Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Chương 7

Một bàn tay cứ thế lay ông, nhưng đến lúc Axl ngồi dậy, người đó đã kịp chạy sang phía bên kia phòng, cúi người xuống sát Edwin mà thì thào, “Nhanh, cậu bé, nhanh lên! Và đừng nói gì hết!” Beatrice cũng đã thức dậy cạnh ông, Axl lảo đảo đứng lên, không khí lạnh khiến ông giật thót mình, ông đưa tay xuống nắm lấy bàn tay vợ đang giơ ra về phía mình.

Lúc ấy vẫn còn là đêm khuya, nhưng có tiếng người gọi nhau ngoài kia và rõ ràng là đuốc đã được thắp sáng rực khoảng sân bên dưới, vì có nhiều mảng sáng rung rinh trên bức tường đối diện với ô cửa sổ. Thầy tu đánh thức họ dậy đang kéo thằng bé lúc ấy vẫn chưa tỉnh hẳn sang chỗ họ, và Axl nhận ra dáng đi khập khiễng của cha Brian trước khi thấy gương mặt ông ta hiện ra trong ánh sáng.

“Tôi sẽ cố tìm cách cứu các bạn,” cha Brian nói vẫn bằng giọng thì thào, “nhưng các bạn phải thật nhanh chân và phải làm theo những gì tôi nói. Quân lính đã tới đây, hai mươi, thậm chí là ba mươi tên, quyết săn lùng các bạn tới cùng. Họ đã vây được người anh em Saxon kia rồi, nhưng cậu ta nhanh như sóc và đang khiến chúng rất bận bịu, để cho các bạn có cơ hội trốn thoát. Đứng yên nào, cậu bé, đứng yên ở đây với ta!” Edwin định chạy ra phía cửa sổ, nhưng cha Brian đưa tay ra giữ cậu lại. “Tôi định dẫn các bạn tới chỗ an toàn, nhưng đầu tiên phải rời khỏi căn phòng này mà không ai nhìn thấy cái đã. Quân lính đứng đầy dưới sân, nhưng ánh mắt đổ dồn vào tòa tháp nơi cậu người Saxon kia vẫn quyết không chịu đầu hàng. Nhờ Chúa phù hộ, họ sẽ không trông thấy chúng ta đi xuống các bậc thang đá ngoài kia, và sau đó thì mọi điều tệ hại nhất sẽ lùi cả lại phía sau. Nhưng đừng gây ra một tiếng động gì khiến chúng quay đầu nhìn lại, và cẩn thận để đừng vấp trên các bậc thang. Tôi sẽ xuống trước, rồi ra hiệu cho các bạn khi nào thì nên xuống theo. Đừng, thưa bà, bà phải bỏ bọc đồ lại đây. Lúc này thì chỉ nên lo giữ mạng sống thôi!”

Họ khom người ra gần chỗ cửa ra vào và lắng nghe tiếng chân cha Brian bước xuống bậc thang một cách chậm chạp đầy đau đớn. Cuối cùng, khi Axl thận trọng ló đầu ra cửa, ông thấy các ngọn đuốc chuyển động ở phía xa trên sân; nhưng trước khi ông đủ thời gian phân định rõ chuyện gì đang xảy ra, sự chú ý của ông dồn cả vào cha Brian đứng ngay dưới chân cầu thang và đang vẫy tay lia lịa.

Các bậc cầu thang chạy chéo góc sát theo tường gần như khuất hoàn toàn trong bóng tối ngoại trừ đúng một mảng gần sát mặt đất được chiếu sáng bởi mặt trăng gần sát rằm.

“Đi sát theo anh, công chúa ạ,” Axl nói. “Đừng nhìn ra sân, nhìn xuống bậc thang chỗ em đặt chân vào ấy, nếu không sẽ ngã đau và chỉ có kẻ thù đến giúp thôi đấy. Bảo thằng bé những gì anh vừa nói, rồi làm cho xong việc này đi.”

Mặc dù hướng dẫn Beatrice làm thế nhưng chính Axl lại không thể không đưa mắt nhìn ra sân lúc đi xuống các bậc cầu thang. Ở góc sân phía xa, quân lính đương tập trung xung quanh một tòa tháp đá hình trụ nhìn xuống tòa nhà nơi các thầy tu tổ chức họp khi nãy. Các ngọn đuốc cháy sáng rực đang được đưa qua đưa lại, đám lính nhìn có vẻ hỗn loạn. Xuống được nửa đường, Axl thấy có hai tên lính tách ra rồi chạy ngang qua sân, ông đã chắc mẩm chúng sẽ phát hiện ra họ. Nhưng chúng biến mất sau một cánh cửa và chẳng mấy chốc sau đó, Axl mừng thầm dẫn Beatrice với Edwin lẩn vào trong bóng tối của hàng hiên nơi cha Brian đang đứng chờ.

Họ theo vị thầy tu đi dọc theo các dãy hành lang hẹp, một số đó có thể lúc nãy họ đã đi qua khi theo cha Ninian câm lặng. Những nơi họ đi qua thường tối đen, họ cứ theo tiếng lê chân nhịp nhàng của người dẫn đường mà tiến bước. Thế rồi họ tới một căn phòng có một phần mái đã đổ. Ánh trăng tràn vào trong phòng, chiếu sáng những đống thùng gỗ và đồ đạc đổ nát. Axl ngửi thấy mùi mốc và mùi nước tù.

“Can đảm lên các bạn,” cha Brian nói, không còn thì thào nữa. Ông ta bước tới một góc phòng và dịch chuyển đồ đạc sang bên. “Các bạn sắp an toàn rồi.”

“Thưa cha,” Axl nói, “chúng tôi lấy làm biết ơn vì cha đã giải cứu chúng tôi, nhưng xin cha hãy cho chúng tôi biết đã xảy ra chuyện gì.”

Cha Brian tiếp tục dọn dẹp góc tường, không ngẩng đầu lên, ông ta nói: “Chính chúng tôi cũng không biết ông ạ. Họ đến mà không được mời, tràn qua cổng, đi qua nơi ở của chúng tôi như thể nhà của họ vậy. Họ gặng hỏi về hai người Saxon trẻ tuổi mới tới khi nãy và mặc dù họ không hề nhắc tới hai ông bà, nhưng tôi không tin họ sẽ cư xử tử tế với hai người. Thằng bé này, rõ ràng là họ muốn giết nó, như những gì họ đang muốn làm ngay lúc này với người anh em của nó. Các bạn phải tự cứu mình, sau này các bạn sẽ có thời gian để suy ngẫm về hành động của đám lính.”

“Cậu Wistan đến sáng nay vẫn còn là người lạ với chúng tôi,” Beatrice nói, “nhưng chúng tôi không thấy yên tâm mà bỏ trốn, trong khi một số phận kinh hoàng đang chờ đợi cậu ấy.”

“Đám lính vẫn có thể theo sát gót chúng ta đó, thưa bà, vì chúng ta không chặn các cánh cửa sau lưng mình. Và nếu cậu thanh niên kia dũng cảm chống cự, thậm chí là hy sinh cả tính mạng để các bạn có thể trốn thoát, thì hãy nắm lấy cơ hội ấy với thái độ biết ơn. Dưới cánh cửa sập này là một đường hầm được đào từ thời xa xưa. Nó sẽ dẫn các bạn xuyên lòng đất rồi ra tới rừng, các bạn sẽ ngoi lên mặt đất ở một vị trí cách xa những kẻ đang truy đuổi mình. Giờ thì hãy giúp tôi nâng cửa lên, thưa ông, nó nặng quá, một mình tôi không kham nổi.”

Cả hai người bọn họ phải cố gắng lắm mới kéo được cánh cửa lên cho tới khi nó đứng một góc nghiêng hẹp trước mặt họ, để lộ ra một ô vuông đen ngòm bên dưới.

“Để thằng bé xuống trước,” thầy tu nói, “vì đã nhiều năm rồi không ai trong số chúng tôi sử dụng lối đi này, ai mà biết được các bậc thang đã mục nát hết hay chưa. Nó nhanh chân hơn nên ngã cũng không nguy hại bằng các bạn.”

Nhưng Edwin đang nói gì đó với Beatrice, và đến lượt Beatrice lên tiếng: “Cậu Edwin nói sẽ đi trợ giúp cậu Wistan.”

“Công chúa này, nói với thằng bé nếu chúng ta theo đường hầm này đi thoát thì đã là giúp đỡ cậu Wistan rồi đấy. Em muốn nói gì với thằng bé thì nói, nhưng hãy thuyết phục cho nhanh.”

