lực của ta không còn được như xưa, và sau một đêm như thế, sẽ chẳng dễ dàng gì cho ta nếu chỉ được chợp mắt có một giờ đồng hồ ngắn ngủi, trước khi lại phải một lần nữa lên đường. Nhưng khi thấy mặt trời đã lên cao phía trên bóng cây râm mát trong rừng, nó không cho ta ngủ tiếp nữa. Nó giậm chân cho tới khi ta phải ngồi dậy, cho tới khi đống áo giáp sắt của ta phải kêu loảng xoảng mới thôi. Càng ngày ta càng nguyền rủa cái áo giáp này nhiều hơn. Nó có thực sự bảo vệ ta không? Nhiều lắm thì chỉ một hoặc hai vết thương nhỏ. Chính ngọn kiếm mới là thứ đã bảo vệ ta, đâu phải cái áo giáp này. Ta phải cảm ơn sức khỏe dẻo dai của mình. Ta đứng dậy và quan sát đám lá cây quanh mình. Tại sao nhiều lá rụng đến thế, trong khi giờ đâu đã phải cuối hè? Có phải những cây rừng che chở cho ta đã ốm? Một tia nắng mặt trời xuyên qua các tán lá trên cao rọi vào mõm Horace, ta nhìn nó lắc lắc cái đầu từ bên này sang bên kia, như thể tia nắng ấy là con ruồi được phái tới làm khổ nó. Đêm qua nó cũng chẳng sung sướng gì, phải dỏng tai lắng nghe đủ thứ tiếng động quanh mình, tự hỏi không biết vị hiệp sĩ chủ nhân của nó đang đối mặt với những hiểm nguy gì. Mặc dù rất khó chịu vì nó đánh thức ta dậy quá sớm, nhưng ta tiến lại gần nó để nhẹ nhàng quàng tay ôm lấy cổ nó rồi tựa đầu vào bờm nó trong chốc lát. Ta biết mình là một ông chủ hà khắc, ta biết chứ. Ta bắt nó phải đi khi ta biết thừa nó đã mệt, ta chửi rủa nó khi nó chẳng làm điều gì sai. Và đống sắt này cũng là gánh nặng với nó chẳng kém gì với ta. Chúng ta còn đi với nhau được bao lâu nữa? Ta nhẹ nhàng vỗ về nó mà nói, “Chúng ta sẽ sớm tìm thấy một ngôi làng thân thiện, ở đó mày sẽ được một bữa sáng ngon lành hơn bữa ăn mày vừa phải nếm.”
Ta nói với nó như vậy, vì khi đó ta tin rằng vấn đề cậu Wistan như vậy đã được giải quyết ổn thỏa. Nhưng khi ta với nó mới đi được một quãng chẳng là bao, còn chưa kịp ra khỏi rừng cây, thì gặp ngay một thầy tu quần áo bẩn thỉu xộc xệch trên đường, giày dép tuột cả ra, vội vội vàng vàng lao tới chỗ trại lính của chúa đất Brennus, anh ta chẳng cho chúng ta biết điều gì khác hơn ngoài việc Wistan đã trốn thoát khỏi tu viện, bỏ lại đám người săn đuổi mình chết liểng xiểng, nhiều người đã bị cháy đen thành than. Cậu ta mới ghê làm sao! Thật kỳ lạ làm sao khi trái tim ta ngập tràn niềm vui khi nghe thấy tin này, mặc dù điều đó cũng có nghĩa nhiệm vụ nặng nề ta tưởng mình vừa bỏ lại sau lưng giờ đã quay lại. Vì thế, ta và Horace lại gạt sang một bên những mong ước về cỏ khô, thịt nướng và bạn hiền, một lần nữa lại phải rảo bước trèo qua những ngọn đồi. May mắn làm sao, ít ra thì chúng ta cũng được đi xa khỏi cái tu viện đáng nguyền rủa ấy. Sự thực là, trong thâm tâm, ta thấy nhẹ nhõm làm sao khi cậu Wistan không bỏ mạng dưới bàn tay của đám thầy tu và Brennus độc ác. Nhưng đúng là một gã đáng gờm! Lượng máu đổ dưới tay cậu ta mỗi ngày có thể khiến nước sông Severn tràn bờ! Cậu ta bị thương, vị thầy tu bết đất kia nghĩ vậy, nhưng ai dám nghĩ một người như Wistan lại chịu nằm xuống chết một cách dễ dàng chứ? Ta mới ngu ngốc làm sao khi để thằng bé Edwin chạy biến đi như thế, và giờ ai dám cá rằng hai đứa chúng nó sẽ không tìm được nhau? Thật ngu ngốc làm sao, nhưng lúc ấy ta đã mệt quá rồi, hơn nữa, ta cũng không nghĩ Wistan lại thoát chết. Thật là ghê gớm quá đỗi! Nếu cậu ta sinh ra cùng thời với ta, cho dù là người Saxon thực đấy, hẳn cậu ta đã chiếm được cảm tình của Vua Arthur. Kể cả người tài giỏi nhất trong bọn ta cũng sẽ phải run sợ nếu cậu ta là kẻ thù mình phải đối mặt. Nhưng hôm qua, khi quan sát cậu ta chiến đấu với người lính của Brennus kia, hình như ta đã thấy một sơ hở nhỏ bên sườn trái cậu ta. Hay đó là mánh lới khôn ngoan của cậu ta vào thời điểm ấy? Nếu có dịp quan sát cậu ta chiến đấu một lần nữa, ta sẽ biết rõ hơn. Nhưng rõ ràng cậu ta là một chiến binh cừ, phải là một hiệp sĩ của Vua Arthur mới nhìn thấy được sơ hở đó, ta đã nghĩ vậy khi theo dõi cuộc đọ kiếm ấy. Ta đã tự nhủ, nhìn kìa, một sai sót nhỏ bên sườn trái. Một kẻ thù lõi đời rất có thể biết tận dụng được sai sót đó. Nhưng ai trong số chúng ta lại không khâm phục cậu ta được chứ?
