Người Khổng Lồ Ngủ Quên

PHẦN II Chương 6

Mặc dù mệt mỏi nhưng Axl không sao ngủ được. Các tu sĩ đã dành riêng cho họ một phòng ở tầng trên và cho dù thực dễ chịu khi không phải chịu cái giá lạnh tỏa lên từ mặt đất nhưng giấc ngủ chưa bao giờ dễ dàng với Axl khi ông phải nằm trên cao. Kể cả những khi trú chân ngoài nhà kho hay khu chuồng ngựa, ông vẫn thường leo lên các bậc thang chỉ để thao thức suốt đêm dài, khổ sở vì bị những khoảng trống phía dưới làm phiền. Mà rất có thể, sự bồn chồn khắc khoải của ông đêm nay là do lũ chim đậu trong bóng tối trên trần nhà gây ra. Cả lũ chúng lúc này đang im ắng, nhưng thỉnh thoảng lại có vài tiếng sột soạt hay vài tiếng đập cánh, và rồi một nỗi hối thúc trong lòng cứ buộc ông phải quàng tay qua người Beatrice đang ngủ yên bên cạnh để bảo vệ bà khỏi đám lông chim hôi hám bay liệng trong không khí.

Lũ chim đã có mặt sẵn ở đó khi họ mới bước chân vào căn phòng khi nãy. Sao lúc đó ông không nhận thấy có điều gì đó đầy ác ý trong cách những con quạ, chim két và chim câu xanh ấy giương mắt nhìn xuống từ chỗ xà nhà? Hay tất cả những ấn tượng hiện có này chỉ vì trí nhớ của ông đã bị bóp méo bởi những sự việc diễn ra sau đó?

Mà cũng có thể nỗi trằn trọc đêm nay là do tiếng Wistan bổ củi ngay lúc này vẫn đang vang dội khắp các khoảng sân trong tu viện. Beatrice chẳng khó khăn gì đã chìm ngay vào giấc ngủ, và ở góc phòng bên kia, ngay phía trên khối đen Axl biết chính là chiếc bàn nơi họ vừa ngồi ăn lúc trước, Edwin cũng đã ngáy o o đều đặn. Nhưng theo như Axl biết thì Wistan chưa hề đặt lưng nằm xuống. Người chiến binh vẫn ngồi yên ở góc phòng phía xa, chờ tới khi những thầy tu cuối cùng rời khỏi khoảng sân bên trong tu viện phía dưới kia rồi ra khỏi phòng mà biến mất vào trong màn đêm ngoài trời. Và bất chấp lời cảnh cáo của cha Jonus, anh ta lại đang tiếp tục bửa thêm củi.

Các thầy tu đã giải tán sau khi họp xong. Đã vài lần Axl gần thiếp đi, nhưng rồi lại tỉnh dậy vì những tiếng nói vọng lên từ dưới sân. Thỉnh thoảng có khoảng bốn hoặc năm người, giọng lúc nào cũng hạ thấp nhưng luôn chứa chất hoặc tức giận hoặc sợ hãi. Đã một lúc lâu không thấy ai nói gì nữa, dù đang bắt đầu thiu thiu ngủ, Axl vẫn không thể rũ bỏ được cảm giác các thầy tu vẫn đứng ngoài kia phía dưới ô cửa sổ, không chỉ vài mà tới hàng tá bóng người mặc áo choàng, im lìm dưới ánh trăng, lắng nghe những cú bổ của Wistan vang vọng qua các khoảng sân.

Lúc nãy, khi ánh mặt trời buổi chiều còn tràn khắp phòng, Axl nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy hình như toàn thể cộng đồng tu sĩ ở đây - phải tới hơn bốn mươi người - đương tụm lại thành từng đám đứng chờ rải rác khắp sân. Có một thái độ ngấm ngầm trong tâm trạng của họ, như thể họ đang hết sức chú ý cố gắng sao cho lời nói của mình không bị ai, kể cả những người trong chính bọn họ nghe thấy, và Axl còn thấy cả những ánh nhìn thù địch họ dành cho nhau. Các thầy tu cùng mặc một thứ vải màu nâu, thỉnh thoảng lại thấy một áo choàng không có mũ hoặc thiếu mất một bên tay. Họ có vẻ nóng lòng muốn được vào bên trong tòa nhà lớn xây bằng đá ở phía đối diện, nhưng việc này đang bị trì hoãn và ông thấy rõ vẻ sốt ruột hiển hiện ở họ.

Axl đang đứng nhìn xuống sân như vậy thì một tiếng động khiến ông phải vươn người cúi ra ngoài cửa sổ xa hơn nữa để có thể nhìn thẳng xuống dưới. Ông trông thấy bức tường phía ngoài của tòa nhà, lớp đá nhạt màu phản chiếu màu vàng của nắng mặt trời, cùng những bậc thang cắt vào tường dẫn từ dưới mặt đất hướng về phía ông. Ở giữa chừng những bậc thang này là một tu sĩ - Axl trông rõ đỉnh đầu ông ta - tay cầm một cái khay chất đầy thức ăn cùng một bình sữa. Người đàn ông ấy đang dừng chân để cầm khay thức ăn lại cho ngay. Axl theo dõi cử động của ông ta trong lo sợ vì biết những bậc cầu thang kia rất gồ ghề vì bị thời gian bào mòn và chẳng hề có tay vịn phía ngoài nên người đi trên đó phải ép sát mình vào tường để đảm bảo không ngã lăn xuống lớp đá cuội bên dưới. Thêm vào đó, thầy tu đang trèo thang lên đây hình như còn đi khập khiễng, mặc dù ông ta vẫn tiếp tục dấn bước, từ tốn và chắc chắn.

Axl ra cửa định đỡ khay giúp ông ta, nhưng cha Brian - chẳng mấy chốc sau đó họ đã biết tên của thầy tu ấy, nhất quyết tự mình mang thức ăn tới bàn và bảo họ: “Các vị là khách của chúng tôi, nên hãy để tôi được phục vụ các vị như thế này.”

Wistan và thằng bé đã bỏ ra ngoài từ trước và có lẽ tiếng bổ củi lúc ấy đã vang lên trong không gian cũng nên. Vậy nên chỉ có ông với Beatrice ngồi xuống cạnh nhau bên chiếc bàn gỗ và ăn ngấu nghiến bánh mì, hoa quả và sữa, vẻ đầy biết ơn. Trong khi họ ăn, cha Brian đã vui vẻ trò chuyện, đôi lúc đầy vẻ mơ màng, về những người khách đã ghé thăm trước đó, về lũ cá câu được ở con suối gần tu viện, về một chú chó lạc đã sống ở đây cùng họ tới khi qua đời vào mùa đông năm ngoái. Thỉnh thoảng, tuy đã cao tuổi nhưng vẫn rất hoạt bát, cha Brian lại đứng dậy lê cái chân bị tật khắp phòng, miệng vẫn không dứt lời, đôi lúc lại ra chỗ cửa sổ nhìn xuống các thầy tu phía dưới.

Trong khi đó, trên đầu họ, lũ chim đã bắt đầu bay quàng bay xiên ngay dưới mái nhà, lông chúng thỉnh thoảng lại liệng xuống làm bẩn lớp sữa bề mặt. Axl muốn đuổi chúng ra khỏi phòng lắm rồi, nhưng vẫn phải nhịn vì nhỡ đâu chúng là những vị khách yêu quý của các thầy tu thì sao. Ông giật mình khi chợt nghe thấy tiếng chân vội vã trên các bậc cầu thang bên ngoài và rồi một thầy tu cao lớn mang bộ ria sẫm màu cùng bộ mặt đỏ gay lao vào phòng.

“Quỷ dữ! Quỷ dữ!” anh ta gào lớn, giận dữ nhìn lên phía xà nhà. “Ta sẽ cho chúng tắm trong máu!”

Trong tay người mới đến là một chiếc túi cói, anh ta đang thò tay vào bên trong, lấy ra một hòn đá và ném mạnh lên chỗ bọn chim. “Quỷ dữ! Quỷ dữ hôi thối, quỷ dữ, quỷ dữ!”

Khi viên đá đầu tiên nẩy bật ra rồi rơi xuống sàn nhà, anh ta ném tiếp viên đá thứ hai, rồi thứ ba. Chúng rơi xuống cách xa chỗ chiếc bàn, nhưng Beatrice vẫn dùng cả hai tay ôm lấy đầu, thấy thế, Axl liền đứng dậy rồi đi về phía người đàn ông có râu. Nhưng cha Brian tới nơi trước, túm lấy cả hai tay anh ta mà nói:

“Huynh Irasmus, tôi xin anh đấy! Hãy dừng tay và bình tĩnh lại!”

Lũ chim lúc ấy đang kêu rít lên thất thanh và bay loạn xạ khắp nơi, còn vị thầy tu để râu thì la lớn về tiếng ồn ào hỗn loạn ấy: “Tôi biết bọn này! Tôi biết bọn này!”

“Bình tĩnh lại đi, anh!”

“Đừng có cản chân tôi, cha ạ! Chúng là sứ giả của ác quỷ đấy!”

“Nhưng cũng có thể chúng là sứ giả của Chúa, Irasmus. Chúng ta vẫn chưa biết thế nào.”

“Tôi biết chúng là sứ giả của ác quỷ! Cứ thử nhìn vào mắt chúng mà xem! Những con mắt thế kia làm sao là sứ giả của Chúa cho được?”

“Irasmus, bình tĩnh lại. Chúng ta đang có khách ở đây.”

Nghe những lời này, vị thầy tu có râu mới để ý thấy sự hiện diện của Axl và Beatrice. Anh ta giận dữ nhìn họ, rồi quay ra nói với cha Brian: “Tại sao lại đưa khách vào tu viện trong thời điểm thế này? Tại sao họ tới đây?”

“Họ chỉ là khách bộ hành đi qua đây thôi, anh ạ, và chúng ta vui vẻ tiếp đón họ, vì thông lệ ở đây vẫn như thế.”

“Cha Brian, cha thật là ngớ ngẩn, ai lại đem kể chuyện của chúng ta cho người lạ. Nhìn mà xem, họ đến đây để theo dõi chúng ta.”

“Họ không theo dõi ai hết, mà cũng không quan tâm gì tới việc của chúng ta khi bản thân họ cũng có khối việc phải lo lắng, tôi không nghi ngờ gì điều đó hết.”

Đột nhiên, người đàn ông có râu lại lôi ra một viên đá mới rồi chuẩn bị ném, nhưng cha Brian cố ngăn anh ta lại. “Xuống dưới nhà đi, Irasmus, bỏ chiếc túi này lại đây. Đây, bỏ lại đây với tôi. Cứ vác nó đi khắp nơi như thế chẳng được việc gì hết đâu.”

Người đàn ông để râu giật ra khỏi tay vị tu sĩ già, ôm khư khư chiếc túi cói vào ngực. Nhường chiến thắng nhỏ nhoi này cho Irasmus, cha Brian dẫn anh ta tới cửa ra vào, và trong khi anh ta đang cố đưa mắt nhìn lên mái nhà một lần nữa, ông ta khẽ đẩy anh ta ra chỗ thềm cầu thang.