Khi Beatrice quay sang nói chuyện với thằng bé, dường như có điều gì đó thay đổi trong cậu. Cậu tiếp tục giương mắt nhìn hố đen dưới nền nhà, cặp mắt cậu dưới ánh trăng lúc ấy có vẻ gì đó mới kỳ lạ làm sao, khiến Axl có cảm giác như cậu đang bị ngấm dần một thứ bùa mê nào đó. Thế rồi khi Beatrice vẫn đang tiếp tục nói, Edwin tiến về phía cánh cửa sập và không ngoái đầu nhìn lại, bước xuống khoảng đen phía dưới rồi biến mất. Khi tiếng chân của cậu mỗi lúc một nhỏ lại, Axl cầm lấy tay Beatrice rồi nói:

“Đi thôi, công chúa của anh. Theo sát anh nhé.”

Các bậc thang dẫn vào lòng đất rất nông - chúng thực chất là những phiến đá phẳng chìm vào đất - cảm giác đủ chắc chắn. Nhờ ánh sáng xuyên xuống qua cánh cửa sập đang mở phía trên kia, họ nhìn thấy lối đi phía trước, nhưng ngay khi Axl quay người lại định nói chuyện với cha Brian, cánh cửa bỗng đóng sầm xuống.

Cả ba người đứng im không nhúc nhích tại chỗ. Không khí không có mùi ẩm mốc như Axl tưởng; thực ra ông còn cảm thấy hình như có một làn gió nhẹ. Đứng đâu đó phía trước họ, Edwin bắt đầu nói, còn Beatrice thì thầm trả lời thằng bé. Sau đó, bà khẽ nói:

“Thằng bé hỏi tại sao cha Brian lại đóng cửa lại như thế. Em bảo nó là rất có thể ông ấy nóng lòng muốn giấu kín lối vào đường hầm trước mặt bọn lính có khi ngay lúc này đang bước chân vào phòng. Nói vậy chứ em cũng thấy kỳ quặc. Có phải ông ấy đang xê dịch đồ đạc đè lên trên cánh cửa không? Nếu lối đi trước mặt chúng ta bị đất hoặc nước chặn lại, chính bản thân cha Brian đã nói nhiều năm trời rồi không ai sử dụng đường hầm này, thì làm sao chúng ta mở được cánh cửa đó ra, khi bản thân cánh cửa thì rất nặng, giờ lại thêm đồ vật đè bên trên nữa?”

“Đúng là kỳ quặc thật. Nhưng rõ ràng là bọn lính đang có mặt trong tu viện, vì chính chúng ta đã tận mắt thấy chúng còn gì? Anh thấy chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục tiến bước và cầu nguyện để đường hầm này dẫn chúng ta thoát ra ngoài rừng an toàn. Bảo thằng bé đi tiếp đi, nhưng đi chậm thôi và luôn luôn sờ tay lên bức tường đầy rêu này nhé, vì anh sợ là càng vào sâu sẽ càng tối hơn đấy.”

Nhưng khi tiếp tục tiến sâu vào bên trong, họ thấy có một thứ ánh sáng yếu ớt, nhờ đó thỉnh thoảng họ thậm chí còn nhìn ra nhau. Thỉnh thoảng bước chân họ thình lình giẫm phải vũng nước, và không chỉ một lần trong giai đoạn này của cuộc hành trình, Axl nghe thấy có tiếng động từ xa phía trước, nhưng vì cả Edwin lẫn Beatrice đều không có phản ứng gì nên ông cho là do mình căng thẳng quá mức. Nhưng rồi Edwin bỗng đột ngột dừng bước, khiến Axl suýt nữa đâm phải cậu. Ông thấy Beatrice siết lấy tay mình từ phía sau, cả ba người đứng im như thóc trong bóng tối. Beatrice tiến lại gần Axl hơn nữa, ông thấy hơi thở nóng ấm của bà sau gáy mình, rồi nghe thấy tiếng bà thì thào hỏi: “Anh có nghe thấy không, Axl?”

“Nghe thấy gì cơ, công chúa của anh?”

Tay Edwin chạm vào tay ông ra hiệu, rồi họ lại tiếp tục im lặng. Cuối cùng, Beatrice thì thào vào tai Axl: “Có một sinh vật có mặt ở đây cùng chúng ta đó, Axl ạ.”

“Có lẽ là một con dơi, công chúa ạ. Hoặc là một con chuột.”

“Không phải, Axl. Giờ thì em nghe thấy rồi. Là tiếng người thở.”

Axl lắng nghe thêm một lần nữa. Bỗng một tiếng động chói tai vang lên, một âm thanh lớn lặp đi lặp lại ba lần, bốn lần, ngay phía trước chỗ họ đang đứng. Những tia sáng chói lóe lên, rồi một đốm lửa lập lòe trong giây lát, đủ cho thấy một bóng người đàn ông đang ngồi, rồi bốn bề lại tối đen.

“Đừng sợ, các vị,” một giọng nói cất lên. “Chỉ là Gawain, hiệp sĩ của Vua Arthur thôi mà. Và khi nào cái bùi nhùi này bắt lửa, chúng ta sẽ nhìn được rõ hơn.”

Thêm nhiều tiếng đá lửa khác nữa, và rồi cuối cùng, một ngọn lửa nến bùng lên rồi cháy đều.

Gawain ngồi trên một mô đất tối. Rõ ràng đó chẳng phải là một chỗ ngồi lý tưởng vì ông ta đang vẹo người ở một góc nghiêng kỳ cục, giống như một con búp bê khổng lồ sắp đổ. Ngọn nến trong tay rọi sáng nét mặt cũng như phần thân người phía trên trong những mảng tối bập bùng, Gawain đang thở sườn sượt. Cũng như lúc nãy, ông ta mặc áo dài cùng lớp áo giáp; kiếm của ông ta đã được rút ra khỏi bao, đang cắm nghiêng xuống đất gần chân mô đất. Ông ta cầm ngọn nến đưa sát mặt từng người, chằm chằm nhìn họ đầy độc địa.

“Vậy là mọi người đều ở đây hết cả,” cuối cùng ông ta nói. “Ta nhẹ cả người.”

“Ngài khiến chúng tôi ngạc nhiên quá, ngài Gawain ạ,” Axl nói. “Ngài trốn dưới này là có ý gì vậy?”

“Ta đã ở dưới này được một lúc rồi và đang đi phía trước các vị thôi. Nhưng vì thanh kiếm và bộ áo giáp này, và chiều cao quá khổ của ta cứ buộc ta phải vấp ngã và phải khom đầu mà đi, nên ta không thể đi nhanh được và giờ thì các vị đã phát hiện ra ta rồi.”

“Ngài vẫn chưa giải thích cho rõ, thưa ngài. Vì sao ngài lại đi trong đường hầm này, phía trước chúng tôi chứ?”

“Để bảo vệ các vị đấy ông ạ! Sự thực thê thảm là đám thầy tu đã lừa dối các vị. Có một con thú sống dưới này và họ muốn nó làm thịt các vị. May sao, không phải tất cả các thầy tu đều suy nghĩ như nhau. Ninian, thầy tu câm lặng, đã đưa ta xuống đây mà không ai hay biết, ta sẽ dẫn các vị tới chỗ an toàn.”

“Chúng tôi không hiểu nổi những gì ngài vừa nói, ngài Gawain ạ,” Axl nói. “Nhưng đầu tiên, xin ngài hãy cho chúng tôi biết về con thú ngài vừa nhắc tới đã. Nó là con gì và chúng ta đứng đây thế này liệu có sao không?”

“Cứ cho là có đi ông ạ. Đám thầy tu sẽ không gửi các vị xuống đây nếu họ không muốn các vị gặp con thú đó. Họ vẫn thường làm thế. Là người của Chúa cứu thế, họ không được phép sử dụng kiếm hay thậm chí là thuốc độc. Vì thế, họ gửi những người họ muốn phải chết xuống đây, và chỉ nội trong một hoặc hay ngày, họ sẽ quên biến những gì họ đã làm. Ô đúng thế đấy, họ vẫn làm thế mà, đặc biệt là cha trưởng tu viện. Đến Chủ nhật, ông ta có thể còn tự thuyết phục mình, rằng ông ta đã giải cứu các vị khỏi đám lính nữa ấy chứ. Và những gì con vật ấy làm khi lảng vảng đi lại trong đường hầm này, cho dù là con gì đi chăng nữa, nếu ông ta có chợt nghĩ đến, thì ông ta cũng sẽ chối phắt, hay thậm chí sẽ gọi là ý Chúa. Thôi, để xem ý Chúa đêm nay là gì, khi một hiệp sĩ của Vua Arthur đang đi trước mặt các vị!”

“Có phải ngài đang nói, thưa ngài,” Beatrice hỏi, “rằng các thầy tu muốn chúng tôi phải chết?”