Nhưng những bà góa u ám kia, tại sao ta phải chạm mặt họ trên đường ta đi? Ngày của bọn ta còn chưa đủ bận rộn hay sao? Lòng kiên nhẫn của bọn ta còn chưa được thử thách thích đáng hay sao? Chúng ta sẽ dừng bước trên đỉnh đồi tiếp theo, ta nói vậy với Horace lúc leo lên dốc. Chúng ta sẽ dừng bước nghỉ chân, kể cả khi những đám mây đen đang vần vũ và rõ rành rành chúng ta đang đối mặt với một con bão. Và nếu không có ngọn cây nào, ta vẫn sẽ ngồi xuống ngay tại chỗ bụi thạch nam kia và chúng ta vẫn sẽ nghỉ chân như thường. Nhưng cuối cùng khi lối đi cũng trở nên bằng phẳng, ta thấy một đám chim lớn tướng đậu đầy trên các tảng đá, chúng lao cả dậy, không bay vù lên bầu trời đang dần tối sầm lại, mà lại bay về phía bọn ta. Thế rồi ta nhận ra chúng không phải là lũ chim trời, mà là những bà già trong những chiếc áo choàng bay phần phật trước gió, tụ tập lại trên lối mòn ngay trước mặt bọn ta.
Tại sao lại chọn một nơi hoang vu như thế mà đứng chứ? Không một ụ đá, cũng chẳng một cái giếng cạn đánh dấu đường. Không một cái cây khẳng khiu, cũng chẳng một bụi cây để những người đi đường trú nắng trú mưa? Chỉ có những tảng đá trắng lún trong đất ở cả hai bên vệ đường, nơi từ đó họ đúng cả lên. Hãy kiểm tra cho chắc chắn, ta bảo Horace, hãy kiểm tra để biết chắc cặp mắt già nua của ta không phản bội ta và đây chẳng phải là lũ cướp đang chuẩn bị tấn công mình. Nhưng chẳng có lý do gì khiến ta phải rút kiếm - lưỡi kiếm của ta vẫn bốc mùi hôi thối từ chất nhầy của con chó hung ác ấy, mặc dù trước khi đặt lưng xuống ngủ, ta đã thọc sâu nó xuống đất - vì rõ ràng họ chỉ là mấy bà già, mặc dù lẽ ra nếu ta nâng khiên lên vài cái mà tự bảo vệ mình trước bọn họ âu cũng tốt. Các quý bà kia, tới giờ sau khi mọi chuyện đã qua, hãy cùng nghĩ tới họ như những quý bà Horace nhé, vì họ mới thực đáng thương làm sao phải không? Chúng ta sẽ không gọi họ là những mụ già xấu như quỷ, mặc dù thái độ của họ thôi thúc ta gọi họ như thế. Hãy nhớ rằng đã có thời, vài người trong số họ từng là những cô gái xinh đẹp và duyên dáng.
“Ông ta tới rồi kìa,” một bà kêu to, “kẻ mạo danh hiệp sĩ!” Mấy bà già kia cũng bắt đầu kêu to khi ta tiến lại gần, ta và Horace hoàn toàn có thể chạy nước kiệu phi qua chỗ họ đứng, nhưng ta không phải là người dễ hoảng sợ trước nghịch cảnh. Vì vậy, ta ghìm cương cho Horace dừng lại ngay giữa đám bọn họ, mặc dù mắt ta vẫn nhìn ra tận các đỉnh núi phía xa, như thể còn bận quan sát những đám mây đang ùn ùn kéo tới. Chỉ khi đám giẻ rách họ mặc quật phần phật quanh ta, và khi ta cảm thấy được cả những luồng hơi phát ra từ những tiếng quát lác của họ, ta mới thèm đưa mắt nhìn xuống. Có khoảng mười lăm bà? Hay hai mươi? Những bàn tay vươn ra chạm vào sườn Horace, ta thì thầm trấn an nó. Rồi ta ngồi thẳng người lên mà nói, “Chào các bà thân mến, nếu muốn nói chuyện, các bà đừng làm ồn nữa!” Đáp lại câu nói của ta, họ trở nên im lặng, nhưng cái nhìn thì vẫn giận dữ, lúc ấy ta lại nói, “Các bà muốn gì ở ta? Tại sao lại bất thình lình vây lấy ta thế này?” Một trong số họ nói với lên, “Chúng tôi biết ông là lão hiệp sĩ đớn hèn đến độ không hoàn thành nổi nhiệm vụ được giao.” Rồi một bà khác nói, “Nếu ông làm cho xong những gì Chúa giao cho, liệu chúng tôi có phải đi lang thang khắp nơi như thế này không hả?” Và lại một bà khác nữa, “Lão ta khiếp sợ nhiệm vụ của mình! Nhìn mặt lão ta kìa. Lão ta khiếp sợ nhiệm vụ của mình!”