“Xuống dưới kia đi, Irasmus. Dưới ấy họ đang nhớ anh lắm đấy. Xuống đi và cẩn thận kẻo ngã.”

Khi cuối cùng Irasmus cũng đi rồi, cha Brian mới trở lại phòng, khoát tay xua đám lông chim đang bay liệng trong không khí.

“Tôi xin lỗi hai vị. Anh ta là người tốt, nhưng cách sống ở đây không còn phù hợp với anh ta nữa. Xin các vị hãy ngồi xuống và ăn nốt trong bình yên đi.”

“Nhưng đúng vậy, thưa cha,” Beatrice nói, “có thể anh ta đã đúng khi nói rằng chúng tôi đã bắt các vị phải đón tiếp mình vào lúc không dễ dàng thế này. Chúng tôi không muốn làm cha thêm nặng gánh nữa, và nếu cha cho phép chúng tôi được nhanh chóng xin ý kiến của cha Jonus, người đã nổi tiếng vì sự thông thái của mình, thì chúng tôi sẽ sớm lên đường. Đã ai cho cha biết liệu chúng tôi có được gặp ông ấy hay không chưa?”

Cha Brian lắc đầu. “Vẫn như tôi nói với bà khi nãy thôi, thưa bà. Cha Jonus lâu nay không được khỏe và cha trưởng tu viện ra lệnh nghiêm ngặt không ai được làm phiền ông ấy, trừ phi được chính cha trưởng tu viện cho phép. Tôi biết bà muốn được gặp cha Jonus và biết những cơn đau của bà, nên từ lúc bà tới đây, tôi đã cố làm sao để cha trưởng tu viện để tai nghe mình. Nhưng như bà thấy đấy, các vị đến đây vào đúng lúc chúng tôi rất bận bịu, và bây giờ lại vừa có một vị khách quan trọng mới tới gặp cha trưởng tu viện, khiến cho cuộc họp của chúng tôi lại bị trì hoãn thêm nữa. Ngay lúc này, cha trưởng tu viện đã quay trở lại phòng làm việc của người để nói chuyện với vị khách trong khi tất cả chúng tôi phải chờ đợi ngoài này.”

Beatrice nãy giờ vẫn đứng gần cửa sổ nhìn theo người đàn ông để râu đang bước xuống các bậc thang đá, giờ đang chỉ tay nói: “Cha ơi, có phải kia là cha trưởng tu viện đang quay trở ra không?”

Tới gần bên vợ, Axl thấy một người gầy gò đang uy nghi sải chân vào giữa khoảng sân trong tu viện. Các thầy tu ngừng mọi cuộc trò chuyện lại mà tiến cả về phía ông ta.

“A đúng thế, cha trưởng tu viện đã quay lại. Giờ thì hai vị hãy ăn cho xong đi. Còn về phần cha Jonus, xin hai vị hãy bình tĩnh, vì tôi sợ rằng tôi sẽ không thể cho hai vị biết cha trưởng tu viện quyết định thế nào cho tới khi cuộc họp này kết thúc. Nhưng tôi sẽ không quên việc này, tôi xin hứa như vậy, và sẽ nhiệt tình thỉnh cầu cho hai vị.”

Chắc chắn là vào lúc ấy, tiếng bổ củi của người chiến binh cũng vang vọng khắp sân tu viện giống như hiện giờ. Trên thực tế, Axl nhớ rõ lúc ấy đã tự hỏi bản thân trong khi đưa mắt nhìn các tu sĩ đi thành hàng vào bên trong tòa nhà phía đối diện, rằng không biết ông đang nghe thấy một hay hai tiếng bổ củi nữa; vì tiếng thứ hai theo sát tiếng thứ nhất đến độ khó lòng phân biệt liệu đó là một tiếng động thực sự hay chỉ là tiếng vang. Nghĩ tới đây lúc đang nằm trong bóng tối thế này, Axl chắc mẩm khi đó Edwin đang bổ củi cùng Wistan, cứ nhát một, nhát một nhịp nhàng với nhau như thế. Rất có thể, bản thân thằng bé vốn đã là một chuyên gia trong việc này. Lúc nãy, trước khi tới tu viện, thằng bé đã khiến tất cả phải ngạc nhiên vì chỉ với hai phiến đá dẹt kiếm được gần chỗ cậu đứng, cậu đã đào mới nhanh làm sao.

Axl lúc đó đã dừng tay đào sau khi được người chiến binh thuyết phục phải biết giữ sức để còn leo lên tới chỗ tu viện. Vậy nên ông đã đứng đó, bên cạnh thi thể đang rỉ máu của người lính, canh chừng lũ chim đang tụ về đậu trên cành cây. Axl nhớ lại, Wistan đào mộ bằng thanh kiếm của người đã chết, nói rằng anh ta không muốn làm cùn lưỡi gươm của mình vào một việc như thế. Tuy nhiên, ngài Gawain đã lập luận thế này: “Người lính này đã hy sinh trong danh dự, cho dù mưu đồ của chủ anh ta là gì đi chăng nữa, và cây kiếm của một hiệp sĩ như cậu đã được sử dụng vì một mục đích tốt là đào cho anh ta một nấm mồ.” Mặc dầu vậy, cả hai người bọn họ đã dừng tay và ngạc nhiên nhìn những gì Edwin làm được chỉ bằng những công cụ thô sơ của mình. Sau đó, khi họ lại tiếp tục đào, Wistan nói với Gawain:

“Ngài Gawain ạ, tôi sợ rằng chúa đất Brennus sẽ không tin một câu chuyện như thế.”

“Ông ta sẽ tin ta thôi, cậu ạ,” Gawain vừa đào vừa trả lời. “Ta với ông ta có mối quan hệ lạt lẽo, nhưng ông ta luôn tin ta là một thằng ngốc thật thà không đủ trí khôn để bịa ra những trò ranh ma xảo quyệt. Có thể ta sẽ kể họ nghe người lính đã nhắc đến lũ cướp thế nào khi anh ta đang chết vì mất máu trên tay ta. Một số người nghĩ rằng nói dối như vậy là một tội ác nghiêm trọng, nhưng ta biết Chúa sẽ rộng lượng với ta, vì chẳng phải nhờ đó sẽ ngăn chặn được đổ máu đó sao? Ta sẽ đảm bảo Brennus tin tưởng ta cậu ạ. Nhưng kể cả như vậy, cậu vẫn đang trong vòng hiểm nguy và có lý do chính đáng để lập tức trở về quê nhà.”

“Tôi sẽ làm ngay không chậm trễ, thưa ngài Gawain, ngay khi hoàn thành nhiệm vụ của mình ở đây. Nếu chân con ngựa của tôi không sớm hồi phục, rất có thể tôi sẽ đổi lấy một con ngựa khác, vì từ đây tới vùng đầm lầy là cả một quãng đường xa. Nhưng tôi sẽ rất lấy làm tiếc nuối, vì nó là một con ngựa hiếm.”

“Thực tình là một con ngựa hiếm có! Horace của ta, chao ôi, không còn có được sự lanh lợi như thế nữa, nhưng không biết bao nhiêu lần nó đã tới giúp ta khi cần, giống như những gì con ngựa cái của cậu làm cho cậu mới đây vậy. Một con ngựa quý hiếm, cũng là một con ngựa cậu sẽ rất buồn nếu phải chia tay. Nhưng kể cả như thế thì, tốc độ là điều cốt yếu, nên cậu hãy lên đường và đừng có lo tới nhiệm vụ phải hoàn thành nữa. Ta và Horace sẽ lo liệu vụ con rồng cái, nên chẳng có lý do gì buộc cậu phải để tâm thêm tới chuyện này. Dù sao chăng nữa, sau khi đã có thêm thời gian suy nghĩ, ta thấy rằng chúa đất Brennus sẽ chẳng đời nào thành công nổi trong mưu đồ thu dụng Querig vào quân đội của ông ta đâu. Nó là con vật hoang dã nhất và khó thuần phục nhất trên đời, nó sẽ khạc lửa vào đồng bọn của nó nhanh chẳng kém gì khi phụt lửa vào kẻ thù của Brennus. Toàn bộ ý tưởng này thực là kỳ dị, cậu ạ. Đừng nghĩ tới việc này nữa mà hãy nhanh chóng quay trở về nhà trước khi kẻ thù của cậu dồn cậu vào bước đường cùng.” Thế rồi khi Wistan vẫn tiếp tục đào mà chẳng trả lời, ngài Gawain liền hỏi: “Cậu thấy thế nào, cậu Wistan?”

“Thấy cái gì thế nào cơ, ngài Gawain?”

“Rằng cậu sẽ không nghĩ ngợi gì tới con rồng cái nữa và sẽ nhanh chân trở về nhà.”

“Ngài có vẻ nóng lòng muốn tôi nói thế.”

“Ta không chỉ nghĩ tới sự an toàn của riêng cậu đâu, cậu ạ, mà còn nghĩ tới sự an toàn của những người Querig sẽ làm khổ nếu cậu đánh thức nó dậy. Còn những người đi cùng cậu đây thì sao?”

“Đúng vậy, sự an toàn của những người bạn của tôi đây là điều khiến tôi suy nghĩ. Tôi sẽ đi cùng họ tới tu viện, vì thật khó lòng có thể bỏ họ một mình trên những con đường hoang vắng này trong khi họ hoàn toàn không có khả năng tự vệ. Sau đó, có lẽ tốt hơn cả là chia tay ai đi đường nấy.”

“Vậy là sau khi tới tu viện, cậu sẽ trở về nhà.”

“Tôi sẽ lên đường khi nào cảm thấy sẵn sàng, thưa ngài hiệp sĩ.”

Mùi thoát ra từ ruột gan người chết buộc Axl phải lùi lại vài bước, và sau khi làm như vậy, ông nhận thấy vị trí mới này cho phép ông quan sát ngài Gawain dễ dàng hơn. Người hiệp sĩ lúc này đang nửa người đứng trong đất, mồ hôi đầm đìa trên trán, và rất có thể chính vì thế mà nét mặt của ông ta đã mất đi vẻ nhân từ vốn có. Ông ta đang nhìn Wistan với một thái độ đầy thù địch, trong khi Wistan vẫn chẳng hay biết gì, cứ tiếp tục đào bới.