“Chắc chắn họ muốn thằng bé này chết, thưa bà. Ta đã cố làm cho họ hiểu đó là điều không cần thiết, thậm chí còn long trọng hứa sẽ đưa nó đi thật xa khỏi vùng này, nhưng không, họ không chịu nghe lời ta! Họ không muốn đánh liều thả thằng bé ra, kể cả khi cậu Wistan đã bị bắt hay bị giết, vì ai dám nói sẽ chẳng có ngày một kẻ nào đó sẽ tìm ra thằng bé. Ta sẽ đưa nó đi thật xa, ta đã nói vậy, nhưng họ sợ những gì có thể xảy ra trong tương lai, nên muốn nó phải chết. Họ có lẽ đã định tha cho ông và vợ ông rồi đấy, nhưng như vậy thì hai ông bà hóa ra lại thành người làm chứng cho tội ác của họ mất rồi. Nếu ta biết trước những chuyện này sẽ xảy ra, liệu ta có lên tới tu viện này không? Ai mà biết được chứ? Lúc ấy dường như đó là nhiệm vụ của ta, còn gì nữa? Nhưng những gì họ muốn làm với thằng bé và cặp vợ chồng vô tội theo đạo Cơ Đốc này, ta không thể cho phép! May mắn làm sao, các vị biết không, không phải thầy tu nào cũng nghĩ như thế, và Ninian, thầy tu câm lặng, đã dẫn ta xuống đây mà chẳng ai hay biết. Ta dự định đi trước các vị một quãng xa hơn nhiều cơ, nhưng bộ áo giáp này và chiều cao vướng víu của ta - không biết đã bao nhiêu lần trong suốt những năm tháng qua ta đã ra sức nguyền rủa chiều cao này! Chiều cao quá khổ thế này thì mang lại lợi lộc gì cơ chứ? Vì mỗi lần ta chạm tay vào một quả lê đung đưa trên cành cao, là một lần một mũi tên đe dọa cắm phập vào ta, trong khi nếu là một người thấp hơn thì nó sẽ chỉ bay sượt trên đầu!”

“Thưa ngài Gawain,” Axl nói, “con thú dữ ngài nói đang sống dưới này thuộc loài gì vậy?”

“Ta chưa bao giờ nhìn thấy nó ông ạ, chỉ biết rằng những người bị các thầy tu đẩy xuống đây sẽ bị nó ăn thịt bằng hết.”

“Liệu một lưỡi kiếm bình thường của một con người bình thường có sinh có tử có giết nổi nó không?”

“Ông nói thế là sao, thưa ông? Ta là một người có sinh có tử, ta không phủ nhận điều đó, nhưng ta cũng là một hiệp sĩ suốt những năm tháng tuổi trẻ đã được Arthur vĩ đại rèn luyện và nuôi dưỡng kỹ càng, người đã dạy ta biết hân hoan đương đầu với mọi loại thách thức trên đời, kể cả khi nỗi sợ đã thấm sâu vào tận xương tủy, vì nếu tất cả chúng ta rồi sẽ chết, ít ra hãy tìm cách tỏa sáng rạng ngời trong mắt Chúa khi chúng ta còn bước chân trên mặt đất này! Như tất cả những người trung thành với Arthur, ông ạ, ta đã đối mặt với lũ quỷ dữ, quỷ sa tăng, cũng như những ý đồ đen tối nhất của loài người, và ta luôn noi theo tấm gương của nhà vua vĩ đại của mình, kể cả giữa khi giao tranh khốc liệt nhất. Ông nói thế là có ý gì, thưa ông? Làm sao mà ông dám nói năng như thế? Ông có mặt ở đó không? Ta đã có mặt ở đó, ông ạ, và đã chứng kiến tất cả, bằng chính cặp mắt đang nhìn thẳng vào ông lúc này đây! Nhưng thôi không nói tới chuyện này nữa, việc này nên để lúc khác hẵng bàn. Hãy thứ lỗi cho ta, chúng ta còn nhiều việc khác cần làm, tất nhiên rồi. Ông vừa hỏi cái gì ấy nhỉ? À đúng thế, con thú này, đúng vậy, ta biết nó rất hung dữ và gớm guốc, nhưng không phải ma quỷ hay yêu tinh gì, và thanh kiếm này thôi cũng đủ để tiêu diệt nó.”

“Nhưng thưa ngài Gawain,” Beatrice nói, “có phải ngài thực sự nghĩ chúng tôi sẽ tiếp tục tiến sâu thêm vào đường hầm này sau khi nghe tất cả những gì ngài vừa nói?”

“Chúng ta còn có lựa chọn nào khác đâu, thưa bà? Nếu ta không nhầm, lối quay trở lên tu viện đã bị khóa, nhưng cũng chính cái cửa đó có thể mở ra bất kỳ lúc nào mà trút một đám lính xuống đường hầm này. Chỉ còn cách tiếp tục lên đường, và nếu không vì con thú dữ này cản đường, rất có thể chúng ta sẽ sớm ra được giữa rừng, bỏ xa những kẻ đang săn đuổi mình, vì Ninian đã quả quyết với ta rằng đây là đường hầm thực sự và được giữ gìn cẩn thận. Vậy thì hãy lên đường thôi, trước khi ngọn nến này tàn vì nó là ngọn nến duy nhất ta có.”

“Chúng ta có nên tin ông ta không hả Axl?” Beatrice hỏi, chẳng buồn giấu giếm sao cho ngài Gawain không nghe thấy. “Trí óc em đang choáng váng và thật khó tin rằng cha Brian tốt bụng đã phản bội chúng ta. Nhưng những gì người hiệp sĩ này nói nghe cũng có vẻ hợp lý.”

“Hãy đi theo ông ta công chúa ạ. Ngài Gawain này, chúng tôi xin cảm ơn ngài đã vì chúng tôi mà chuốc phiền toái vào thân. Xin ngài hãy đưa chúng tôi tới nơi an toàn và hy vọng rằng con quái vật kia đang ngủ say hoặc đang đi lang thang đâu đó ngoài trời đêm.”

“Ta sợ là chúng ta chẳng có được cái may mắn ấy. Nhưng đi thôi, các vị, chúng ta sẽ dũng cảm bước đi.” Người hiệp sĩ già chậm rãi đúng dậy rồi dang cánh tay cầm ngọn nến ra xa. “Ông Axl này, ông nên cầm nến nhỉ, vì ta sẽ cần cả hai tay giữ kiếm ở vị trí sẵn sàng.”

Họ tiếp tục đi sâu vào đường hầm, ngài Gawain dẫn đường, Axl theo sau với ngọn nến trong tay, Beatrice nắm lấy cánh tay Axl từ phía sau, còn Edwin đi sau rốt. Không có cách nào khác ngoài đi theo hàng một, vì lối đi vẫn rất hẹp, trong khi đó trần toàn rêu phủ lòa xòa và đám rễ cây dai nhanh nhách mọc ngày càng dài hơn đến độ Beatrice cũng phải cúi lom khom. Axl cố hết sức giơ nến lên cao, nhưng đến giờ gió trong đường hầm đã mạnh hơn và ông vẫn thường buộc phải hạ thấp ngọn nến xuống để dùng tay kia che cho khỏi tắt. Mặc dù vậy, Gawain không hề phàn nàn lấy một câu, bóng dáng ông ta ngay phía trước họ, kiếm giơ cao quá vai, dường như không bao giờ thay đổi. Bỗng Beatrice kêu lên một tiếng rồi kéo tay Axl.

“Có chuyện gì vậy, công chúa của anh?”

“Ôi Axl ơi, dừng chân cái đã! Bàn chân em mới chạm vào một vật gì đó, nhưng anh di chuyển ngọn nến đi nhanh quá.”

“Thế thì sao hả công chúa? Chúng ta phải đi tiếp thôi.”

“Axl, em nghĩ đó là một đứa bé! Bàn chân em chạm phải nó và em đã kịp thấy nó trước khi hết ánh nến. Ôi, em tin rằng đó là một đứa bé con đã chết từ lâu!”

“Đừng, công chúa của anh, đừng tự làm khổ nữa. Em nhìn thấy ở chỗ nào?”

“Đi thôi, đi thôi các vị,” ngài Gawain gọi từ trong bóng tối. “Có rất nhiều thứ ở nơi đây tốt hơn cả là đừng cố tìm hiểu làm gì.”

Beatrice dường như không nghe thấy Gawain, “Ở chỗ này, Axl ạ. Mang ngọn nến lại đây. Dưới kia, Axl, soi xuống dưới kia, cho dù em đang vô cùng sợ hãi không dám nhìn vào khuôn mặt tội nghiệp của nó một lần nữa!”