Ta kiềm chế nỗi tức giận trong lòng và đề nghị họ giải thích cho rõ ràng. Và rồi một người nhìn có vẻ lịch sự hơn cả tiến lên. “Hãy tha thứ cho chúng tôi, thưa ngài hiệp sĩ. Chúng tôi đã lang thang bao ngày đằng đẵng dưới bầu trời này, và khi nhìn thấy chính ngài quả cảm cưỡi ngựa tiến về phía mình, thực tình chúng tôi không thể không ca lên những lời than vãn.”
“Thưa bà,” ta nói với bà ta, “Nhìn thì thấy năm tháng qua đã đè nặng lên ta đấy, nhưng ta vẫn nguyên vẹn là một hiệp sĩ của Vua Arthur vĩ đại. Nếu các bà cho ta biết mình đang gặp phải vấn đề gì, ta sẽ vui lòng giúp đỡ trong khả năng của mình.”
Ta đã thất vọng làm sao khi cả đám bọn họ - không trừ bà già nhã nhặn ấy - đều phá lên cười một cách mỉa mai, rồi một giọng nói vang lên: “Nếu ông hoàn thành nhiệm vụ của mình và tiêu diệt con rồng cái ấy từ lâu, chúng tôi đã chẳng phải khốn khổ đi lang thang thế này.”
Điều này khiến ta giận run lên, ta đã gào to, “Các bà thì biết gì? Các bà biết gì về Querig chứ?” nhưng rồi ta cũng kịp nhận ra mình phải biết kiềm chế. Thế nên ta lại từ tốn nói tiếp: “Các bà ạ, hãy giải thích cho ta nghe vì sao các bà phải lang bạt khắp nơi thế này?” Để trả lời câu hỏi này, một giọng nói khô khan cất lên từ phía sau, “Ông hiệp sĩ ạ, nếu ông hỏi vì sao tôi phải lang thang trên đường, tôi sẽ vui lòng cho ông biết. Khi người chèo thuyền hỏi tôi những câu hỏi của anh ta, người thân của tôi đã ngồi trên thuyền và đang đưa tay ra giúp tôi trèo lên, tôi mới nhận ra những ký ức quý giá nhất của mình đã bị tước đoạt. Lúc ấy tôi chưa biết nhưng giờ tôi đã biết, chính hơi thở của Querig là kẻ cướp, trong khi chính ra ông phải tiêu diệt nó cho xong từ lâu rồi mới phải.”
“Làm sao bà biết những điều này, thưa bà?” Ta gặng hỏi, không thể che giấu được sự sửng sốt. Vì đâu mà những người lang bạt kỳ hồ kia lại biết được một bí mật đã được giấu kín đến thế? Để trả lời câu hỏi này, bà già nhã nhặn kia mỉm cười một cách kỳ quặc rồi nói, “Chúng tôi toàn là các bà góa cả, ông hiệp sĩ ạ. Chẳng dễ gì mà giấu nổi chúng tôi chuyện gì đâu.”
Chỉ tới lúc ấy ta mới thấy Horace run rẩy một chút, ta thấy mình đang hỏi, “Các bà là ai, hỡi các bà già kia? Là người hay ma?” Đám người bọn họ nghe thấy thế lại phá lên cười, những tiếng cười nhạo báng khiến Horace phải bồn chồn rậm rịch một bên chân. Ta vừa nhẹ vỗ nó vừa nói, “Thưa các bà, vì sao các bà lại cười? Câu hỏi như vậy ngớ ngẩn lắm hay sao?” Một giọng nói khàn khàn từ phía sau đáp lại, “Thấy ông ta sợ hãi tới mức nào chưa? Ông ta sợ chúng ta chẳng kém gì sợ con rồng ấy!”
“Sao bà lại nói càn như thế, thưa bà?” Ta quát lớn hơn nữa, trong khi Horace lùi lại một bước trái với ý muốn của ta, ta phải giật mạnh mới giữ được nó đứng yên. “Ta chẳng sợ con rồng nào hết, và mặc dù Querig rất hung dữ, nhưng ta đã từng đối mặt với những con quỷ còn ghê gớm hơn nhiều. Nếu ta có chậm trễ chưa tiêu diệt nó, cũng chỉ vì nó đang xảo quyệt trốn kỹ sau những hốc đá trên cao kia. Các bà quở trách ta, nhưng thử nghĩ xem giờ đây có ai thấy Querig làm gì đâu? Đã có thời nó chẳng quan tâm tới việc gì khác ngoài việc cứ hằng tháng đều đặn bất ngờ tấn công một vài khu làng, nhưng kể từ lần cuối cùng một cuộc tấn công như vậy xảy ra, giờ đám con trai ngày trước đã trưởng thành hết cả rồi. Nó biết ta đang quanh quẩn gần đây, nên nó chẳng dám thò mặt ra khỏi những ngọn đồi kia.”