Beatrice rất đau khổ trước cái chết của người lính. Khi ngôi mộ được đào ngày càng sâu thêm, bà chậm rãi quay lại ngồi dưới bóng râm của cây sồi, đầu gục xuống. Axl muốn ra ngồi bên vợ, nhưng không thể bỏ đi khi lũ quạ vẫn đang tiếp tục kéo đến. Hiện giờ, khi nằm trong bóng tối thế này, nỗi buồn thương cho người đàn ông đã chết cũng bắt đầu nhen nhóm trong lòng ông. Ông nhớ tới thái độ lịch thiệp của anh ta lúc đứng trên cây cầu nhỏ, nhớ tới cách nói chuyện nhẹ nhàng anh ta dành cho Beatrice. Axl cũng nhớ lại anh ta đã dừng chân ngựa ở một vị trí chính xác thế nào khi lần đầu tiên phi vào khu đất trống. Có cái gì đó trong cách làm của anh ta đã tác động mạnh vào trí nhớ của ông lúc ấy, và bây giờ, trong sự tĩnh lặng của màn đêm, Axl chợt nhớ đến cảnh một vùng đất hoang gập ghềnh đồi dốc, bầu trời ảm đạm và một đàn cừu đi qua những đám cây thạch nam.

Khi ấy ông đang cưỡi ngựa, trước mặt ông là người bạn đồng hành cũng đang ngồi trên lưng ngựa, tên anh ta là Harvey, mùi người anh ta nặng đến mức át cả mùi của lũ ngựa. Họ dừng chân giữa vùng đất hoang vu lộng gió sau khi phát hiện những động tĩnh từ phía xa, và khi đã thấy rõ không có dấu hiệu nguy hiểm gì, Axl đã duỗi tay vươn vai - họ đã cưỡi ngựa suốt một chặng đường dài - và đưa mắt nhìn đuôi con ngựa của Harvey phe phẩy sang hai bên như muốn đuổi không cho lũ ruồi đậu lên mông. Mặc dù vào thời điểm ấy, mặt người bạn đồng hành bị che khuất nhưng chỉ cần nhìn lưng Harvey, thật ra là cả dáng người anh ta, cũng đủ cho Axl thấy tâm địa xấu đã trỗi dậy trong lòng anh ta khi trông thấy đoàn người đang tiến về phía họ. Đưa mắt nhìn ra xa, Axl lúc ấy đã thấy lọt giữa những đốm đen là đầu lũ cừu có bốn người đàn ông - một người đang cưỡi lừa, những người kia đi bộ. Hình như không có con chó nào đi cùng họ. Axl đoán những người chăn cừu đã trông thấy họ từ lâu - hai kỵ sĩ đứng nổi bật giữa nền trời - nhưng cho dù họ có sợ hãi đến đâu thì những bước chân tuy lê lết chậm chạp kia cũng không hề nao núng tỏ ra sợ sệt gì. Dù thế nào đi chăng nữa, chỉ có độc một lối đi dài chạy xuyên qua vùng đất hoang, và Axl biết rằng cách duy nhất họ có thể tránh mặt hai người là quay đầu đi trở lui.

Đoàn người tiến lại gần hơn, giờ ông thấy rõ cả bốn người đàn ông mặc dù còn rất trẻ nhưng thật ốm yếu và gầy gò. Phát hiện này khiến trái tim ông thắt lại, vì ông biết thể trạng này của họ chỉ càng khiêu khích thêm sự độc ác trong lòng người bạn đồng hành của mình. Axl chờ tới khi đoàn người đến gần tới mức gần lọt vào tầm nghe, ông mới thúc ngựa tiến lên, cẩn thận dừng lại ngay cạnh Harvey ở vị trí ông biết rõ lát nữa những người chăn cừu kia cùng phần lớn đàn gia súc của họ sẽ đi qua. Ông đã thận trọng giữ cho con ngựa của mình đứng lùi ra sau con ngựa của Harvey một chút, điều này sẽ cho người bạn đồng hành ảo tưởng mình là người cấp cao hơn. Cho dù phải làm như thế, nhưng vị trí hiện giờ của Axl sẽ giúp che chắn những người chăn cừu khỏi sự tấn công bất ngờ Harvey có thể sẽ ra tay với chiếc roi da hoặc chiếc dùi cui móc bên yên ngựa. Trong khi đó, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài, hành động này của ông chỉ cho thấy một tình bạn hữu thân thiết, và cho dù thế nào đi chăng nữa, Harvey cũng không có bộ óc tinh tế đến độ nghi ngờ mục đích thực của nó. Quả thực, Axl vẫn nhớ anh ta đã lơ đãng gật đầu với mình lúc ông tiến gần lên, trước khi quay lại tiếp tục đăm chiêu nhìn ra vùng đất hoang.

Axl đã đặc biệt lo lắng cho những người chăn cừu đang bước lại gần, chính là vì một chuyện mới xảy ra vài ngày trước tại một ngôi làng của người Saxon. Hôm ấy là một buổi sáng đầy nắng và khi chuyện ấy xảy ra, Axl cũng giật nảy mình bất ngờ không kém gì so với dân làng. Hoàn toàn không báo trước, Harvey bỗng dùng gót chân thúc con ngựa tiến về phía trước và bắt đầu quất túi bụi xuống những người đang chờ đến lượt kéo nước giếng. Lúc ấy anh ta sử dụng chiếc roi da hay chiếc dùi cui? Lúc đứng ở vùng đất hoang, Axl đã cố gắng nhớ lại chi tiết này. Nếu Harvey chọn roi da để tấn công những người chăn cừu, anh ta sẽ vươn được xa hơn và sẽ không phải quật tay quá mạnh; rất có thể anh ta còn dám quăng roi qua đầu ngựa của Axl ấy chứ. Nhưng nếu chọn cây dùi cui, và với vị trí đứng của Axl lúc này, Harvey sẽ buộc phải dấn ngựa tiến hẳn lên phía trước ngựa của Axl và xoay người một chút mới có thể tấn công. Anh ta sẽ thấy quá cẩn thận nếu phải làm thế: Harvey là loại người muốn sự độc ác của mình nhìn có vẻ chỉ là một sự bốc đồng không tính toán.

Giờ thì Axl không nhớ nổi những hành động thận trọng của mình có cứu được những người chăn cừu hay không. Ông nhớ mang máng hình ảnh lũ cừu vô tội đi qua chỗ họ, nhưng những gì ông còn nhớ về chính bản thân những người chăn cừu thì đã lẫn lộn với những gì xảy ra trong cuộc tấn công vào dân làng bên bờ giếng trước đó. Điều gì đã khiến hai người bọn họ tới ngôi làng ấy vào buổi sáng hôm đó? Axl còn nhớ những tiếng la oán hận, trẻ con kêu khóc, những cái nhìn căm ghét, cơn giận dữ của chính mình, không hẳn là giận Harvey, mà giận những người đã làm khổ ông khi cử ông đi với một người bạn đồng hành như thế. Nhiệm vụ của họ, nếu được hoàn thành, nhất định sẽ là một thành tựu mới mẻ và độc đáo, một thành tựu tuyệt vời đến mức chính Chúa sẽ phải đồng ý cho rằng đó chính là thời khắc con người đã tiến được thêm một bước gần hơn với Người. Nhưng làm sao Axl mong làm nổi việc gì khi còn dính dáng với một kẻ hung bạo đến thế?

Axl lại nghĩ tới người lính tóc hoa râm, cùng cái cử chỉ nửa vời anh ta ra dấu khi đứng trên cầu. Khi chiến hữu chắc nịch của anh ta quát lác và giật tóc Wistan, người đàn ông tóc hoa râm này đã bắt đầu giơ tay lên, ngón tay như sắp chỉ về phía ấy, một lời khiển trách như chực thoát ra khỏi miệng. Rồi anh ta thõng tay xuống. Axl hoàn toàn hiểu những gì người lính tóc hoa râm trải qua trong những phút giây ấy. Người lính sau đó đã nói chuyện đặc biệt hòa nhã với Beatrice, và Axl rất biết ơn anh ta. Ông nhớ lại nét mặt của Beatrice khi bà đứng trước cầu, chuyển từ vẻ nghiêm trọng và cảnh giác sang tươi cười dịu dàng ông luôn yêu dấu. Hình ảnh này bây giờ đang siết chặt trái tim ông, nhưng cùng lúc đó cũng khiến ông thấy thực sợ hãi. Một người lạ mặt - thậm chí rất có thể cũng là một kẻ nguy hiểm - chỉ cần nói vài lời tử tế và thế là xong, Beatrice lại sẵn sàng đặt niềm tin vào cả thế giới. Ý nghĩ này khiến ông khổ sở, khiến ông phải đưa tay nhẹ xoa vào bờ vai lúc ấy đang nằm cạnh mình. Nhưng chẳng phải vợ ông lúc nào cũng thế hay sao? Chẳng phải đó chính là lý do vì sao bà thực đáng quý với ông? Và chẳng phải bà vẫn sống sót bao nhiêu năm qua mà không gặp phải tai họa gì ghê gớm đó còn gì?

“Không thể là cây hương thảo được, anh ạ,” ông nhớ lúc Beatrice nói như vậy với mình, giọng bà căng ra vì lo lắng. Lúc đó ông đang cúi xuống, một đầu gối quỳ trong đất, vì hôm đó là một ngày đẹp trời và mặt đất khô ráo. Beatrice chắc hẳn đang đứng sau lưng ông, vì ông còn nhớ bóng bà đổ trên mặt đất rừng trước mặt ông, trong khi ông đang dùng hai tay vạch lớp cây cỏ sát mặt đất. “Không thể là cây hương thảo được đâu anh ạ. Đã có ai thấy cây hương thảo lại có hoa vàng như thế bao giờ đâu?”

“Vậy thì chắc tôi nhớ nhầm tên rồi, cô ạ,” Axl đã nói vậy. “Nhưng tôi biết chắc chắn đấy là loại hoa vẫn thường thấy, không phải loài hoa mang lại xui xẻo.”

“Nhưng anh có phải là người biết hết các loại cây cối của mình không chứ? Mẹ em đã dạy cho em biết tất cả những loài cây dại mọc ở vùng này, nhưng cái cây trước mặt chúng ta đây thì em trông hoàn toàn lạ lẫm.”

“Vậy thì rất có thể đây là loài cây lạ gần đây mới xuất hiện ở khu vực này. Sao cô phải lo sợ chứ?”

“Em lo sợ vì rất có thể đây chính là loài cỏ dại em đã được dạy phải biết dè chừng.”

“Tại sao phải dè chừng một loài cỏ dại trừ phi đó là cỏ độc chứ, và nếu thế thì chỉ cần không sờ vào là xong. Thế nhưng cô vẫn cứ đứng đó, đưa tay ra, và giờ lại khiến tôi cũng làm tương tự!”

“Trời, không phải là cỏ độc anh ạ! Ít nhất thì không giống như những gì anh mới nói. Nhưng mẹ em đã có lần mô tả kỹ lưỡng một loài cây và bảo em bất cứ cô gái trẻ nào thấy nó mọc giữa bụi thạch nam sẽ gặp phải chuyện không hay.”

“Chuyện không hay kiểu gì cơ, thưa cô?”

“Em không đủ dũng cảm để nói cho anh biết.”

Nhưng vừa nói vậy, cô gái trẻ Beatrice hồi ấy vừa quỳ xuống cạnh Axl, khiến khuỷu tay họ khẽ chạm vào nhau, cô nở một nụ cười tin tưởng khi Axl đưa mắt nhìn cô.