Nói vậy nhưng Gawain đã quay ngược lại, còn Edwin lúc này cũng đã tới đứng bên cạnh Beatrice. Axl cúi xuống và đưa ngọn nến từ chỗ này qua chỗ khác, chiếu sáng lớp đất ẩm ướt, đám rễ cây và những viên đá. Thế rồi ngọn lửa chiếu vào một con dơi lớn nằm ngửa như đang ngủ bình yên, hai cánh dang thẳng sang hai bên. Lông nó nhìn có vẻ ẩm ướt và dính nhớp. Bộ mặt giống mặt lợn không có lông, vài vũng nước nhỏ đã kịp đọng lại tại những chỗ trũng trên đôi cánh xòe rộng. Đúng là con vật nhìn có vẻ như đang ngủ say, nếu ta không thấy những gì trên phần thân phía trước của nó. Khi Axl dịch ngọn nến lại gần hơn nữa, tất cả bọn họ đều trân trối nhìn cái lỗ thủng hình tròn bắt đầu từ ngay dưới ngực con dơi xuống đến tận bụng, ăn sâu vào một phần của lồng ngực ở cả hai bên thân, vết thương gọn gàng một cách khác thường, như thể một người cắn một miếng từ một quả táo giòn.

“Con vật nào làm được một việc như thế chứ?” Axl hỏi.

Chắc vì Axl di chuyển ngọn nến quá nhanh nên đúng lúc ấy, ngọn lửa bổng leo lét rồi vụt tắt.

“Đừng lo các vị ạ,” ngài Gawain nói. “Ta sẽ tìm bùi nhùi.”

“Em đã bảo anh rồi mà, Axl,” Beatrice nghe như sắp khóc. “Ngay khi chạm chân vào nó, em biết ngay đó là một đứa bé mà.”

“Em nói gì thế hả công chúa? Không phải là một đứa bé. Em nói gì vậy?”

“Chuyện gì đã xảy ra với đứa bé tội nghiệp ấy? Còn cha mẹ nó thì ra sao rồi?”

“Công chúa ơi, đó chỉ là một con dơi, giống vật vẫn thường có mặt ở những nơi tăm tối.”

“Ôi Axl, đó là một đứa trẻ, em biết chắc là như thế!”

“Anh xin lỗi vì nến tắt, công chúa ạ, nếu không anh đã soi cho em thấy một lần nữa. Chỉ là một con dơi, không hơn không kém, nhưng chính anh sẽ kiểm tra thêm một lần nữa xem nó nằm trên cái gì. Ngài Gawain ơi, ngài có để ý nhìn chỗ nằm của con dơi ấy không?”

“Ta không hiểu ý ông nói gì ông ạ.”

“Tôi thấy hình như con vật ấy nằm trên một nền đất toàn xương, vì tôi có thấy một hay hai cái xương sọ nhất định là sọ người.”

“Thế ông muốn nói gì đây, thưa ông?” Gawain bỗng cao giọng nói một cách bất cẩn. “Đầu lâu gì mới được chứ? Ta chẳng thấy cái đầu lâu nào hết! Chỉ là một con dơi gặp phải vận rủi thôi.”

Beatrice đang khẽ thổn thức, Axl đứng dậy ôm lấy bà.

“Không phải một đứa trẻ đâu, công chúa của anh,” ông nói nhẹ nhàng hơn. “Đừng tự làm khổ mình nữa.”

“Thật là một cái chết lẻ loi. Cha mẹ của nó đâu hả Axl?”

“Ông muốn gì chứ, hả ông? Đầu lâu hả? Ta chẳng thấy cái đầu lâu nào hết. Và nếu có vài cái xương ở đây thì đã sao? Có gì đâu, có gì khác thường đâu? Chẳng phải chúng ta đang ở dưới lòng đất là gì? Nhưng ta không thấy một cái nền toàn xương nào hết, ta không hiểu ông muốn nói gì, ông Axl ạ. Ông có ở đó không, hở? Ông có đứng ngay bên cạnh Arthur vĩ đại không? Ta tự hào mà nói ta đã đứng cạnh người, và người là một vị chỉ huy vừa khoan dung vừa dũng cảm. Đúng, quả có vậy, chính ta là người đã tới gặp cha trưởng tu viện và báo cho ông ta biết danh tính và ý định của Wistan, ta đâu có lựa chọn nào khác? Làm sao ta biết được trái tim của những con người mộ đạo ấy có thể trở nên nham hiểm đến thế? Những điều ông gợi ý thật là tùy tiện, ông ạ! Một điều sỉ nhục cho tất cả những người đã từng đứng bên Vua Arthur vĩ đại! Làm gì có nền đất toàn xương ở đây! Không phải ta ở đây là để cứu các vị đó sao?”

“Thưa ngài Gawain, ngài nói quá to, ai mà biết được bọn lính lúc này đang ở đâu chứ.”

“Ta làm gì được hả ông, cho dù đã biết những gì ta biết? Đúng, ta phi ngựa lên đây nói chuyện với cha trưởng tu viện, nhưng làm sao ta có thể biết được sự nham hiểm của trái tim người đàn ông ấy? Còn con người tử tế kia, Jonus tội nghiệp, ruột gan đã bị lũ chim đục khoét và chẳng còn sống được bao lâu nữa, trong khi tên cha trưởng tu viện kia thì hầu như chẳng bị một vết xước vì lũ chim ấy…”

Ngài Gawain ngừng lời bất thình lình vì một tiếng động từ đằng xa trong đường hầm. Rất khó nói khoảng cách xa gần là bao nhiêu, nhưng không thể nhầm lẫn được, đó là tiếng gầm của một con thú; nó giống với tiếng sói tru, mặc dù còn chứa một cái gì đó giống như tiếng rống ồ ồ của một con gấu. Tiếng kêu không kéo dài, nhưng đủ khiến Axl phải ôm chặt Beatrice vào lòng, còn Gawain thì giật lấy thanh kiếm lúc ấy đang cắm trên đất. Thế rồi, họ cứ đứng nguyên tại chỗ một lúc sau đó, im lặng lắng nghe chờ con thú gầm lên lần nữa. Nhưng không có tiếng gì nữa, và đột nhiên Gawain bật cười, kiềm chế và hụt cả hơi. Khi ông ta cứ tiếp tục cười khùng khục như thế, Beatrice thì thầm vào tai Axl: “Hãy rời khỏi chỗ này thôi chồng ạ. Em không muốn phải nghĩ tới nấm mồ chôn quạnh quẽ này nữa.”

Ngài Gawain ngừng cười rồi nói: “Có thể chúng ta vừa nghe thấy tiếng con thú, nhưng không còn cách nào khác, chúng ta vẫn phải tiếp bước. Vậy nên, các vị ạ, hãy kết thúc cuộc cãi cọ ở đây. Lát nữa chúng ta sẽ thắp sáng nến trở lại, nhưng giờ thì hãy cứ đi thêm một chút trong bóng tối, đề phòng trường hợp ánh nến thu hút con thú ấy đến chỗ chúng ta. Các vị có thấy không, có chút ánh sáng lờ mờ, đủ cho chúng ta dò được đường. Đi thôi, các vị ạ, đừng cãi cọ nữa. Thanh kiếm của ta đã sẵn sàng, hãy tiếp tục lên đường thôi nhỉ.”

Đường hầm càng vào sâu càng thêm phần quanh co khúc khuỷu, họ phải đi hết sức thận trọng, khiếp sợ không biết điều gì chờ đợi mình phía sau mỗi khúc ngoặt. Nhưng chẳng có chuyên gì xảy ra, họ cũng không nghe thấy tiếng gầm của con thú nữa. Thế rồi, đường hầm bỗng đâm xuống một đoạn khá dài, cho đến khi thông ra một căn phòng rộng lớn nằm dưới lòng đất.

Tất cả bọn họ đều dừng bước để lấy lại sức và để quan sát quang cảnh mới mẻ xung quanh. Sau một hồi dài cuốc bộ đầu chạm đám đất phía trên, thực là nhẹ cả người khi được thấy trần nhà không chỉ cao vượt hẳn phía trên đầu, mà còn được xây bằng những vật liệu chắc chắn hơn. Đến lúc Gawain thắp sáng ngọn nến lên lại thì Axl nhận ra rằng họ đang đứng trong một kiểu lăng mộ, bao quanh là những bức tường mang dấu tích của những bức tranh vẽ và chữ La Mã. Trước mặt họ là hai chiếc cột lớn tạo thành một cổng vào dẫn tới căn phòng ở phía xa hơn có kích thước tương đương với căn phòng họ đang đứng, một vùng ánh trăng khi ấy đang tỏa sáng vằng vặc trên ngưỡng cửa này. Nguồn sáng bắt nguồn từ đâu không rõ: có lẽ đâu đó phía sau chiếc vòm bắc ngang qua hai chiếc cột ở tít trên cao kia có một khoảng mở và đúng thời khắc ấy lọt đúng vào tầm sáng của ánh trăng một cách hoàn toàn tình cờ. Ánh trăng soi thấy rất nhiều rêu và nấm lớn trên hai chiếc cột, cũng như một phần của căn phòng phía bên kia, nền nhà ở đó dường như đầy gạch vụn, nhưng chẳng mấy chốc Axl nhận ra đó là rất nhiều lớp xương chồng chất lên nhau. Chỉ tới lúc ấy ông mới chợt hiểu ra rằng dưới chân mình cũng là những bộ xương người đã vụn, và rằng cái lớp xương làm thành một nền nhà kỳ quái ấy phủ kín toàn bộ cả hai căn phòng.