Khi ta đang nói thế, một bà già vạch chiếc áo choàng rách rưới tả tơi ra và ném một cục bùn vào cổ Horace. Thực là quá quắt, ta nói với Horace, chúng ta phải tiếp tục lên đường. Mấy bà già kia hiểu sao được sứ mệnh của hai ta? Ta thúc cho nó tiến bước nhưng kỳ lạ làm sao nó đã như hóa đá, đến nỗi ta phải thúc đinh thúc ngựa thì nó mới chịu bước đi. Thật may mắn làm sao, đám người độc ác kia rẽ ra trước mặt Horace và ta, rồi ta lại đưa mắt nhìn lên các đỉnh núi phía xa. Trái tim ta nặng trĩu khi nghĩ tới những vùng đất trên cao hoang vắng ấy. Ta thầm nghĩ, ngay đến sự có mặt của những mụ già xấu xí này cũng còn dễ chịu hơn những cơn gió lạnh lẽo kia. Nhưng như thể muốn ta tỉnh khỏi cơn ủy mị này, đám phụ nữ sau lưng bắt đầu hò la, rồi ta thấy có thêm nhiều cục đất bay về phía mình. Nhưng họ hô cái gì vậy nhỉ? Họ dám gào “đồ hèn” ư? Ta những muốn quay lại cho họ thấy sự phẫn nộ của mình, nhưng lại kịp trấn tĩnh. Đồ hèn, đồ hèn. Họ thì biết gì chứ? Họ ở đâu vào lúc ấy? Họ có mặt ở đó vào cái ngày xa xưa ấy khi chúng ta cưỡi ngựa đi đối mặt với Querig hay không? Liệu hồi ấy họ có gọi ta, hay một trong số năm người chúng ta, là đồ hèn hay không? Và ngay sau khi hoàn thành sứ mệnh cao cả ấy - chỉ có ba người trong chúng ta trở về - chẳng phải chính ta, thưa các bà, chính ta hầu như không kịp nghỉ đã vội vã quay lại rìa thung lũng vì muốn giữ lời hứa với cô gái trẻ đó sao?
Edra, sau này cô ấy đã cho ta biết tên mình như thế. Cô không đẹp, mặc một bộ đồ tang đơn giản, nhưng cũng giống như cô gái ta thỉnh thoảng vẫn tơ tưởng kia, tuổi thanh xuân rực rỡ trong cô đã chiếm được trái tim ta. Ta trông thấy cô bên vệ đường, nắm chặt một chiếc cuốc bằng cả hai tay. Chỉ mới vừa tới tuổi trưởng thành, cô trông thật nhỏ nhắn mảnh mai, và hình ảnh một cô gái ngây thơ, đi lang thang không được ai che chở gần sát nơi xảy ra những điều kinh hoàng ta vừa chứng kiến đã khiến ta không thể không dừng bước, cho dù lúc ấy ta đang lên đường thực hiện một sứ mệnh như thế.
“Quay lại đi, cô gái ơi,” ta gọi với xuống từ trên lưng con ngựa đực của mình, hồi ấy ta còn chưa có Horace, ta vẫn còn trẻ măng. “Điều dại dột gì khiến cô đi về phía đằng ấy vậy? Cô có biết chiến trường đang sục sôi trong lòng thung lũng này không?”
“Tôi biết quá đi chứ, thưa anh,” cô nói và chẳng chút e dè nhìn thẳng vào mắt ta. “Tôi đã vượt qua một chặng đường dài mới tới được đây, chẳng mấy chốc nữa tôi sẽ xuống thung lũng dưới kia mà tham chiến.”
“Có phải một con yêu tinh nào đó đã bỏ bùa mê thuốc lú cho cô không hả cô gái? Tôi vừa mới rời khỏi lòng thung lũng, nơi những chiến binh dày dạn kinh nghiệm cũng phải thổ cả ruột gan ra vì khiếp sợ. Tôi không muốn cô phải nghe thấy gì, cho dù chỉ là những tiếng vọng từ xa. Vì sao chiếc cuốc kia lại lớn quá khổ với cô như thế?”
“Có một tên tướng người Saxon đang ở dưới thung lũng kia, và tôi cầu xin bằng cả trái tim mình, rằng hắn chưa chết và Chúa bảo vệ cho hắn. Vì hắn phải chết trong tay tôi, sau những gì hắn gây ra cho mẹ và các chị em gái thân thương của tôi, chiếc cuốc này tôi mang theo để giúp mình hoàn thành những gì tôi mong muốn. Nó vỡ được đất rắn chắc trong buổi sáng mùa đông, nên nó sẽ đủ sức đập vỡ xương tên tướng Saxon này.”