“Nếu nhìn thấy nó sẽ mang lại chuyện chẳng lành,” Axl lúc ấy đã nói thế, “thì không biết điều tốt lành gì đã khiến tôi rời đường xuống đây chỉ để ngắm nó?”

“Ôi, nó không gây ra chuyện chẳng lành cho anh đâu, anh ạ! Chỉ cho những cô gái trẻ chưa có chồng thôi. Có một loài cây hoàn toàn khác sẽ mang chuyện chẳng lành tới cho nam thanh niên như anh đấy.”

“Vậy thì cô hãy nhanh nhanh cho tôi biết loài cây ấy trông ra sao, để tôi còn biết đường sợ chết khiếp giống như cô sợ cái cây này nữa chứ.”

“Anh cứ ngồi đó mà chọc ghẹo em đi. Nhưng một ngày kia, anh sẽ vấp ngã trên đường rồi thấy loài cây dại ấy mọc ngay bên mũi mình. Đến lúc ấy, anh sẽ biết chuyện này có buồn cười hay không.”

Ông vẫn còn nhớ cảm giác khi ông lướt tay qua đám cây thạch nam hồi ấy, gió vờn đám cành lá trên đầu, và sự hiện diện của cô gái trẻ bên mình. Có phải đó là lần đầu tiên họ trò chuyện với nhau? Chắc chắn họ đã từng nhìn thấy nhau trước đó; vì nhất định là Beatrice không thể quá tin người đến thế nếu ông chỉ là một người hoàn toàn xa lạ hôm đó.

Tiếng bổ củi đã ngưng được một lúc đến giờ lại vang lên, và Axl chợt nhận ra rất có thể người chiến binh sẽ ở ngoài trời cả đêm nay. Wistan tỏ ra bình tĩnh và thận trọng, ngay cả khi giao chiến, nhưng có lẽ những áp lực của ngày hôm nay và cả đêm hôm trước đã gặm nhấm thần kinh anh ta, và bổ củi là cách anh ta giải tỏa những áp lực này. Mặc dù vậy, cách hành xử của người chiến binh rõ là kỳ cục. Cha Jonus đã rõ ràng không cho phép ai chặt thêm củi nữa, vậy mà đúng lúc này, khi đêm đã xuống từ lâu, Wistan lại tiếp tục công việc ấy. Lúc nãy, khi họ vừa mới đặt chân tới tu viện, những gì anh ta làm xem ra chỉ đơn giản là để tỏ rõ phép lịch thiệp. Nhưng ngay từ lúc ấy, Axl đã phát hiện ra một điều, rằng Wistan có những lý do riêng của mình nên mới bổ củi như thế.

“Kho chứa củi nằm ở một vị trí thuận tiện,” người chiến binh đã giải thích như vậy. “Cháu và thằng bé vừa làm vừa có thể dễ dàng theo dõi người ra vào tu viện. Còn tuyệt hơn thế, khi chuyển củi tới nơi cần, chúng cháu được phép đi lại tự do nên có thể xem xét kỹ càng mọi thứ quanh đây, mặc dù cũng có vài cánh cửa chúng cháu bị cấm không được đi vào.”

Hai người khi đó đang đứng trên bờ tường cao của tu viện nhìn ra khu rừng bên ngoài. Khi ấy, các thầy tu đã vào bên trong tòa nhà mà tham dự cuộc họp được một lúc lâu, một sự im lặng đã kịp bao trùm lấy toàn bộ các khoảng sân. Chỉ mới một lúc trước đó, khi Beatrice đang lơ mơ ngủ trong phòng, Axl ra ngoài đi lang thang dưới ánh mặt trời buổi chiều, sau đó đã theo các bậc thềm đá mòn vẹt lên tới chỗ Wistan lúc ấy đang đứng nhìn xuống những tán lá rừng dày đặc bên dưới.

“Nhưng cậu chuốc lấy phiền toái như thế để làm gì, hở cậu Wistan?” Axl đã hỏi như vậy. “Có phải vì cậu nghi ngờ các thầy tu tốt bụng ở đây không?”

Một tay đưa lên che mắt, người chiến binh trả lời: “Khi chúng ta theo con đường dốc leo lên đây lúc nãy, cháu chẳng muốn gì hơn là được cuộn mình trong một góc phòng mà phiêu lưu trong những giấc mơ. Nhưng giờ đã tới đây rồi, cháu lại không thể xua đi cái cảm giác nơi này chứa đựng rất nhiều điều nguy hiểm cho chúng ta bác ạ.”

“Hẳn là sự mệt mỏi đã khiến cậu trở nên nghi hoặc như thế, cậu Wistan ạ. Liệu có thể xảy ra chuyện gì ở đây được chứ?”

“Cháu vẫn chưa thể nói được gì một cách chắc chắn. Nhưng bác nghĩ tới chuyện này xem nhé. Lúc nãy, khi cháu quay trở lại chỗ chuồng ngựa để xem con ngựa cái của cháu có ổn hay không, cháu bỗng nghe thấy có tiếng động phát ra từ chuồng ngựa phía sau. Bác biết đấy, chuồng ngựa phía sau được ngăn cách bởi một bức tường, nhưng cháu vẫn nghe rõ tiếng một con ngựa khác trong đó, mặc dù khi chúng ta vừa mới tới nơi, chẳng hề có con ngựa nào trong đó lúc cháu dẫn con ngựa của cháu vào. Lúc đó cháu đã đi sang phía bên kia và thấy cánh cửa của chuồng ngựa ấy khóa kín, phải có chìa khóa mới mở được ra.”

“Có rất nhiều cách giải thích hợp lý cho việc đó cậu Wistan ạ. Con ngựa ấy có thể đã ra ăn cỏ ngoài đồng và mới được đưa trở lại chuồng thì sao.”

“Cháu đã nói chuyện với một thầy tu và hỏi đúng câu ấy, nhưng được biết họ không hề nuôi ngựa ở đây vì không muốn làm giảm bớt một cách không chính đáng những công việc các thầy tu phải làm. Cháu thấy hình như sau khi chúng ta tới đây, còn có một người khách khác cũng mới tới, người này nóng lòng muốn che giấu sự có mặt của mình ở đây.”

“Giờ khi cậu nhắc đến việc này, tôi mới nhớ ra cha Brian cũng nói có một vị khách quan trọng đến tìm cha trưởng tu viện, và cuộc họp của họ vì thế đã phải trì hoãn. Chúng ta không biết việc gì đang diễn ra ở đây, nhưng rất có thể, việc đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến chúng ta hết.”

Wistan thận trọng gật đầu. “Có lẽ bác nói đúng, bác Axl ạ. Ngủ một chút sẽ giúp mối nghi hoặc trong cháu nhẹ bớt đi phần nào. Nhưng ngay cả như vậy, cháu vẫn cử thằng bé đi tìm hiểu thêm về nơi này, vì cháu tin là người ta sẽ nghĩ tới sự hiếu kỳ bản năng của một thằng bé con mà dễ dàng bỏ qua cho nó hơn là cho một người đã trưởng thành. Mới vừa nãy, nó quay lại báo cáo có nghe thấy tiếng rên rỉ phát ra từ một trong những căn phòng ở phía đằng kia” - Wistan quay người lại chỉ tay - “giống tiếng một người đang chịu đau đớn. Lẻn vào bên trong theo tiếng rên này, thằng bé Edwin thấy những vệt máu đã khô cũng như còn ướt ngay trước cửa một căn phòng đóng kín.”

“Thế thì cũng kỳ lạ thật. Nhưng cũng không có gì là kỳ bí cả, nếu một thầy tu gặp phải chút tai nạn không may, sẩy chân vấp trên mấy bậc thang này cũng nên.”

“Bác ạ, cháu phải thừa nhận là mình chẳng có lý do gì rõ ràng để nghi ngờ có chuyện gì đó đang diễn ra ở đây. Có lẽ bản năng của một chiến binh khiến cháu ước gì thanh kiếm của mình đang được giắt chỗ thắt lưng này và muốn thôi không phải giả vờ mình là một tá điền nữa. Mà cũng có thể nỗi sợ hãi của cháu đơn giản chỉ xuất phát từ những gì những bức tường quanh đây thì thào cho cháu biết những chuyện từng diễn ra trong quá khứ.”

“Ý cậu là gì thế cậu Wistan?”

“Chỉ mới cách đây không lâu, nơi này nhất định không phải một tu viện mà là một thành lũy trên đồi, được xây dựng công phu nhằm mục đích đánh đuổi kẻ thù. Bác còn nhớ con đường khiến ta mệt lử khi trèo lên đây không? Còn nhớ đường đi ngoằn ngoèo như nóng lòng muốn làm ta kiệt sức thế nào không? Bác thử nhìn xuống dưới kia đi, bác có thấy những bức tường có lỗ châu mai trước đây đã từng dội tên, đá và nước sôi lên đầu các vị khách kia không. Tới được cổng thành không thôi cũng đã là một kỳ công.”

“Tôi thấy rồi. Đường dốc lên đây quả là chẳng dễ dàng chút nào.”

“Còn hơn thế nữa, bác Axl ạ, cháu xin cược rằng pháo đài này trước đây đã thuộc về tay người Saxon, vì cháu trông thấy cơ man các dấu hiệu những người bà con của mình để lại nhưng rất có thể bác không thể nhận ra. Bác nhìn ra chỗ kia mà xem” - Wistan chỉ tay xuống dưới sân đá cuội được bao quanh bởi bốn bức tường phía dưới - “Cháu hình dung ngay chỗ ấy đã từng có lớp cổng thành thứ hai, kiên cố hơn lớp cổng thứ nhất, nhưng những kẻ xâm lấn đang leo dốc lên đây lại không thể nhìn thấy. Họ chỉ thấy cánh cổng đầu tiên và ráng hết sức mình để đột nhập vào trong, nhưng một cánh cổng như thế được người Saxon chúng cháu gọi là cửa giữ nước, loại cửa được dựng phía sau các rào ngăn để kiểm soát dòng chảy trên sông. Một số nhất định kẻ thù, theo tính toán, được cho lọt qua cánh cổng này. Rồi sau đó, cửa giữ nước sẽ đóng lại trước mặt những kẻ theo sau. Giờ thì những tên bị tách riêng giữa hai lớp cổng, trong khoảng không gian ngay dưới kia, chợt nhận ra quân chúng ít hơn, và lại một lần nữa bị tấn công từ trên xuống. Chúng sẽ bị tiêu diệt trước khi nhóm tiếp theo được phép lọt qua. Bác thấy cách thức hoạt động thế nào chưa bác. Tuy ngày nay đây là một địa điểm thanh bình và là nơi các thầy tu nguyện cầu, nhưng chẳng mất nhiều công sức cũng có thể thấy ngay máu chảy và những nỗi kinh hoàng.”

“Cậu có con mắt tinh đời lắm, cậu Wistan ạ, và tôi rùng mình sợ hãi vì những điều cậu vừa chỉ tôi xem.”