“Đây hẳn là một nơi chôn cất cổ xưa,” ông nói to. “Nhưng sao có nhiều người được chôn ở đây thế.”

“Một nấm mồ chôn,” ngài Gawain lẩm bẩm. “Đúng, một nấm mồ chôn.” Nãy giờ Gawain vẫn đang chậm rãi đi quanh căn phòng, một tay cầm kiếm, một tay cầm nến. Lúc này, ông ta đã tiến gần tới chỗ mái vòm, dừng lại trước khi bước sang căn phòng thứ hai, như thể ánh trăng sáng rực khiến ông ta phải lùi bước. Ông ta cắm phập thanh kiếm xuống sàn, Axl đưa mắt nhìn bóng Gawain tựa vào kiếm, di chuyển ngọn nến lên xuống với vẻ mệt mỏi.

“Không nên tranh cãi làm gì, ông Axl ạ. Toàn là sọ người cả, ta không phủ nhận điều này. Chỗ này một cánh tay, chỗ kia một cẳng chân, nhưng giờ chỉ còn lại toàn là xương với xẩu. Một khu mồ chôn lâu đời. Cũng có thể là như vậy. Ông Axl này, ta dám nói rằng cả vùng này đều như thế này hết. Một thung lũng xanh tươi. Một cái xác dễ chịu trong mùa xuân. Đào đất lên, và không xa bên dưới đám hoa cúc và hoa mao lương vàng là người chết. Và ông ạ, ta không chỉ nói về những người được chôn cất theo đúng thủ tục nhà thờ đâu nhé. Nằm dưới lớp đất kia chính là những gì còn sót lại từ những cuộc chém giết thời xưa. Horace và ta đã thấy mệt mỏi về những điều này lắm rồi. Mệt mỏi và chúng ta không còn trẻ nữa.”

“Ngài Gawain ạ,” Axl nói, “chúng ta chỉ có độc một thanh kiếm. Tôi xin ngài đừng chán nản u sầu nữa, đừng quên con thú ấy đang ở rất gần đâu đây.”

“Ta không quên đâu ông ạ. Ta chỉ đang suy nghĩ về lối cổng vào trước mặt chúng ta đây thôi. Nhìn lên phía trên kia đi, ông có thấy gì không?” Gawain đang giơ ngọn nến lên cao, soi thấy một cấu trúc ngay phía dưới vòm cổng, nhìn giống như một hàng mũi nhọn chĩa thẳng xuống dưới.

“Một khung lưới sắt,” Axl nói.

“Đúng thế ông ạ. Cánh cổng này không quá cũ kỹ đâu. Ta dám cá chúng còn trẻ tuổi hơn cả ông và ta đấy. Ai đó đã nâng nó lên chờ chúng ta, hy vọng chúng ta sẽ đi qua. Nhìn ra chỗ kia mà xem, thấy các sợi thừng giữ chúng chứ. Và cái ròng rọc ở đằng kia nữa. Một người nào đó vẫn thường xuyên đến đây để nâng và hạ cánh cổng này, và có thể là để cho con thú kia ăn nữa.” Gawain bước về phía một trong hai chiếc cột, chân giẫm lạo xạo trên đống xương. “Nếu ta cắt sợi thừng này, nhất định cánh cổng sẽ lao xuống và sẽ chắn đường thoát của chúng ta. Nhưng nếu con thú ấy ở phía bên kia thì cánh cổng sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của nó. Ta đang nghe thấy thằng bé người Saxon hay là có con yêu tinh nào đó mới lẻn vào đây?”

Quả thực là, Edwin khi ấy đang đứng trong bóng tối và cất tiếng hát; thoạt đầu còn yếu ớt đến độ Axl cứ tưởng nó đang cố tự làm dịu bớt căng thẳng, nhưng rồi tiếng hát của nó ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Bài hát nghe giống như một điệu ru chậm rãi, nó hát mà mặt quay vào tường, người đu đưa nhẹ nhàng.

“Nó hành động như bị bỏ bùa mê vậy,” Gawain nói. “Kệ nó đi, giờ chúng ta phải quyết định, ông Axl ạ. Tiếp tục đi? Hay cắt sợi thừng này để ít ra cũng tránh được điều đang chờ đợi ở phía bên kia được lúc nào hay lúc ấy?”

“Tôi thấy nên cắt sợi thừng ngài ạ. Chúng ta hoàn toàn có thể nâng cánh cổng lên nếu muốn. Trong khi cánh cổng đóng kín, hãy tìm hiểu xem chúng ta đang phải đối mặt với điều gì cái đã.”

“Thật là chí lý. Ta sẽ làm theo lời khuyên của ông.”

Đưa ngọn nến cho Axl, Gawain tiến thêm một bước về phía trước, nâng thanh kiếm lên rồi chém vào cột chống. Dậy lên âm thanh của kim loại chạm vào đá, phần phía dưới của cánh cổng rung lên nhưng vẫn treo lơ lửng tại chỗ. Ngài Gawain thở dài, thoáng chút ngượng nghịu. Rồi ông ta chỉnh lại tư thế, nâng kiếm lên một lần nữa, và chém.

Lần này thì có một tiếng tách và cánh cổng đổ rầm xuống, làm tung một lớp bụi mù dưới ánh trăng. Tiếng động thật lớn - Edwin đột ngột ngừng hát - còn Axl thì trân trân nhìn xuyên qua các chấn song sắt lúc này đang chắn ngay trước mặt họ để xem liệu tiếng động ấy đã mời gọi thứ gì tới. Nhưng không thấy dấu hiệu gì của con thú nên giây lát sau thì ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm.

Và vì tới giờ tất cả đều đã bị nhốt kín lại trong căn phòng này rồi, ai cũng thấy yên tâm hơn khi khung lưới sắt đã được hạ xuống, nên cả bốn người bắt đầu đi đi lại lại trong khu lăng mộ. Sau khi bỏ kiếm vào bao, ngài Gawain lại gần các chấn song sắt và thận trọng chạm tay vào.

“Sắt loại tốt đây,” ông ta nói. “Sẽ được việc.”

Beatrice nãy giờ vẫn im lặng tới gần chỗ Axl và tựa đầu vào ngực ông. Khi Axl vòng tay ôm lấy bà, ông nhận ra trên má bà ướt đầm nước mắt.

“Lại đây, công chúa của anh,” ông nói, “can đảm lên nào. Chẳng mấy chốc chúng ta sẽ lên tới mặt đất và trời đêm ngoài kia thôi em ạ.”

“Tất cả những cái sọ người này, Axl ơi. Sao nhiều quá vậy! Có thực là con thú này đã giết chết ngần ấy người không Axl?”

Beatrice nói nhỏ, tuy thế Gawain vẫn quay sang phía họ. “Vậy ý bà là gì, thưa bà? Là ta đã sát sinh hả?” Gawain nói điều này một cách mệt mỏi, hoàn toàn không chứa đựng chút tức giận nào như lúc nãy trong đường hầm, nhưng giọng nói của ông ta chứa đựng một sự căng thẳng khác thường. “Quá nhiều sọ người, bà nói thế. Nhưng chẳng phải chúng ta đang ở trong lòng đất là gì? Ý bà muốn nói gì? Làm sao chỉ một hiệp sĩ của vua Arthur lại giết được nhiều người đến thế?” Ông ta quay về phía cánh cổng và lần ngón tay dọc theo một chấn song. “Có một lần, từ lâu lắm rồi, trong một giấc mơ, ta đứng nhìn chính mình chém giết quân thù. Trong lúc ta đang ngủ và đã lâu lắm rồi. Quân thù phải lên đến hàng trăm tên, có lẽ nhiều bằng số xương ở đây ấy chứ. Ta cứ chiến đấu và tiếp tục chiến đấu. Chỉ là một giấc mơ ngớ ngẩn, nhưng ta vẫn nhớ như in.” Gawain thở dài rồi nhìn Beatrice. “Ta không biết phải trả lời bà thế nào đâu bà ạ. Ta chỉ hành động theo cách ta nghĩ sẽ khiến Chúa hài lòng. Làm sao ta biết được trái tim của đám thầy tu độc ác kia đã trở nên nham hiểm đến thế? Ta và Horace lên tới tu viện này lúc mặt trời còn chưa lặn, chẳng bao lâu sau khi đoàn của ông bà tới nơi, vì khi đó ta nghĩ rằng mình cần nói chuyện khẩn cấp với cha trưởng tu viện. Thế rồi ta đã khám phá ra mưu đồ của ông ta dành cho các vị, ta đã phải giả vờ tán thành. Ta chào tạm biệt ông ta, tất cả bọn họ đều tưởng ta đã đi xa, nhưng ta bỏ Horace trong rừng rồi cuốc bộ lên đây, nhờ màn đêm nên chẳng ai hay biết. Không phải thầy tu nào cũng nghĩ như nhau, ơn Chúa. Ta biết Jonus tốt bụng sẽ đón tiếp ta. Sau khi được ông ấy cho biết kế hoạch của cha trưởng tu viện, ta đã để Ninian bí mật đưa ta xuống đây chờ các vị. Khổ quá, thằng bé kia lại bắt đầu rồi.”