Lúc đó, ta buộc phải xuống ngựa rồi giữ tay cô gái lại, mặc dù cô ấy vùng vằng muốn thoát ra. Nếu vẫn còn sống tới ngày hôm nay - Edra, cô ấy sau đó đã cho ta biết tên mình như thế - thì cô cũng trạc tuổi các bà đấy, các bà ạ. Cô ấy thậm chí cũng có thể là một người trong số các bà nữa ấy chứ, làm sao mà ta biết được? Không đẹp, nhưng cũng như cô gái kia, sự ngây thơ trong trắng đã lên tiếng với ta. “Anh hãy để cho tôi đi!” cô ấy kêu ầm lên, nghe thấy thế ta nói, “Cô không được xuống dưới lòng thung lũng ây. Chỉ riêng cảnh tượng bên rìa thung lũng thôi cũng sẽ đủ khiến cô ngất đi rồi.” “Tôi không phải là người yếu đuối,” cô ấy lại kêu to. “Để tôi đi!” Ta và cô ấy đã đứng như thế bên vệ đường như hai đứa trẻ đang mải mê tranh cãi, và ta chỉ có thể làm cô ấy bình tĩnh trở lại khi nói thế này:
“Thưa cô, tôi thấy rằng chẳng điều gì ngăn cản được cô hết. Nhưng hãy nghĩ mà xem, cơ hội một mình xuống đó tìm ra được kẻ thù cô đang nóng lòng tìm kiếm mới nhỏ bé làm sao. Nhưng nếu có tôi giúp, cơ hội ấy sẽ nhân lên gấp bội. Vậy thì hãy bình tĩnh ngồi xuống đây tránh nắng đi cái đã. Nhìn kìa, hãy ngồi ngay dưới gốc cây cổ thụ kia mà chờ tôi trở lại. Tôi phải cùng bốn người đồng đội của mình hoàn thành một sứ mệnh mà mặc dù nguy hiểm chết người nhưng sẽ không mất nhiều thời gian. Nếu tôi có bỏ mạng, cô sẽ thấy tôi quay trở lại đây, người buộc trên yên của chính con ngựa này, và khi đó cô sẽ biết tôi không thể thực hiện lời hứa của mình được nữa. Nếu không, tôi xin thề sẽ trở lại và cùng cô xuống dưới kia để giúp cô thực hiện mơ ước trả thù. Cô hãy biết kiên nhẫn và nếu động cơ của cô chính đáng, tôi tin rằng nó chính đáng, thì Chúa sẽ lo sao để hắn không chết trước khi chúng ta tìm ra hắn.”
Thưa các bà, liệu một kẻ hèn nhát có thể thốt ra được những lời như thế, vào đúng cái ngày ta cưỡi ngựa đi tìm Querig hay không? Và sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, khi thấy mình vẫn còn sống sót - cho dù hai trong số năm người bọn ta đã bỏ mạng - ta dù mệt vẫn vội vã trở lại rìa thung lũng, chỗ cô gái vẫn đang chờ mình dưới gốc cây cổ thụ, hai tay vẫn ôm chặt chiếc cuốc. Cô đứng bật dậy, hình ảnh cô một lần nữa lại khiến trái tim ta rung động. Nhưng khi ta lại cố thử làm cô ấy đổi ý, vì chỉ nghĩ tới cảnh cô ấy bước chân xuống thung lũng thôi cũng đã đủ khiến ta hãi hùng, thì cô giận dữ mà nói, “Anh lừa tôi đấy à? Anh định không giữ lời hứa với tôi đấy ư?” Vậy là ta đặt cô lên lưng ngựa - cô nắm lấy dây cương và ôm chặt chiếc cuốc vào ngực - ta cuốc bộ dẫn cả ngựa và cô gái xuống dốc vào thung lũng. Cô ấy có tái nhợt mặt mũi khi mới nghe thấy những tiếng ồn ào đinh tai nhức óc? Hay khi ta và cô ấy đi qua chỗ những người Saxon tuyệt vọng ngay bên rìa bãi chiến trường đang bị đối phương đuổi sát gót chân? Cô ấy có nản chí khi thấy những chiến binh kiệt quệ dò dẫm trên đường, lê bước kéo theo những vết thương trên mặt đất? Những giọt nước mắt nhỏ nhoi xuất hiện, ta thấy chiếc cuốc run lên, nhưng cô không chịu quay mặt đi. Vì nhiệm vụ kia đang cháy trong mắt cô, đôi mắt đang sục sạo khắp bãi chiến trường loang lổ máu hết phải qua trái, hết xa về gần. Rồi ta lên ngựa và để cô ngồi phía trước mình như thể cô là một con cừu non, ta và cô cùng cưỡi ngựa vào tới vùng ác liệt nhất của cuộc chiến. Trông ta lúc ấy có sợ sệt không hả, tay vung kiếm, tay cầm khiên bảo vệ cô gái, điều khiển cho con ngựa xoay bên này, quay bên kia cho tới khi cuối cùng trận đánh quăng cả hai ta xuống bùn? Nhưng cô gái nhanh chóng đứng bật dậy, nhặt lại chiếc cuốc rồi lách chân đi qua những đống thi thể bị phanh thây nát vụn. Những tiếng