“Cháu dám cá rằng đã từng có nhiều gia đình người Saxon từ khắp nơi chạy trốn tới đây mong tìm nơi ẩn nấp an toàn tại pháo đài này. Phụ nữ, trẻ em, người bị thương, người già, người ốm yếu. Nhìn ra đằng kia, khoảng sân các thầy tu tập trung cả ở đó lúc nãy thì thấy. Tất cả mọi người, chỉ trừ những người ốm yếu nhất, đổ hết ra đó chỉ để được chứng kiến rõ ràng hơn, cảnh những kẻ xâm lấn kêu ré lên trong khiếp sợ như lũ chuột bị sập bẫy giữa hai lần cửa.”

“Điều đó thì tôi không thể tin được cậu ạ. Nhất định họ sẽ chỉ trốn kín dưới kia mà cầu nguyện mong được giải thoát.”

“Chỉ những kẻ đớn hèn nhất mới làm vậy. Đa số họ sẽ đứng ngay trong sân, thậm chí còn leo lên đây nơi chúng ta đang đứng, sung sướng chấp nhận rủi ro trúng một mũi tên hay một ngọn giáo để được tận mắt thấy những đau đớn thể xác bên dưới.”

Axl lắc đầu. “Nhất định những người cậu đang nói tới không thể lấy sự đổ máu làm niềm vui cho được, kể cả khi đó là sự đổ máu của kẻ thù.”

“Ngược lại thì có bác ạ. Cháu đang nói đến những người đã kinh qua tận cùng của sự bạo tàn, đã chứng kiến cảnh con cái và người thân của mình bị cắt xẻo và cưỡng hiếp. Họ đến được đây, nơi trú ẩn của mình, sau khi đã trải qua bao nhiêu đau khổ, cái chết đuổi theo từng bước chân. Thế rồi, cả một đoàn quân kẻ thù với số lượng áp đảo đã tới. Pháo đài này có thể cầm cự được vài ngày, có thể lên tới một hoặc hai tuần. Nhưng họ biết rõ cuối cùng họ sẽ phải đối mặt với cái chết của chính mình. Họ biết những đứa bé sơ sinh họ đang bế trong tay chẳng bao lâu nữa sẽ biến thành những món đồ chơi nhuốm máu bị đá lăn lóc trên lớp đá cuội này. Họ biết vì họ đã từng chứng kiến điều đó, từ nơi họ bỏ trốn. Họ đã thấy kẻ thù từng đốt chém rồi thay nhau cưỡng hiếp các bé gái khi chúng nằm đó hấp hối vì vết thương trên người. Họ biết đó là điều sẽ tới, nên họ phải tận hưởng những ngày trước khi bị vây hãm, khi kẻ thù phải trả giá trước cho những gì chúng sẽ gây ra cho họ sau này. Nói cách khác thì, bác Axl ạ, họ là những người không có khả năng trả thù khi bị tấn công nên rất sung sướng khi được hưởng thụ sự trả thù trước đó. Chính vì thế nên cháu mới nói rằng những người bà con Saxon của cháu hẳn đã từng đứng đây reo hò và vỗ tay, và cái chết của kẻ thù càng thảm khốc bao nhiêu, thì họ lại càng sung sướng bấy nhiêu bác ạ.”

“Tôi vẫn sẽ không tin chuyện đó cậu ạ. Làm sao có thể căm thù ai đó tột cùng vì tội ác họ chưa gây ra như thế được? Những người tốt từng tìm đến đây trú ẩn hẳn đã nuôi hy vọng đến cùng, và nhất định đã thấy thương xót xen lẫn kinh hoàng khi phải chứng kiến sự đau đớn của cả người thân lẫn kẻ thù của mình.”

“Bác tuy nhiều tuổi hơn cháu nhưng trong những chuyện đổ máu thế này, rất có thể cháu mới là người nhiều kinh nghiệm, còn bác lại thành ra người non hơn đấy bác Axl ạ. Cháu đã từng thấy nỗi căm hờn không đáy như biển sâu trên gương mặt những phụ nữ lớn tuổi và bọn trẻ nhỏ, có những ngày chính bản thân cháu cũng trải qua nỗi căm giận y hệt như thế.”

“Tôi sẽ không bao giờ như vậy cậu ạ, còn thế này nữa, chúng ta đang nói đến một quá khứ man rợ tôi hy vọng đã qua đi từ lâu. Nhờ Chúa, những điều chúng ta vừa tranh luận sẽ không bao giờ phải mang ra thử nghiệm thêm một lần nữa.”

Người chiến binh nhìn Axl bằng cặp mắt lạ lùng. Có vẻ như anh ta định nói gì đó, nhưng rồi lại đổi ý. Sau đó, anh ta quay ra nhìn khắp lượt các tòa nhà phía sau lưng rồi nói: “Lúc nãy khi đi lang thang trên khắp các khoảng sân trong tu viện kia, hai tay bê những đống củi nặng trịch, cứ mỗi ngã rẽ cháu lại phát hiện ra những dấu tích đầy mê hoặc của cái quá khứ đã qua ấy. Sự thật là, bác Axl ạ, kể cả khi cánh cổng thứ hai bị phá thủng, pháo đài này vẫn còn rất nhiều những cái bẫy khác dành cho kẻ thù, nhiều trong số đó thực vô cùng xảo quyệt. Các thầy tu ở đây chẳng hay biết hằng ngày họ vẫn đi qua những gì. Nhưng thế là đủ rồi. Nhân tiện bác cháu ta đang cùng chia sẻ những phút giây tĩnh lặng này, cháu muốn xin bác hãy tha thứ cho cháu, bác Axl ạ, vì những gì khó chịu cháu đã gây ra lúc nãy. Ý cháu muốn nói tới những gì cháu hỏi han người hiệp sĩ tốt bụng về bác ấy.”

“Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa cậu ạ. Không có gì mếch lòng tôi hết, mặc dù cậu đã khiến tôi và cả vợ tôi nữa rất ngạc nhiên. Cậu đã nhầm tôi với ai đó, một sự nhầm lẫn bình thường thôi mà.”

“Cảm ơn bác đã thông cảm cho cháu. Cháu đã nhầm bác với một người mà cháu sẽ không bao giờ quên, cho dù lần cuối cùng nhìn thấy gương mặt người ấy, cháu vẫn chỉ là một cậu bé con.”

“Vậy là hồi cậu còn ở vùng phía Tây rồi.”

“Đúng vậy bác ạ, hồi ấy cháu còn chưa bị bắt đưa đi xa. Người đàn ông cháu nói tới hoàn toàn không phải là một chiến binh, nhưng ông ấy có đeo kiếm và cưỡi một con ngựa cao lớn. Ông ấy vẫn thường xuyên đến làng cháu, và với lũ con trai chỉ biết tới nông dân và những người chèo thuyền như bọn cháu, ông ấy đúng là phi thường.”

“Phải rồi. Tôi hình dung được điều này.”

“Cháu vẫn nhớ chúng cháu đi theo ông ấy khắp làng, mặc dù lúc nào cũng e dè cách xa một quãng. Có những ngày ông ấy rất vội vàng, nói chuyện với những người già hoặc gọi mọi người tới tập hợp ngoài trời. Nếu không thì, ông ấy sẽ đi vơ vẩn nhàn nhã trong làng, nói chuyện với hết thảy mọi người như để giết thời giờ. Ông ấy chỉ biết chút ít ngôn ngữ của chúng cháu, nhưng vì làng cháu nằm gần sông, thuyền bè suốt ngay qua lại, nên rất nhiều người biết tiếng của ông ấy, và vì thế ông ấy chẳng bao giờ thiếu người trò chuyện cùng. Thỉnh thoảng, ông ấy quay ra nhìn bọn cháu rồi nở một nụ cười, nhưng còn bé quá nên bọn cháu chỉ biết chạy tán loạn rồi trốn biệt.”

“Có phải chính là ngôi làng nơi cậu học nói ngôn ngữ của chúng tôi không?”

“Không, về sau này cháu mới học. Lúc cháu bị bắt đi mất.”

“Bị bắt đi ư, cậu Wistan?”

“Cháu bị đám lính bắt đi khỏi làng từ hồi còn nhỏ, họ huấn luyện cho cháu kể từ đó và cháu trở thành một chiến binh như bây giờ. Họ là người Briton, nên cháu học nói và học cách chiến đấu của họ. Chuyện đã lâu rồi và mọi thứ định hình theo những cách kỳ lạ trong đầu. Khi lần đầu tiên cháu gặp bác vào buổi sáng nay ở ngôi làng ấy, có lẽ là ảo ảnh của ánh sáng buổi sớm đã khiến cháu tưởng như mình lại trở về là thằng bé con ngày trước, kín đáo nhìn trộm người đàn ông vĩ đại trong chiếc áo choàng tung bay, đi lại trong làng như một con sư tử giữa bầy lợn với trâu bò. Cháu nghĩ một phần vì nụ cười của bác, hoặc có thể vì cách bác nghiêng đầu chào đón một người lạ cũng nên. Nhưng giờ cháu đã nhận ra là cháu nhầm, vì bác không thể là người đó được. Không nói tới chuyện này nữa. Bác gái thế nào rồi hả bác? Cháu hy vọng bác ấy không bị kiệt sức?”

“Bà ấy đã khỏe lại rồi, cảm ơn cậu có lời hỏi thăm. Tuy thế, tôi vẫn bảo bà ấy cứ nằm nghỉ thêm cho khỏe hẳn. Dù sao thì, chúng tôi buộc phải chờ cho đến khi các thầy tu họp xong và cha trưởng tu viện cho phép vào gặp vị thầy thuốc thông thái Jonus.”

“Một người phụ nữ cương quyết, bác nhỉ. Cháu khâm phục vì bác ấy đã tới được tận đây mà không hé răng phàn nàn lấy một lời. Chà, thằng bé đã quay lại rồi kìa.”

“Cậu thấy thằng bé phải chịu đựng vết thương thế nào chứ, cậu Wistan. Chúng ta cũng phải đưa nó tới gặp cha Jonus.”

Wistan dường như không nghe thấy câu này. Rời khỏi chỗ bức tường, anh ta trèo xuống mấy bậc thang nhỏ để đón Edwin, hai người đứng ghé sát đầu vào nhau thì thầm hội ý. Điệu bộ của thằng bé thật sôi nổi, trong khi người chiến binh thì nhíu mày lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu. Khi Axl xuống tới nơi đứng cùng với họ, Wistan liền nói khẽ:

“Cậu Edwin nói đã phát hiện ra một điều lạ lùng mà tốt hơn cả là chúng ta hãy tự mắt xem xét. Hãy đi theo thằng bé, nhưng làm ra vẻ chẳng có mục đích gì rõ ràng, đề phòng trường hợp ông thầy tu già đứng đằng kia là để theo dõi chúng ta.”