Quả có vậy, Edwin lại cất tiếng hát, không ồn ào như khi nãy, nhưng thằng bé lại đứng ở một tư thế lạ lùng. Nó nghiêng người ra phía trước, hai nắm tay đặt hai bên thái dương và đang chậm rãi di chuyển trong bóng tối, giống như một người diễn vai thú.

“Những gì mới xảy ra là quá sức với nó,” Axl nói. “Thực là điều kỳ diệu, nó đã chịu đựng ngoan cường cho tới tận bây giờ, chúng ta sẽ phải chăm sóc nó cho cẩn thận khi nào đã thoát được khỏi chốn này. Nhưng ngài Gawain này, hãy cho chúng tôi biết, tại sao các thầy tu lại muốn giết chết một thằng bé vô tội như thế?”

“Cho dù ta có tranh luận thế nào đi chăng nữa, cha trưởng tu viện cũng nhất quyết muốn tiêu diệt bằng được thằng bé ông ạ. Vì thế, ta đã bỏ Horace ngoài rừng và quay trở lại đây…”

“Nhưng ngài Gawain này, xin ngài hãy giải thích. Có phải chuyện này có liên quan tới vết thương do quỷ ăn thịt người gây ra không? Nhưng họ là những người có hiểu biết Cơ Đốc giáo cơ mà.”

“Vết thương của thằng bé không phải do quỷ ăn thịt người gây ra. Chính là một con rồng đã cắn nó. Ta đã thấy điều ấy ngay tắp lự, lúc người lính kia kéo áo nó lên hôm qua. Ai mà biết được làm thế nào nó lại chạm trán với con rồng, nhưng đó chính là vết cắn của rồng, và bây giờ trong người nó sẽ sinh ra một ham muốn được đi gặp một con rồng cái. Đến lượt mình, bất cứ con rồng cái nào ở gần đến độ có thể đánh hơi được nó cũng sẽ tới tìm nó. Đó là lý do vì sao cậu Wistan lại yêu quý người được cậu ta che chở đến thế ông ạ. Cậu ta tin rằng thằng bé Edwin sẽ dẫn cậu ta tới chỗ Querig. Và cũng chính vì lý do này mà các thầy tu cùng đám lính kia muốn nó phải chết. Nhìn kìa, thằng bé càng trở nên hoang dại hơn!”

“Thế còn đống xương sọ này là thế nào, thưa ngài?” Beatrice đột nhiên hỏi vị hiệp sĩ. “Tại sao lại nhiều đến thế? Liệu có phải chúng toàn thuộc về trẻ nhỏ không? Một số nhỏ tới mức cầm lọt trong lòng bàn tay ông.”

“Công chúa ơi, đừng tự giày vò mình nữa. Đây là nơi chôn cất, chỉ có vậy thôi.”

“Bà nói thế là có ý gì, thưa bà? Sọ của trẻ nhỏ ư? Ta đã chiến đấu chống lại con người, lũ quỷ sa tăng và bọn rồng. Nhưng chém giết trẻ sơ sinh ư? Làm sao bà dám nói vậy, hả bà?”

Đột nhiên, Edwin vừa tiếp tục hát vừa gạt họ sang bên để đi qua chỗ họ đang đứng, tới gần khung lưới sắt rồi ép sát người vào các chấn song.

“Quay lại đây, cậu bé,” ngài Gawain nói, túm lấy vai Edwin, “ở đây rất nguy hiểm, và hát như thế là đủ rồi đấy!”

Edwin dùng cả hai tay túm lấy chấn song sắt, vị hiệp sĩ và thằng bé giằng co một lát. Rồi cả hai buông nhau ra và lùi xa cánh cổng. Beatrice lúc ấy đang tựa vào ngực Axl, thốt lên một tiếng kêu nhỏ, nhưng đúng lúc đó tầm nhìn của Axl bị cả Edwin và Gawain che khuất. Thế rồi con thú dữ bước tới quầng sáng của ánh trăng, ông giờ có thể quan sát nó rõ ràng hơn.

“Chúa che chở cho chúng ta,” Beatrice nói. “Đây chính là con vật đã thoát ra khỏi khu Đại Đồng Bằng, không khí bỗng trở nên lạnh giá hơn hẳn.”

“Đừng sợ, công chúa ạ. Nó không thể phá các chấn song được đâu.”

Ngài Gawain đã lập tức rút kiếm ra khỏi bao rồi bắt đầu cười thầm. “Hoàn toàn không đáng sợ như ta tưởng,” ông ta nói, rồi lại cười nữa.

“Nhưng cũng đủ tệ hại rồi ngài ạ,” Axl nói. “Nhìn cũng thấy nó hoàn toàn có khả năng ngấu nghiến chúng ta từng người một.”

Rất có thể trước mặt họ là một loài động vật to lớn bị lột da: một lớp màng đục màu, giống như lớp màng bên trong bụng cừu, phủ căng trên các bắp thịt và các khóp xương. Bao phủ trong ánh trăng, con thú dữ xem ra có kích cỡ và hình dáng tương đương một con bò đực, nhưng đâu lại rõ ràng giống đầu sói và sẫm màu hơn - mặc dù ở đây màu sẫm này là cảm tưởng do ánh lửa mang lại chứ không phải do màu lông hoặc màu da tự nhiên gây ra. Mồm của nó thật đồ sộ, trong khi mắt lại giống loài bò sát.

Ngài Gawain vẫn đang cười một mình. “Bước chân trong đường hầm tối tăm đó, trí tưởng tượng ngông cuồng của ta đã chuẩn bị sẵn sàng chờ đón một cái gì đó tồi tệ hơn nhiều. Ông Axl ạ, có một lần, ở vùng đầm lầy tại Dumum, ta đã chạm trán với một lũ sói mang đầu của những mụ phù thủy gớm guốc! Còn ở núi Culwich, là lũ quỷ ăn thịt người hai đầu thổ máu vào các vị khi chúng gào lên trước khi xung trận! Con này thì chỉ hơn một con chó điên một chút mà thôi.”

“Nhưng nó chính là vật chắn đường tới tự do của chúng ta, thưa ngài Gawain.”

“Nhất định rồi. Vậy là chúng ta cứ đứng đây nhìn nó cả tiếng đồng hồ, cho tới khi lũ lính đặt chân xuống đường hầm sau lưng chúng ta. Hay là nâng cổng lên đánh nhau với nó.”

“Tôi nghiêng về ý nghĩ nó là một kẻ thù nguy hiểm hơn là một con chó hung dữ. Ngài Gawain này, tôi xin ngài đừng tỏ ra tự mãn.”

“Ta đã già rồi, ông ạ, và đã nhiều năm qua không hề vung thanh kiếm này lên trong giận dữ. Nhưng ta vẫn là một hiệp sĩ được huấn luyện bài bản và nếu đây là một con thú dữ trên trái đất này, nhất định là ta sẽ thắng thế.”

“Nhìn kìa Axl,” Beatrice nói, “anh có thấy nó cứ dõi mắt theo thằng bé Edwin không.”

Edwin lúc này đang bình tĩnh một cách lạ thường và nãy giờ đang thử bước qua bước lại, thoạt tiên sang trái, rồi lại sang phải, luôn nhìn thẳng vào con thú dữ vốn cũng không bao giờ rời mắt khỏi cậu.

“Con chó này thèm thằng bé lắm rồi,” ngài Gawain thận trọng nói. “Chắc là có dòng giống của bọn rồng trong con quỷ này.”

“Cho dù nó là con gì đi chăng nữa,” Axl nói, “nó đang chờ đợi hành động tiếp theo của chúng ta với một sự kiên nhẫn lạ kỳ.”