gào khóc quái gở tràn đầy tai, nhưng cô dường như không nghe thấy gì, hệt như cách một cô gái Cơ Đốc giáo ngoan đạo không để ý tới tiếng la ó tục tĩu của những thằng đàn ông lỗ mãng khi đi qua chỗ chúng. Ngày ấy ta còn trẻ trung và chân tay lanh lẹ, nên ta vung kiếm xung quanh cô ấy, chém xuống kẻ nào định làm hại cô, dùng khiên che cho cô khỏi đám tên cứ đều đều trút xuống chúng ta. Rồi cuối cùng cô ấy đã thấy hắn, nhưng như thể ta và cô đang lênh đênh trên sóng vỗ bập bềnh và mặc dù hòn đảo nhìn thật gần, nhưng không hiểu sao sóng cứ khiến ta mãi không tới được bờ. Cảm giác vào ngày hôm ấy của ta và cô ấy đúng hệt như thế. Ta cứ thế chiến đấu và đập tan kẻ thù để bảo vệ cô, nhưng cứ như hàng thế kỷ đã trôi qua rồi ta và cô tới được trước mặt hắn, và ngay cả lúc ấy cũng có tới ba người đứng quanh chỉ để bảo vệ hắn. Ta đưa cái khiên cho cô gái và nói, “Hãy che chắn cho cẩn thận, giải thưởng sắp lọt vào tay cô rồi đấy,” và mặc dù một mình ta phải chống lại tới ba tên, trong khi rõ ràng chúng là những chiến binh cừ khôi, nhưng ta đã hạ từng tên một cho tới khi ta đối diện với tên tướng người Saxon cô ấy vô cùng căm hận. Máu từ đám bùn đất hắn lội qua dính khô đầy hai đầu gối hắn, nhưng ta biết hắn chẳng phải là một chiến binh, ta đã hạ gục hắn, cho toi khi hắn nằm thở hổn hển trên mặt đất, hai chân trở nên vô dụng, mắt hắn chứa đầy căm hờn nhìn thẳng lên trời cao. Đến lúc ấy thì cô gái cũng vừa tới nơi và đứng ngay cạnh hắn, vứt cái khiên sang một bên, ánh mắt của cô khiến máu trong ta ớn lạnh hơn tất cả những gì ta đã chứng kiến khắp bãi chiến trường kinh hãi kia. Thế rồi cô không vung cuốc xuống hắn, mà thọc xuống từng cú một, hết cú thọc này rồi lại một cú thọc khác, như người ta bới đất tìm khoai tây vậy, cứ thế cho tới lúc ta phải kêu lên, “Kết liễu đời hắn đi cô ơi, nếu không tôi sẽ phải làm giúp cô đấy!” Đáp lại điều này cô chỉ nói, “Anh hãy để tôi yên, tôi cảm ơn anh nhưng sự giúp đỡ của anh tới đây thế là đã xong.” “Mới chỉ xong có một nửa thôi cô ạ,” ta hét lớn, “chỉ xong khi tôi thấy cô an toàn rời khỏi thung lũng này,” nhưng cô ấy không còn nghe thấy ta nữa và tiếp tục với công việc ghê sợ của mình. Lẽ ra ta còn cự cãi thêm nữa, nhưng đó chính là lúc ông ta xuất hiện từ đám đông. Ta đang nói tới ông Axl đó, chính ông Axl ta vừa gặp mới đây thôi, hồi ấy vẫn còn là một chàng trai trẻ nhưng đã mang một sắc diện thông thái, và khi ta thấy ông ta, những âm thanh hỗn độn trên bãi chiến trường dường như lùi dần chỉ còn là tiếng rì rầm quanh ta.
“Sao lại phơi mình đứng giữa nguy hiểm như thế?” Ta nói với ông ta. “Trong khi kiếm vẫn nằm trong bao? Ít nhất cũng nên nhặt lấy một cái khiên và tự bảo vệ mình đi chứ.”
Nhưng ông ta vẫn đưa mắt nhìn xa xăm, như thể đang đứng trước một cánh đồng cúc ngập tràn hương thơm buổi sáng. “Nếu Chúa muốn một mũi tên bay tới đây,” ông ta nói, “tôi sẽ không ngăn cản. Gawain này, tôi rất vui khi thấy anh vẫn bình an. Anh vừa mới tới thôi, hay đã có mặt ở đây từ đầu trận chiến?”
Cứ như ta với Axl đương gặp nhau tại một hội chợ giữa hè vậy, ta buộc phải kêu lên một lần nữa, “Hãy tự bảo vệ mình đi! Quanh đây vẫn dày đặc quân thù.” Và khi ông ta tiếp tục đưa mắt quan sát khung cảnh khắp xung quanh, ta lại nói khi nhớ tới câu hỏi ông ta đặt ra lúc trước: “Tôi có mặt ở đây từ lúc trận chiến mới bắt đầu, nhưng sau đó Arthur đã chọn tôi cùng bốn người khác phóng ngựa đi thực hiện một sứ mệnh có tầm quan trọng lớn lao. Tôi vừa mới trở lại đây thôi.”
Ít nhất thì ta đã thu hút được sự chú ý của ông ta. “Một sứ mệnh có tầm quan trọng lớn lao ư? Và mọi chuyện diễn ra tốt đẹp cả chứ?”