Đúng là chỉ có một thầy tu đang đứng quét sân và khi họ tiến lại gần, Axl nhận thấy ông ta đang lẩm bẩm như chìm trong thế giới của riêng mình. Ông ta chẳng hề đưa mắt nhìn khi Edwin dẫn họ đi qua sân tới một khoảng trống giữa hai tòa nhà. Họ bước ra một bãi đất dốc gập ghềnh có một lớp cỏ mỏng, nơi một hàng cây khô héo, chẳng cao hơn một người bình thường là bao, đánh dấu một lối mòn dẫn người ta rời xa khỏi tu viện. Wistan thì thào nói khi họ đi theo Edwin trong ánh sáng chiều tà:

“Cháu ngạc nhiên vì thằng bé này quá bác Axl ạ, có lẽ chúng ta sẽ xem xét lại kế hoạch bỏ nó lại ngôi làng nơi con trai bác đang sống. Cho nó đi theo một thời gian nữa sẽ rất có lợi cho cháu.”

“Tôi lấy làm phiền lòng khi nghe cậu nói vậy, cậu Wistan ạ.”

“Vì sao chứ? Nó đâu có ao ước được sống cuộc đời suốt ngày chỉ cho lợn ăn và đào xới đất trồng lạnh giá.”

“Nhưng đi với cậu thì nó sẽ ra sao?”

“Khi nào hoàn thành xong nhiệm vụ, cháu sẽ đưa nó trở lại vùng đầm lầy.”

“Và ở đó thì cậu sẽ cho nó làm gì, hở cậu? Suốt ngày đánh nhau với quân ngoại bang chăng?”

“Bác không tán thành việc này, nhưng thằng bé có một khí chất khác người. Nó sẽ trở thành một chiến binh cừ. Nhưng im lặng nào, để xem nó thấy cái gì.”

Họ dừng chân trước ba chiếc lán gỗ ọp ẹp đứng ngay bên vệ đường, chúng hư nát tới mức dường như phải dựa vào nhau mới khỏi đổ. Mặt đất ẩm ướt đầy vệt lún của bánh xe, Edwin dừng lại chỉ cho họ thấy điều này. Sau đó, cậu dẫn hai người vào bên trong căn lán cuối cùng.

Căn lán không có cửa và phần lớn mái đã thủng đến nỗi nhìn thấu cả lên trời. Khi họ bước vào, vài con chim bay vù đi trong giận dữ vì bị phá quấy. Trong không gian bỏ hoang ảm đạm, Axl trông thấy một chiếc xe kéo được chế tạo sơ sài - có lẽ là tác phẩm của chính các thầy tu - hai bánh xe lún sâu trong bùn đất. Thứ lôi cuốn sự chú ý chính là chiếc cũi lớn đặt trên xe và khi tiến lại gần hơn, Axl để ý thấy mặc dù chiếc cũi làm bằng sắt nhưng được một cột gỗ dày giữa cũi gắn chặt xuống các tấm ván bên dưới. Trên cột gỗ có các sợi xích và cùm, còn ở vị trí cao ngang đầu hình như là một cái mặt nạ sắt đen sì, tuy nhiên không thấy có hai lỗ mắt mà chỉ có một chỗ khoét cho miệng. Chiếc xe và cả khu vực xung quanh nó bị phủ kín lông và phân chim. Edwin kéo cửa cũi rồi cứ thế đóng vào mở ra khiến cho chiếc bản lề kêu lên ken két. Cậu bé lại một lần nữa nói chuyện đầy vẻ kích động và để đáp trả, Wistan ném những cái nhìn dò xét ra quanh căn lán, thỉnh thoảng lại gật đầu.

“Kỳ lạ thật,” Axl nói, “sao các nhà tu hành lại cần một vật như thế này nhỉ. Nhất định là để sử dụng trong các nghi lễ mộ đạo.”

Người chiến binh bắt đầu đi vòng quanh chiếc xe, bước cẩn thận để tránh các vũng nước đọng. “Cháu đã nhìn thấy một vật tương tự thế này,” cậu nói. “Có thể bác cho rằng công cụ này nhằm mục đích khiến người ngồi trong đó bị phơi ra giữa mưa sa bão táp. Nhưng thử nhìn mà xem, bác có thấy những thanh chấn song này cách nhau đủ xa đến độ vai cháu lách qua được không. Và đây nữa, nhìn này, đám lông chim dính vào sắt trong đống máu khô. Do vậy, người bị cột chặt ở đây chính là vật hiến tế cho lũ chim núi. Bị khóa chặt bởi những chiếc cùm này, anh ta không thể xua những cái mỏ háu đói đi được. Chiếc mặt nạ sắt này, trông có vẻ đáng sợ đấy, nhưng trên thực tế lại là một vật nhân từ, vì ít nhất nhờ có nó mà yến tiệc không nhằm vào hai mắt.”

“Nhưng vẫn có thể có một mục đích nào đó nhẹ nhàng hơn chăng,” Axl nói, đúng lúc ấy Edwin lại bắt đầu lên tiếng khiến Wistan quay người nhìn ra ngoài lán.

“Thằng bé nói nó đã theo vết xe ngoài kia ra tới một chỗ gần mỏm đá,” cuối cùng người chiến binh cũng nói. “Nó nói mặt đất ở đó có rất nhiều vệt bánh xe lún sâu, cho thấy đó là vị trí người ta thường đỗ chiếc xe này. Nói cách khác thì, tất cả những dấu hiệu này đều xác nhận giả thiết của cháu, cháu còn thấy chiếc xe này vừa mới được kéo ra ngoài cách đây không lâu nữa.”

“Tôi không biết điều đó có nghĩa gì, cậu Wistan ạ, nhưng tôi thừa nhận bản thân mình bắt đầu cảm thấy bất ổn giống cậu rồi đấy. Vật này khiến tôi lạnh hết sống lưng, khiến tôi muốn quay về bên vợ.”

“Chúng cháu cũng nên quay về là hơn cả bác ạ. Hãy nhanh nhanh rời khỏi chốn này.”

Nhưng đúng lúc họ bước chân ra khỏi căn lán, Edwin, một lần nữa lại làm người dẫn đường, bỗng đột ngột dừng lại. Nhìn ra xa trong bầu trời chiều ảm đạm, Axl trông thấy một dáng người mặc áo choàng đứng trong đám cỏ mọc cao chỉ cách họ có một đoạn ngắn.

“Cháu biết đó chính là tu sĩ đứng quét sân lúc nãy,” người chiến binh nói với Axl.

“Ông ta có thấy chúng ta không?”

“Cháu nghĩ là có, ông ta cũng biết chúng ta đã thấy ông ta nữa. Nhưng ông ta vẫn đứng yên như một ngọn cây. Vậy thì thế này, hãy ra chỗ ông ta xem sao.”

Vị thầy tu kia đang đứng bên rìa lối đi, nơi cỏ mọc cao tới đầu gối. Khi họ tiến lại gần, ông ta vẫn đứng im phăng phắc, mặc dù áo choàng và mái tóc dài bạc trắng của ông ta bay phất phơ trong gió. Ông ta gầy đến độ gần như hốc hác, hai mắt lồi ra nhìn họ vô hồn.

“Ông theo dõi chúng tôi, thưa ông,” Wistan dừng bước và nói, “và ông biết chúng tôi vừa phát hiện ra cái gì. Vậy tốt hơn cả là ông hãy cho chúng tôi biết đám thầy tu các ông dùng cái công cụ đó vào mục đích gì.”

Không nói gì, vị thầy tu đưa tay chỉ về phía tu viện.

“Có lẽ ông ta đã thề im lặng,” Axl nói. “Nếu không thì cũng bị câm, giống như cậu giả vờ lúc nãy ấy, cậu Wistan.

Vị thầy tu bước ra khỏi đám cỏ rồi đứng trên lối đi. Ông ta đưa cặp mắt kỳ quặc nhìn từng người một, rồi lại chỉ tay về phía tu viện và bỏ đi. Họ đi theo ông ta, chỉ cách một quãng ngắn, ông ta cứ vừa đi vừa ngoái đầu lại nhìn mọi người.

Các tòa nhà của tu viện lúc này đã biến thành những khối đen in trên nền trời chạng vạng tối. Khi họ lại gần hơn, vị thầy tu bỗng dừng lại, đưa ngón tay trỏ lên miệng, rồi tiếp tục bước thận trọng hơn. Ông ta có vẻ không muốn bị ai trông thấy, cũng như không muốn đi qua khoảng sân trung tâm. Ông ta dẫn họ theo những lối đi hẹp phía sau các tòa nhà, nơi mặt đất lổn nhổn đầy các hõm đất và dốc ngược xuống dưới. Đến một chỗ, khi đang cúi thấp đầu bước dọc theo một bức tường, họ nghe thấy tiếng các thầy tu vọng xuống từ các cửa sổ ngay phía trên đầu. Một người đang nói to cố át đi những âm thanh ồn ào, rồi một người khác - có lẽ là cha trưởng tu viện - kêu gọi mọi người trật tự. Nhưng họ không có thời gian để dừng lại lắng nghe, và chẳng bao lâu sau, cả nhóm dừng bước trước một mái vòm nhìn ra khoảng sân chính. Vị thầy tu lúc này vội vã lấy tay ra hiệu cho họ phải đi sao cho thật nhanh và thật khẽ.

Vậy là họ không buộc phải đi qua khoảng sân nơi các ngọn đuốc đang cháy sáng, mà chỉ việc đi men dưới bóng của một hàng cây. Khi vị thầy tu lại dừng bước, Axl thì thào hỏi ông ta:

“Thưa ngài, vì ý ngài có vẻ như muốn đưa chúng tôi đi đâu đó, tôi muốn hỏi liệu tôi có thể đi đón vợ mình được không, vì tôi thấy bất an nếu phải bỏ bà ấy lại một mình.”

Vị thầy tu lập tức quay sang tặng cho Axl một cái nhìn nghiêm khắc, lắc đầu rồi chỉ tay vào khoảng trống nửa tối nửa sáng. Chỉ đến lúc ấy, Axl mới thấy Beatrice đang đứng ở ngưỡng cửa ngay phía hàng hiên trước mặt. Nhẹ cả người, ông đưa tay vẫy và khi cả đoàn tiến về phía Beatrice, họ nghe thấy một tràng những giọng nói giận dữ nổ ra trong cuộc họp của các thầy tu.

“Em thế nào rồi, công chúa của anh?” Axl hỏi, đưa tay ra nắm lấy bàn tay vợ đang chìa ra về phía ông.

“Em đang nằm nghỉ yên lành, Axl ạ, thì vị thầy tu không nói không rằng này bỗng xuất hiện trước mặt em, khiến em cứ tưởng là một bóng ma cơ đấy. Nhưng ông ấy tha thiết muốn dẫn chúng ta tới một chỗ nào đó, và chúng ta nên đi theo ông ấy là hơn cả.”

Vị thầy tu lại ra dấu cho mọi người im lặng, rồi ông ta gật đầu, đi qua ngưỡng cửa chỗ Beatrice nãy giờ vẫn đứng chờ.