“Vậy thì ta xin đề xuất thế này, các vị ạ,” ngài Gawain lên tiếng. “Bất đắc dĩ lắm ta mới phải dùng thằng bé người Saxon này như một con cừu non bị trói để bẫy một con sói. Nhưng có vẻ nó là một thằng bé dũng cảm, và cứ lang thang ở đây không một mẩu vũ khí trong tay thì nguy hiểm cũng có kém gì đâu. Hãy để nó cầm ngọn nến rồi ra đứng đằng kia, phía cuối căn phòng ấy. Rồi nếu ông Axl tìm cách nào đó nâng được cánh cổng kia lên, thậm chí có thể huy động cả sự trợ giúp của vợ ông nữa cũng được, thì con thú sẽ được tự do chạy sang bên này. Ta hình dung nó sẽ lao thẳng tới chỗ thằng bé. Vậy nghĩa là ta đã biết được đường đi của nó, ta sẽ đứng ngay chỗ này và chém chết nó khi nó phóng qua. Ông có đồng tình với kế hoạch này không hả ông Axl?”

“Đó là một kế hoạch liều lĩnh. Nhưng tôi cũng lo là chẳng mấy chốc nữa đám lính sẽ phát hiện ra đường hầm này. Vậy thì thử làm xem sao ngài ạ. Kể cả nếu tôi và vợ tôi có phải cùng nhau đu mình lên đoạn thừng, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức nâng cho được cánh cổng. Công chúa ơi, em hãy giải thích cho thằng bé Edwin kế hoạch của chúng ta để xem nó có đồng ý tham gia không đi.”

Nhưng Edwin có lẽ đã hiểu rõ chiến lược của ngài Gawain mà chẳng cần ai phải bàn với nó dù chỉ một lời. Đón lấy cây nến từ tay ngài hiệp sĩ, thằng bé bước đúng mười sải chân dài trên đống xương, cho tới khi nó quay trở lại chỗ tối trong phòng. Khi nó quay người lại, ngọn nến phía dưới gương mật nó hầu như không hề run rẩy, để lộ ra một cặp mắt rực sáng đang dán chặt vào con vật phía sau song sắt.

“Nhanh chân lên, công chúa ơi,” Axl nói. “Trèo lên lưng anh và cố với lấy đầu sợi thừng nhé. Em có thấy nó đang đung đưa ở chỗ kia không.”

Thoạt đầu, cả hai người chỉ thiếu chút nữa thì ngã lộn nhào. Sau đó, họ dùng chính chiếc cột trụ làm điểm tựa cho vững, và sau một hồi dò dẫm, Axl nghe thấy Beatrice nói: “Em túm được nó rồi Axl ạ. Thả em xuống và nhất định sợi thừng sẽ bị lôi xuống theo em. Nhớ giữ em để em không ngã bịch xuống đất.”

“Gawain này,” Axl gọi nhỏ. “Ngài đã sẵn sàng chưa?”

“Chúng ta đã sẵn sàng cả rồi.”

“Nếu con thú chạy thoát được quá chỗ ngài đứng, điều đó có nghĩa là ngày tận cho thằng bé dũng cảm kia đấy.”

“Ta biết chứ. Nó sẽ không thoát được đâu.”

“Để em xuống từ từ thôi nhé Axl. Nếu em vẫn lơ lửng trên này thì anh hãy đưa tay lên kéo em xuống.”

Axl thả Beatrice ra và trong giây lát, người bà treo lơ lửng trong không khí, bà không đủ nặng để làm đối trọng kéo cánh cổng lên. Thấy vậy, Axl cố gắng nắm lấy đoạn dây thừng gần chỗ hai bàn tay của Beatrice và cả hai cùng kéo. Thoạt đầu vẫn không thấy gì nhúc nhích, thế rồi một cái gì đó đành chịu đầu hàng và cánh cổng rung bần bật rồi kéo lên. Axl tiếp tục kéo và do bị khuất không nhìn được kết quả ra sao, ông gọi to: “Cao thế đủ chưa ngài ơi?”

Có một khoảng lặng trước khi giọng nói của Gawain vang lên đáp trả. “Con chó đang nhìn ra phía chúng ta, giờ thì không có gì chắn giữa nó và chúng ta nữa rồi.”

Axl vặn người cố nhìn qua cột trụ đúng lúc con thú dữ lao về phía trước. Ánh trăng rọi sáng vào gương mặt thất kinh của người hiệp sĩ già khi ông ta vung kiếm, nhưng đã quá muộn mất rồi, con vật ấy lao qua chỗ ông ta đứng và nhằm thẳng về phía Edwin.

Mắt thằng bé mở to hơn nữa, nhưng nó vẫn không đánh rơi ngọn nến. Thay vào đó, nó chỉ dịch sang một bên, như một cử chỉ lịch sự nhường đường cho con thú dữ chạy qua. Axl ngạc nhiên vô cùng khi thấy con thú làm đúng như thế, chạy thẳng vào trong màn đêm đen đặc của đường hầm họ vừa mới bước chân ra khỏi khi nãy.

“Tôi sẽ tiếp tục giữ cánh cổng,” Axl hét to. “Mọi người chạy qua nhanh tới chỗ an toàn đi.”

Nhưng cả Beatrice đang đứng cạnh ông cũng như Gawain sau khi đã hạ kiếm xuống đều có vẻ không hề nghe thấy những gì ông nói. Đến cả Edwin hình như cũng không còn quan tâm gì tới con vật kinh khủng vừa mới lao qua chỗ mình và nhất định sắp sửa quay lại đến nơi. Giơ ngọn nến trước mặt, thằng bé bước tới chỗ người hiệp sĩ già đang đứng, hai người bọn họ cùng đưa mắt nhìn xuống nền nhà.

“Thả cho cánh cổng rơi xuống đi ông Axl,” Gawain nói mà không ngẩng mặt lên. “Lát nữa chúng ta sẽ lại nâng nó lên.”

Giờ thì Axl đã nhận ra một điều, người hiệp sĩ già và thằng bé đang nhìn như bị thôi miên vào một vật gì đó đang cựa quậy trên nền nhà trước mặt họ. Ông thả cho cánh cổng hạ xuống thì nghe thấy Beatrice nói:

“Một thứ đáng sợ, Axl ạ, và em không muốn nhìn chút nào. Nhưng nếu muốn thì anh ra xem đi, rồi kể cho em nghe anh nhìn thấy gì.”

“Nhưng chẳng phải con thú đã chạy thẳng vào đường hầm rồi còn gì, phải vậy không công chúa?”

“Một phần của nó, đúng, và em nghe thấy tiếng chân của nó nhỏ dần. Giờ thì hãy ra xem phần còn lại của nó đang nằm kia, ngay dưới chân của người hiệp sĩ đi Axl.”

Khi Axl tiến lại gần, cả Gawain lẫn Edwin đều giật nảy mình như thể vừa mới thoát ra khỏi trạng thái xuất thần. Rồi họ dịch sang một bên, và Axl trông thấy đầu con thú dữ dưới ánh trăng.

“Hàm nó không chịu ngừng,” giọng ngài Gawain tỏ vẻ lo sợ. “Ta đã định chém cho nó một phát nữa, nhưng lại sợ làm như vậy là một sự mạo phạm và sẽ chỉ mang lại cho chúng ta thêm những điều xui xẻo khác nữa. Nhưng ta chỉ mong nó không động đậy như thế nữa.”

Quả có vậy, thực khó lòng tin được cái đầu đã bị cắt lìa ấy lại không phải là một sinh vật sống. Nó nằm nghiêng, bên mắt lộ thiên kia phát ra thứ ánh sáng lập lòe, giống như một sinh vật biển. Hai cái hàm cứ chuyển động nhịp nhàng nhờ một thứ năng lượng kỳ lạ nào đó, cái lưỡi nhờ đó cứ tóp tép giữa hai hàm răng, trông vẫn đầy sinh lực.

“Chúng tôi đội ơn ngài, thưa ngài Gawain,” Axl nói.

“Chỉ là một con chó thôi ông ạ, ta sẵn sàng đối mặt với những thứ đáng sợ hơn nhiều. Nhưng thằng bé người Saxon này thật là quả cảm, ta thật lòng vui mừng vì đã giúp ích được cho nó. Nhưng bây giờ chúng ta phải nhanh chân lên, mà vẫn phải thận trọng nữa, vì ai mà biết được chuyện gì đang chờ đợi phía trước, thậm chí còn có con thú dữ thứ hai đang chờ sẵn ở phòng bên kia thì sao.”

Họ vừa mới phát hiện ra một cái tay quay nằm ở phía sau một trong hai cột trụ, chỉ cần buộc chặt sợi dây thừng vào đó là việc nâng cánh cổng lên trở nên thật dễ dàng. Bỏ đầu con thú lại nguyên chỗ cũ, họ đi qua phía dưới khung lưới sắt, ngài Gawain một lần nữa lại dẫn đầu đoàn, kiếm ở vị trí sẵn sàng, còn Edwin thì khóa đuôi.