“Buồn thay, tôi đã mất đi hai người bạn chiến đấu, nhưng chúng tôi đã hoàn thành công việc khiến ngài Merlin phải hài lòng.”
“Merlin hử,” ông ta nói. “Có thể là một người uyên bác đấy nhưng con người ấy khiến tôi phải rùng mình.” Rồi ông ta đưa mắt nhìn xung quanh một lần nữa trước khi nói tiếp, “Tôi lấy làm tiếc vì anh đã mất đi hai người đồng chí. Còn nhiều người nữa sẽ ngã xuông trước khi ngày kịp tàn.”
“Nhưng chiến thắng rõ ràng đã thuộc về chúng ta,” ta nói. “Bọn Saxon đáng nguyền rủa này. Tại sao cứ tiếp tục xông tới khi thừa biết chỉ có thần Chết chờ đón chúng?”
“Tôi tin rằng họ làm như vậy chỉ vì nỗi tức giận và lòng căm hờn dành cho chúng ta,” ông ta nói. “Vì nhất định là tới lúc này, tin đồn về những gì đã xảy ra với những người bà con vô tội còn ở lại trong làng đã lọt tới tai họ. Chính tôi cũng vừa mới rời khỏi chỗ họ tới đây, nên làm gì có chuyện tin tức không lọt vào tai quân Saxon cơ chứ?”
“Anh đang nói tới tin tức gì vậy, hở anh Axl?”
“Tin về đám phụ nữ, trẻ em và người già, bị bỏ rơi không ai che chở sau khi chúng ta long trọng tuyên bố sẽ không làm hại họ, nhưng tất cả giờ đã bị chính bàn tay chúng ta giết hại, không trừ cả những đứa trẻ nhỏ bé nhất. Nếu chuyện ấy cũng xảy ra với chính chúng ta, liệu chúng ta có dốc cạn lòng căm hờn ra như thế không? Chẳng lẽ chúng ta sẽ không chiến đấu tới cùng như họ, và coi mỗi vết thương mới là một niềm an ủi hay sao?”
“Tại sao cứ phải day dứt mãi về chuyện này hả anh Axl? Thắng lợi ngày hôm nay của chúng ta đã chắc chắn và sẽ là một chiến thắng lừng danh.”
“Tại sao tôi cứ day đi day lại vấn đề này ư? Anh biết không, chuyện đó xảy ra ở chính những ngôi làng tôi đã từng tới kết bạn dưới danh nghĩa Vua Arthur. Người dân trong một ngôi làng đã gọi tôi là Hiệp sĩ Hòa Bình, thế mà hôm nay tôi phải chứng kiến cả tá người của chúng ta cưỡi ngựa phi qua làng không một chút khoan dung, trong khi chỉ có những thằng bé con cao còn chưa tới vai chúng ta chống lại họ.”
“Lòng tôi nặng trĩu khi nghe tin này. Nhưng tôi xin anh đấy, ít nhất cũng nên nhặt một tấm khiên lên.”
“Tôi đi qua hết làng này tới làng khác chỉ để thấy đúng một cảnh tượng như thế, trong khi người của chúng ta khoe khoang những gì họ vừa gây nên.”
“Xin anh đừng tự trách mình, cũng đừng trách ông chú của tôi. Đạo luật vĩ đại anh từng mang tới các làng thực sự là điều kỳ diệu lúc vẫn còn hiệu lực. Không biết đã có bao nhiêu người vô tội, cả người Briton lẫn người Saxon, đã được cứu sống nhờ nó? Việc nó không thể có hiệu lực vĩnh viễn đâu phải tại những gì anh làm.”
“Nhưng họ vẫn tin vào những thỏa thuận của chúng ta, cho tới ngày hôm nay. Tôi đã chiếm được lòng tin của họ, dù thoạt đầu chỉ có nỗi sợ hãi và lòng hận thù. Những gì chúng ta làm ngày hôm nay đã biến tôi thành kẻ dối trá và một tên giết người, chiến thắng của Arthur không thể khiến tôi vui vẻ cho nổi.”
“Anh nói những lời ngông cuồng ấy để làm gì? Nếu anh đang toan tính làm phản thì đừng chần chừ nữa, hãy thách đấu với tôi ngay bây giờ!”
“Tôi sẽ không động tới chú của anh. Nhưng làm sao anh có thể vui mừng nổi với một chiến thắng phải trả với cái giá thế này, hả Gawain?”