Các dãy hành lang đến lúc này đã giống như đường hầm, chẳng khác nào khu hang ngầm ở làng họ, những ngọn đèn lập lòe sáng đặt trong các hốc tường không đủ xua tan bóng tối. Beatrice nắm lấy cánh tay Axl, và Axl đưa một tay ra rờ rẫm trong không gian trước mặt mình. Rồi họ lại bước ra ngoài trời, đi qua một khoảng sân đầy bùn nằm giữa các mảnh đất trồng trọt mới được cày xới, sau đó lại chui vào một tòa nhà đá thấp tè khác nữa. Hành lang ở đây rộng rãi hơn, đèn thắp sáng hơn và có vẻ như vị thầy tu cuối cùng cũng đã cảm thấy thoải mái hơn trước. Lấy lại hơi thở, ông ta đưa mắt nhìn bọn họ thêm một lần nữa, rồi ra hiệu cho họ đứng chờ và biến mất dưới một vòm cửa. Một lúc sau đó, ông ta quay trở ra rồi dẫn họ tiến vào trong. Cùng lúc ấy, một giọng nói yếu ớt từ trong phòng phát ra: “Vào cả đây, các vị khách của tôi. Một căn phòng tồi tàn, nhưng rất vui vì các vị đã tới.”

*

Nằm chờ giấc ngủ đến với mình, Axl lại một lần nữa nhớ lại cảnh bốn người bọn họ, cùng với vị thầy tu không nói, chen chân đứng trong căn phòng bé tí. Một ngọn nến được thắp sáng bên giường, Axl thấy Beatrice chùn lại khi phát hiện ra dáng người nằm trên đó. Sau đó, bà hít một hơi dài rồi tiến bước vào bên trong. Chẳng có đủ chỗ cho tất cả mọi người, nhưng họ nhanh chóng đứng quanh giường, người chiến binh và thằng bé đứng ở góc xa nhất trong phòng. Lưng Axl tựa vào bức tường đá lạnh lẽo, còn Beatrice đứng ngay trước mặt ông và tựa người vào ông như để cho vững dạ, và vì thế bà gần như đứng sát bên giường. Phảng phất trong không khí là mùi nôn mửa và mùi nước tiểu. Trong khi đó, vị thầy tu im lặng bận bịu quanh người đàn ông nằm trên giường để giúp ông ta ngồi dậy.

Chủ nhà là một người cao tuổi tóc đã bạc trắng. Ông ta có khổ người to lớn và chỉ mới gần đây thôi hẳn vẫn còn khỏe mạnh cường tráng, nhưng hiện giờ, chỉ một việc đơn giản là ngồi dậy trên giường có vẻ như cũng đủ gây ra biết bao đau đớn trong người. Một tấm chăn thô ráp tuột xuống khi ông ta ngồi dậy, làm lộ ra một chiếc áo ngủ loang lổ vết máu. Nhưng điều khiến Beatrice phải co rúm người lại chính là cổ và mặt ông ta khi ấy đang được chiếu sáng rõ dưới ánh nến bên giường. Một ụ thịt tím bầm sưng to dưới một bên cằm đang dần chuyển sang màu vàng, buộc cái cằm phải nghiêng lệch đi một chút. Đầu ụ thịt nứt ra, mủ và máu khô đóng thành mảng. Trên khuôn mặt kia, một vết rách chạy từ ngay dưới xương gò má xuống chỗ xương hàm, làm lộ ra một phần phía bên trong miệng và lọi. Sau khi đã yên vị ở vị trí mới, ông ta nở ra một nụ cười, mặc dù chắc hẳn đã phải trả một giá đắt mới làm nổi việc đó.

“Xin mời vào, xin mời vào. Tôi là Jonus, là người các vị đã vượt một chặng đường xa mong được gặp mặt. Các bạn thân mến của tôi, đừng nhìn tôi với vẻ thương hại như thế. Những vết thương này không còn gì mới mẻ nữa, chẳng còn khiến tôi đau đớn bằng một phần trước đây nữa.”

“Giờ thì chúng tôi đã hiểu, thưa cha Jonus,” Beatrice nói, “lý do vì sao cha tu viện trưởng không muốn người lạ quấy rầy cha. Chúng tôi đã chờ ông ấy cho phép, nhưng vị thầy tu tốt bụng này đã dẫn chúng tôi tới gặp cha.”

“Ninian đây là người bạn đáng tin cậy nhất của tôi, và kể cả khi ông ấy đã thề không nói, chúng tôi vẫn hoàn toàn hiểu rõ nhau. Ông ấy đã theo dõi từng người trong số các vị kể từ khi các vị mới tới nơi và thường xuyên báo lại với tôi. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nên gặp mặt, kể cả khi cha tu viện trưởng không hay biết gì tới việc này.”

“Nhưng điều gì đã khiến cha bị thương đến thế, thưa cha?” Beatrice hỏi. “Trong khi cha là người nổi tiếng vì lòng tốt và sự thông thái.”

“Ta đừng bàn tới vấn đề này, thưa bà, vì sức khỏe yếu ớt của tôi không cho phép chúng ta được nói chuyện lâu. Tôi biết có hai người trong số các vị muốn xin ý kiến của tôi, đó là bà và thằng bé quả cảm này. Hãy để tôi khám cho thằng bé trước, tôi biết nó đang mang một vết thương trên người. Lại gần chỗ ánh sáng đây nào, cậu bé thân mến của ta.”

Giọng nói của vị thầy tu, tuy nhẹ nhàng nhưng chứa đựng một uy quyền tự nhiên khiến Edwin cất bước về phía giường. Nhưng Wistan lập tức đưa tay ra túm lấy cánh tay thằng bé. Rất có thể là do hiệu ứng ánh nến gây ra, mà cũng có thể là do cái bóng chập chờn của người chiến binh phản chiếu trên bức tường sau lưng nên Axl bỗng chốc cảm thấy ánh mắt của Wistan đang dán chặt vào vị thầy tu đầy thương tích dường như chứa một cảm xúc mãnh liệt, thậm chí là lòng căm ghét. Người chiến binh kéo thằng bé lùi lại phía bức tường, sau đó tiến một bước về phía trước như muốn che chở cho người được giao phó cho mình trông nom.

“Có chuyện gì vậy, anh chàng chăn cừu?” cha Jonus hỏi. “Cậu sợ chất độc từ vết thương của tôi sẽ lây sang người anh em của mình chăng? Vậy thì tôi sẽ không chạm vào thằng bé. Hãy để nó tiến lại gần đây, tôi sẽ xem xét vết thương bằng mắt thôi vậy.”

“Vết thương của thằng bé đã ráo rồi,” Wistan nói. “Chỉ còn người phụ nữ tốt bụng này cần sự giúp đỡ của ông mà thôi.”

“Cậu Wistan này,” Beatrice nói, “tại sao cậu lại nói thế? Cậu chắc hiểu rất rõ, rằng một vết thương lúc này trông có vẻ đã lành nhưng ngay sau đó lại có thể phát sốt lên ấy chứ. Thằng bé cần sự chỉ bảo của vị thầy tu thông thái này.”

Wistan không tỏ vẻ gì đã nghe thấy những gì Beatrice nói, vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào vị thầy tu. Đến lượt mình, cha Jonus cũng nhìn người chiến binh như thể anh ta là một điều gì đó có sức hút mạnh mẽ. Một lúc sau, cha Jonus nói:

“Cậu kháng cự lại tôi với một sự quả cảm đáng nể cho một chàng chăn cừu tầm thường.”

“Chắc hẳn là do thói quen nghề nghiệp của tôi. Một người chăn cừu phải đứng suốt nhiều giờ để canh chừng lũ sói tụ tập trong đêm tối.”

“Tôi chẳng nghi ngờ gì điều đó. Tôi cũng hình dung khi nghe thấy một âm thanh trong màn đêm, một người chăn cừu phải biết phán đoán thật nhanh để xem có phải đó là dấu hiệu báo trước nguy hiểm đang tới gần, hay chỉ là tiếng động từ một người bạn đang tới tìm mình. Rất nhiều thứ phụ thuộc vào khả năng đưa ra những quyết định vừa nhanh vừa đúng như thế.”

“Chỉ có thằng ngốc khi nghe thấy tiếng cành cây gãy hoặc khi phát hiện ra một bóng đen trong đêm tối mới nghĩ rằng có bạn đến giải khuây cho mình. Chúng tôi thuộc loại người rất cảnh giác, còn hơn thế nữa, thưa ông, tôi lại vừa được tận mắt trông thấy thứ công cụ ấy của các ông ở nhà kho ngoài kia.”

“À. Tôi cũng đã nghĩ sớm muộn gì cậu cũng tìm ra. Vậy cậu nghĩ thế nào về thứ cậu vừa khám phá, hả chàng chăn cừu?”

“Nó khiến tôi giận dữ.”

“Làm cậu giận dữ ư?” Cha Jonus dồn chút sức trong mình mà kêu lên đầy khó chịu, như thể chính cha bỗng chốc cũng thấy giận dữ. “Tại sao cậu lại giận dữ chứ?”

“Hãy cho tôi biết nếu tôi nói gì sai, thưa ông. Tôi phỏng đoán các thầy tu ở đây có lệ từng người thay nhau chui vào cái cũi đó phơi mình ra trước lũ chim hoang dã, với hy vọng việc làm này sẽ chuộc lại những tội lỗi trước đây từng diễn ra tại vùng này nhưng suốt bao lâu nay vẫn chưa bị trừng phạt. Ngay cả những vết thương đáng sợ ngay trước mặt tôi đây cũng từ đó mà ra, và theo tôi được biết thì chính lòng mộ đạo giúp làm dịu bớt cơn đau của ông. Nhưng hãy cho phép tôi nói điều này, tôi chẳng thấy thương xót gì cho những vết thương của ông hết. Làm sao ông có thể mô tả việc kéo một tấm màn che phủ lên những hành vi xấu xa nhất là sự ăn năn hối lỗi được chứ? Chẳng lẽ vị Chúa của các ông lại dễ bị mua chuộc chỉ với những vết thương tự các ông gây ra cùng vài lời cầu nguyện đến thế hay sao? Có phải Người chẳng quan tâm mấy tới việc thực thi công lý?”

“Chúa của chúng tôi là Chúa của lòng vị tha, cậu chăn cừu ạ, là điều mà có thể một kẻ ngoại đạo như cậu thấy khó lòng mà hiểu cho được. Tìm kiếm sự tha thứ từ một vị Chúa như vậy, dù cho tội ác có tày trời đến đâu, chẳng phải là một điều ngốc nghếch. Lòng vị tha của Người là vô hạn.”