Căn phòng thứ hai của khu lăng mộ có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy nó đã được sử dụng như hang ổ của con thú dữ: giữa đống xương cũ là những xác cừu và nai vẫn còn tươi, cũng như những phần thân thể sẫm màu bốc mùi thối rữa mà họ không tài nào xác định nổi là con gì. Thế rồi lại một lần nữa họ phải đi lom khom và hụt hơi dọc theo một lối đi ngoắt ngoéo. Họ không gặp con thú dữ nào nữa, và cuối cùng chợt nghe thấy tiếng chim hót. Một mảng ánh sáng xuất hiện ở đằng xa, rồi họ bước chân ra ngoài rừng, quanh họ lúc ấy là bầu trời lúc rạng đông.

Hồ như mê mụ, Axl đưa chân bước tới chỗ một đám rễ cây mọc nhằng nhịt giữa hai cây gỗ lớn, ông cầm tay Beatrice và giúp bà ngồi xuống. Thoạt đầu, Beatrice thở không ra hơi và không cất nổi nên lời, nhưng một lúc sau bà ngẩng đầu lên nói:

“Có đủ chỗ bên cạnh em đây này, chồng ạ. Nếu giờ chúng ta đã an toàn, em muốn anh ngồi xuống cùng ngắm các vì sao lặn dần với em. Em rất mừng vì cả hai ta đều ổn cả, và rằng đường hầm quái đản kia đã lùi về phía sau.” Rồi bà nói tiếp. “Thằng bé Edwin đâu rồi, hả Axl? Em chẳng thấy nó đâu cả.”

Đưa mắt nhìn quanh trong ánh sáng lờ mờ, Axl phát hiện thấy Gawain đứng gần đó, in bóng trên nền trời lúc mờ sáng tinh mơ, đầu cúi gục, một tay vịn vào thân cây để giữ cho vững trong lúc lấy lại sức. Nhưng không thấy bóng dáng thằng bé đâu.

“Nó vừa mới đi ngay sau chúng ta,” Axl nói. “Anh thậm chí còn nghe thấy nó kêu lên một tiếng lúc chúng ta ra tới chỗ không khí trong lành mà.”

“Ta thấy nó vội vàng đi tiếp,” ngài Gawain nói mà không quay đầu lại, vừa nói vừa vẫn thở hổn hển. “Chẳng già cả như chúng ta nên nó đâu có nhu cầu phải dựa vào những cây sồi này để há miệng ra mà thở. Ta đoán là nó vội vã quay lại tu viện để giải cứu cậu Wistan rồi.”

“Chẳng lẽ ngài không nghĩ tới việc ngăn nó lại sao, thưa ngài? Nó lao tới chỗ nguy hiểm chết người như thế, trong khi đến giờ này chắc cậu Wistan hoặc đã bị giết hoặc đã bị bắt sống.”

“Ông còn muốn ta làm gì nữa hở? Ta đã làm hết những gì có thể. Ẩn mình trong cái đường hầm bí bách đó. Giết chết con thú kia cho dù nó đã ăn thịt không biết bao nhiêu người đàn ông dũng mãnh trước chúng ta. Sau bao nhiêu thứ ấy thì thằng bé lại chạy trở lui tu viện! Ta phải đuổi theo nó trong bộ áo giáp nặng nề cùng thanh kiếm này sao? Ta đã xong nhiệm vụ rồi, thưa ông. Xong cả rồi. Nhiệm vụ của ta bây giờ là gì? Ta phải dừng tay suy nghĩ cái đã. Vua Arthur sẽ muốn ta làm gì?”

“Chúng tôi hiểu thế này có đúng không, thưa ngài Gawain,” Beatrice nói, “rằng chính ngài là người đầu tiên báo cho cha trưởng tu viện rằng cậu Wistan thực ra là một chiến binh người Saxon tới từ phía Đông?”

“Bà nhắc lại chuyện ấy nữa làm gì, thưa bà? Ta đã dẫn bà tới chỗ an toàn rồi còn gì? Chúng ta giẫm chân lên không biết bao nhiêu là xương sọ trước khi tới được bình minh ngọt ngào chốn này! Quá nhiều. Không cần phải đưa mắt nhìn xuống, mỗi bước chân đều kèm với một tiếng lạo xạo của xương. Bao nhiêu người đã chết, thưa ông? Một trăm? Một ngàn? Ông có đếm không, ông Axl? Hay là lúc ấy ông không có mặt ở đó, hả ông?” Ngài Gawain vẫn chỉ là một bóng đen đứng bên cạnh thân cây, bản hợp xướng của lũ chim chóc lúc ban mai khiến cho nhiều khi thật khó nghe thấy ông ta đang nói cái gì.

“Cho dù chuyện gì đã xảy ra trong đêm nay đi chăng nữa,” Axl nói, “chúng tôi vẫn nợ ngài muôn lời cảm tạ, ngài Gawain ạ. Rõ ràng là, lòng quả cảm và tài nghệ của ngài vẫn không suy giảm. Nhưng tôi cũng có một câu muốn được hỏi ngài.”

“Tha cho ta ông ạ, thế là đủ lắm rồi. Làm sao ta có thể chạy trên những đoạn đường dốc đầy cây cối kia để đuổi cho được thằng bé lanh lẹ ấy? Ta kiệt quệ rồi, mà có lẽ là chẳng phải chỉ riêng có chuyện thở không ra hơi đâu nhé.”

“Ngài Gawain này, có phải hồi xưa chúng ta đã từng là bạn chiến đấu không?”

“Xin ông tha cho ta. Đêm nay ta đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thế vẫn chưa đủ với ông hay sao? Giờ ta phải đi tìm con Horace tội nghiệp của mình, nó bị ta buộc vào một thân cây để nó không bỏ đi lang thang được, nhưng ngộ nhỡ một con chó sói hay một con gấu tìm đến chỗ nó thì sao?”

“Màn sương mù che kín quá khứ của tôi,” Axl nói. “Thế nhưng gần đây, tôi bỗng thấy mình nhớ lại một nhiệm vụ, một nhiệm vụ rất quan trọng tôi được tin tưởng giao phó. Có phải đó là một điều luật, một điều luật cao cả muốn đưa toàn thể loài người tới gần hơn với Chúa? Sự hiện diện của ngài, những gì ngài nói về Arthur, khuấy động những suy nghĩ từ lâu đã nhạt nhòa trong tôi, ngài Gawain ạ.”

“Con Horace khốn khổ của ta cũng chẳng ưa gì rừng rậm ban đêm ông ạ. Chỉ một tiếng cú kêu hay một tiếng rít của lũ cáo cũng khiến nó hoảng hồn, trong khi một trận mưa tên trút xuống lại chẳng làm nó mảy may nao núng. Ta đi tìm nó đây, và ta mong các vị cũng đừng nghỉ chân ở đây quá lâu. Hãy quên hai người Saxon trẻ tuổi kia đi. Hãy nghĩ tới cậu con trai thân yêu đang chờ đợi hai vị ở ngôi làng nơi nó sinh sống ấy. Tốt hơn cả là nhanh chân lên đường, ta thấy thế đấy, vì giờ hai vị chẳng có chăn ấm và đồ dùng gì nữa. Có một con sông ở gần đây thôi, con nước lớn của nó chảy về phía Đông. Chỉ cần một lời thân thiện với người đưa phà cũng có thể đảm bảo cho các vị một chuyến xuôi dòng. Nhưng đừng lãng phí thời giờ ở đây nữa, ai mà biết được bao giờ bọn lính sẽ xuất hiện ở đây? Chúa che chở cho các vị.”

Sau một tiếng sột soạt cùng vài tiếng đập mạnh, hình bóng của ngài Gawain biến mất trong tán lá rừng tối sẫm. Một lát sau đó, Beatrice cất tiếng:

“Chúng ta chưa kịp nói lời chia tay với ông ấy, Axl ạ, em thấy mình tệ quá. Nhưng cách ông ấy từ biệt chúng ta mới kỳ quặc và đột ngột làm sao.”

“Anh cũng nghĩ vậy, công chúa ạ. Nhưng ông ấy đã cho ta lời khuyên chí lý đấy. Chúng ta hãy nhanh chân tìm tới chỗ con trai và đừng nghĩ tới những người bạn đường kia nữa. Anh lo cho thằng bé Edwin tội nghiệp quá, nhưng nếu nó cứ nhất định phải vội vã quay trở lại tu viện, liệu ta có thể làm gì giúp nó được đây?”

“Hãy nghỉ thêm chút nữa đã Axl ạ. Rồi chúng ta sẽ nhanh chóng lên đường, chỉ hai ta, và chúng ta sẽ tìm được một con thuyền giúp chuyến đi của mình được nhanh chóng hơn. Con trai của chúng ta hẳn đang băn khoăn không biết điều gì đã giữ chân chúng ta lại lâu đến thế.”