“Anh Axl ạ, hẳn là trái tim chú tôi đã trĩu nặng khi ra lệnh tiến hành những gì xảy ra tại những ngôi làng của người Saxon ngày hôm nay, khi biết rằng không thể có cách nào khác để hòa bình ngự trị. Hãy nghĩ kỹ một chút anh ạ. Những thằng bé người Saxon mà anh đang thương xót kia chẳng mấy chốc sẽ lớn lên thành những chiến binh, trong lòng cháy bỏng mong muốn được trả thù cho cha anh chúng đã ngã xuống hôm nay. Những bé gái kia sẽ sớm có mang rồi lại sinh ra nhiều đứa trẻ khác nữa, và cái vòng chém giết này sẽ không bao giờ kết thúc. Anh có thấy ham muốn trả thù đã ăn sâu tới mức nào không? Kể cả bây giờ nữa, anh hãy nhìn thử xem, nhìn cô gái nhỏ nhắn kia kìa, tôi đã hộ tống cô ấy tới đây, hãy nhìn xem cô ấy vẫn đang tiếp tục công việc của mình! Nhưng chiến thắng vĩ đại ngày hôm nay đã mang lại một cơ hội hiếm có. Rất có thể một lần cho xong, chúng ta sẽ kết thúc cái vòng xoáy xấu xa này, và một vị vua vĩ đại phải biết dũng cảm hành động chớp lấy thời cơ này. Tôi mong hôm nay sẽ là một ngày vang danh sử sách anh Axl ạ, và kể từ hôm nay chúng ta sẽ được sống trong hòa bình.”
“Tôi không hiểu nói anh, Gawain ạ. Mặc dù hôm nay chúng ta đã giết hại cả một biển người Saxon, cho dù họ là chiến binh hay là những đứa trẻ sơ sinh đi chăng nữa, thì khắp nơi trên đất này vẫn còn rất nhiều người Saxon khác. Họ đến từ phía Đông, họ vượt biển đổ bộ lên đất liền, họ dựng lên những ngôi làng mới ngay trong ngày. Cái vòng xoáy căm thù này còn lâu mới được xóa bỏ anh ạ, thay vào đó sẽ được tôi luyện thành sắt bởi những gì xảy ra hôm nay. Tôi sẽ tới gặp chú anh và tường thuật lại cho ông nghe những gì tôi vừa chứng kiến. Tôi sẽ được thấy tận mắt liệu ông ấy có tin rằng Chúa sẽ mỉm cười vì những hành động của chúng ta hay không.”
Những kẻ tàn sát trẻ nhỏ ư? Hôm ấy chúng ta là những kẻ tàn sát trẻ nhỏ hay sao? Cô gái ta hộ tống, giờ này ra sao rồi? Cô ấy có phải là một trong số các bà ở đây không, hỡi các bà già kia? Tại sao lại tụ tập quanh ta trên đường ta đi làm nhiệm vụ? Hãy đe ông già này được tiếp bước trong yên bình. Một kẻ tàn sát trẻ nhỏ. Nhưng ta không có mặt ở đó, và kể cả nếu ta ở đó, tranh cãi với Vua Arthur, cũng chính là chú của ta, thì có lợi ích gì cho ta chứ? Hồi ấy ta cũng chỉ là một chàng hiệp sĩ trẻ tuổi, hơn nữa, mỗi năm qua đi chẳng đã chứng minh sự đúng đắn của ngài hay sao? Chẳng phải tất cả các bà đã sống tới tuổi già trong thời bình còn gì nữa? Vậy nên hãy để ta và Horace đi tiếp và đừng chửi rủa sau lưng bọn ta nữa. Đạo luật cứu người vô tội, quả là một đạo luật phi thường, một đạo luật sẽ đưa con người tới gần với Chúa hơn -chính Arthur đã từng nói vậy, hay chính Axl là người đặt tên cho nó như thế? Hồi ấy mọi người gọi ông ấy là Axelum hoặc Axelus, nhưng bây giờ ông ấy dùng cái tên Axl và có một người vợ tốt. Tại sao các bà lại chửi bới ta? Sự đau khổ của các bà là lỗi của ta ư? Chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ gọi ta, và ta sẽ không còn quay lại để đi lang thang khắp đất này như các bà nữa. Ta sẽ mãn nguyện chào đón người chèo thuyền, bước chân lên con thuyền tròng trành của anh ta, sóng vỗ bập bềnh bốn bề, có thể ta sẽ ngủ một chút, tiếng mái chèo khua vang trong tai. Và ta sẽ đi từ trạng thái thiu thiu ngủ sang nửa tỉnh nửa thức, rồi khi thấy mặt trời đà lặn xuống sát mặt nước, bờ vẫn đang mỗi lúc mỗi xa, ta lại gật đầu chìm vào những giấc mơ cho tới khi giọng người chèo thuyền một lần nữa nhẹ nhàng đánh thức ta dậy. Và nếu anh ta có bắt đầu đặt câu hỏi cho ta, như một số người nói vậy, ta sẽ thành thực mà trả lời, vì ta còn gì nữa đâu mà giấu giếm? Ta chẳng có vợ, cho dù nhiều lúc ta cũng khát khao lắm chứ. Nhưng ta là một hiệp sĩ tốt bụng, đã thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ của mình. Hãy để ta nói những điều này, và anh ta sẽ biết ta không hề dối trá. Ta sẽ chẳng lấy làm phiền lòng vì anh ta. Mặt trời êm ả lặn, bóng anh ta trùm xuống người ta khi anh ta đi từ đầu này sang đầu kia con thuyền. Nhưng việc này vẫn còn phải chờ ta cái đã. Dưới bầu trời xám xịt ngày hôm nay, ta và Horace sẽ trèo lên con dốc cằn cỗi để lên tới đỉnh núi kế tiếp kia, vì công việc của chúng ta vẫn chưa kết thúc và Querig vẫn đang chờ ta tới.