“Chúa mà có lòng vị tha vô hạn thì có ích gì, thưa ông? Ông chế giễu tôi là một kẻ ngoại đạo, nhưng Chúa trong lòng tổ tiên của tôi tuyên bố rõ ràng cách nhìn của họ và nghiêm khắc trừng phạt khi chúng tôi vi phạm luật lệ họ đặt ra. Chúa của lòng vị tha trong Cơ Đốc giáo của các ông đã ban cho phép con người theo đuổi lòng tham, ham muốn chiếm đoạt đất đai và sự khát máu trong họ, vì biết rằng chỉ vài lời cầu nguyện và một chút ăn năn hối lỗi sẽ đem lại sự tha thứ và phúc lành.”

“Đúng là ở đây, trong tu viện này, có những người vẫn tin vào điều đó, cậu chăn cừu ạ. Nhưng tôi xin cam đoan với cậu, tôi và Ninian từ lâu đã rũ bỏ ảo tưởng này, và cũng không chỉ riêng có hai chúng tôi. Chúng tôi biết không được lạm dụng lòng vị tha của Chúa, nhưng rất nhiều người anh em là thầy tu với chúng tôi ở đây, trong đó có cả cha trưởng tu viện, sẽ không chấp nhận điều này. Họ vẫn tin rằng chỉ cần chiếc cũi đó và sự cầu nguyện không ngừng là đủ. Nhưng đám quạ đen kia chính là dấu hiệu cho thấy sự giận dữ của Chúa. Hồi xưa chúng không bao giờ tới đây. Kể cả vào mùa đông năm ngoái, mặc dù gió khiến người khỏe mạnh nhất trong số chúng tôi phải khóc than, bọn chim cũng không hơn gì lũ trẻ nghịch ngợm, mỏ của chúng chỉ làm ta đau một chút. Chỉ một tiếng loảng xoảng của sợi dây xích hay một tiếng quát cũng đủ giữ không cho chúng lại gần. Nhưng giờ đây, một giống chim mới tìm tới chỗ chúng tôi, chúng lớn hơn, liều lĩnh hơn và mắt đầy hung tợn. Chúng rỉa thịt chúng tôi trong cơn tức giận lạnh lùng, cho dù chúng tôi có vùng vẫy hay la hét đến đâu. Chúng tôi đã mất đi ba người bạn thân thương chỉ trong vòng mấy tháng vừa qua, nhiều người trong số chúng tôi mang những vết thương nghiêm trọng. Đây chắc chắn là những dấu hiệu xấu.”

Thái độ của Wistan có vẻ dịu đi, nhưng anh ta vẫn đứng chắn trước mặt thằng bé. “Có phải ông đang nói rằng tôi có bạn bè trong tu viện này?” anh ta hỏi.

“Trong căn phòng này, cậu chăn cừu ạ, đúng. Ngoài nơi này ra, chúng tôi vẫn bị chia rẽ và ngay lúc này đây, họ đang tranh cãi nảy lửa về việc sẽ tiếp tục thế nào. Cha trưởng tu viện luôn muốn chúng tôi giữ nguyên như cũ. Những người khác có cùng quan điểm với chúng tôi sẽ nói đã đến lúc phải dừng lại. Rằng chẳng có sự tha thứ nào đang chờ đón chúng ta phía cuối con đường này. Rằng chúng ta phải tiết lộ những gì đang bị che giấu và đối mặt với quá khứ. Nhưng tôi sợ rằng những tiếng nói này vẫn chỉ là thiểu số và sẽ không thể thành công. Cậu chăn cừu này, giờ thì cậu tin tưởng tôi mà để tôi kiểm tra vết thương của thằng bé được chưa?”

Wistan vẫn đứng im một lúc. Sau đó, người chiến binh dịch bước sang bên, ra hiệu cho Edwin tiến về phía trước. Ngay lập tức, thầy tu câm lặng giúp cha Jonus ngồi thẳng hơn nữa - cả hai thầy tu bỗng chốc hăng hái hẳn lên - rồi vớ lấy cây nến bên giường, kéo Edwin lại gần và nôn nóng kéo áo thằng bé lên cho cha Jonus nhìn. Sau đó, mất một lúc dường như thật lâu, cả hai thầy tu cùng xem xét vết thương của thằng bé - Ninian cứ xoay cây nến qua bên này rồi lại qua bên kia - như thể đó là một chiếc bể chứa đựng cả một thế giới thu nhỏ trong đó. Cuối cùng thì, Axl thấy hai thầy tu cũng đưa mắt nhìn nhau, những cái nhìn đắc thắng, nhưng ngay sau đó, cha Jonus chìm người xuống gối, nét mặt gần như tỏ vẻ cam chịu nếu không phải là một nỗi buồn. Khi Ninian vội vàng đặt nến xuống để giúp ông, Edwin lùi lại đứng trong bóng tối bên cạnh Wistan.

“Cha Jonus,” Beatrice nói, “giờ cha đã thấy vết thương của thằng bé rồi, hãy cho chúng tôi biết liệu vết thương đã hết nhiễm trùng chưa và liệu sẽ tự khỏi hay không.”

Mắt cha Jonus nhắm nghiền, ông ta vẫn thở nặng nhọc nhưng bình tĩnh nói: “Tôi tin rằng vết thương sẽ lành nếu thằng bé cẩn thận. Cha Ninian sẽ chế một loại dầu bôi cho nó trước khi nó rời khỏi nơi này.”

“Thưa cha,” Beatrice tiếp tục nói, “tôi không hoàn toàn hiểu hết cuộc trò chuyện vừa rồi của cha với cậu Wistan. Nhưng tôi vẫn rất quan tâm.”

“Vậy sao, thưa bà?” Cha Jonus vẫn đang cố gắng lấy lại sức, mở mắt nhìn Beatrice.

“Đêm hôm qua, tại ngôi làng dưới chân núi kia,” Beatrice nói, “tôi đã nói chuyện với một phụ nữ thông thạo nghề thuốc. Cô ấy biết rất nhiều về căn bệnh của tôi, nhưng khi tôi hỏi cô ấy về làn sương mù này, làn sương khiến chúng tôi dễ dàng quên khuấy những gì diễn ra mới chỉ giờ đồng hồ trước hệt như quên những gì đã xảy ra một buổi sáng từ nhiều năm trước, cô ấy thú nhận mình không biết nó là cái gì và ai tạo ra. Thế nhưng cô ấy nói nếu có ai đủ thông thái hiểu được việc này thì đó chính là cha trên tu viện này, cha Jonus ạ. Vì thế, tôi và chồng tôi đã lên đây, cho dù tới ngôi làng nơi con trai tôi sinh sống, nơi nó đang nóng lòng chờ chúng tôi, khó khăn hơn nhiều khi đi theo lối này. Tôi hy vọng cha sẽ cho tôi biết điều gì đó về làn sương này và làm thế nào để tôi và Axl thoát được khỏi nó. Có thể tôi là một phụ nữ ngốc nghếch, nhưng bây giờ tôi đã nhận ra, từ những câu chuyện về những người chăn cừu kia, rằng cha và cậu Wistan cũng đang nhắc đến đúng làn sương phủ ấy, và cũng lấy làm khó chịu biết bao vì những gì thuộc về quá khứ đã bị lãng quên. Vậy hãy cho phép tôi được hỏi cha và cả cậu Wistan nữa. Cả hai người có biết đâu là nguyên nhân khiến làn sương phủ này bao trùm lên tất cả chúng ta hay không?”

Cha Jonus và Wistan đưa mắt nhìn nhau. Sau đó Wistan nói khẽ:

“Đó là do con rồng Querig, bác Beatrice ạ, chính là con rồng đang lang thang trên những đỉnh núi này. Nó là nguyên nhân gây ra làn sương bao phủ bác nói đến. Nhưng các thầy tu ở đây lại bảo vệ nó và đã làm như vậy bao nhiêu năm qua. Cháu xin cá rằng ngay lúc này, nếu họ biết tỏng danh tính của cháu, họ sẽ gửi quân tới tiêu diệt cháu.”

“Cha Jonus, điều này có thật không?” Beatrice hỏi. “Màn sương mù này là do con rồng cái gây nên?”

Vị thầy tu, thoáng chốc trở nên xa xăm, chợt quay lại nhìn Beatrice. “Cậu chăn cừu nói đúng rồi đấy, thưa bà. Chính hơi thở của Querig phủ kín đất này và cướp đi tất cả trí nhớ của chúng ta.”

“Axl, anh có nghe thấy không? Chính con rồng cái là nguyên nhân gây ra làn sương phủ! Nếu cậu Wistan hoặc ai đó, kể cả vị hiệp sĩ già chúng ta gặp trên đường, tiêu diệt được con vật ấy, thì chúng ta sẽ có lại trí nhớ! Axl, sao anh im lặng thế?”

Quả thực là Axl nãy giờ đang trầm ngâm suy nghĩ và mặc dù ông có nghe thấy những gì Beatrice mới nói cũng như nhận ra sự nôn nao trong bà, tất cả những gì ông làm nổi chỉ là đưa tay ra cho bà nắm. Ông chưa tìm được lời để nói với vợ thì cha Jonus đã nói với Wistan:

“Cậu chăn cừu này, nếu cậu biết mình đang gặp nguy hiểm, tại sao cậu còn lãng phí thời gian ở đây chứ? Tại sao không dẫn thằng bé này mà đi khỏi đây đi?”

“Thằng bé cần được nghỉ ngơi, và cả tôi cũng thế.”

“Nhưng cậu có nghỉ đâu, cậu chăn cừu. Cậu chặt củi rồi đi lang thang khắp nơi như một con sói đói.”

“Lúc chúng tôi mới tới, đống củi của các ông đã vơi. Trên núi cao thế này, đêm thường rất lạnh.”

“Còn có điều gì đó khiến tôi chưa hiểu, cậu chăn cừu ạ. Tại sao chúa đất Brennus lại săn đuổi cậu như thế? Suốt bao ngày vừa qua, quân lính của hắn lùng sục khắp vùng này tìm cậu. Cả năm ngoái nữa, khi có một chàng trai khác từ phía Đông tới đây săn Querig, Brennus tưởng đó là cậu và cử quân đi tìm. Họ lên đây hỏi cậu. Cậu chăn cừu này, cậu là thế nào với Brennus?”

“Chúng tôi biết nhau từ hồi còn là trẻ con, hồi còn nhỏ tuổi hơn thằng bé này nữa.”

“Cậu tới vùng này để thực thi một nhiệm vụ. Tại sao lại phá hỏng việc đó chỉ vì những mối thù xưa? Để tôi bảo cậu thế này, hãy cùng thằng bé này lên đường, trước khi các thầy tu họp xong.”

“Nếu chúa đất Brennus tử tế mà lên đây tìm tôi đêm nay, tôi đành phải đứng lên mà đương đầu với ông ta.”

“Cậu Wistan này,” Beatrice nói, “tôi không biết giữa cậu và chúa đất Brennus có chuyện gì. Nhưng nếu nhiệm vụ của cậu là tiêu diệt con rồng Querig, thì tôi xin cậu đấy, đừng để những chuyện khác khiến cậu sao nhãng nữa. Sau này, cậu còn khối thời gian mà giải quyết những mối thù xưa cũ.”

“Bà ấy nói đúng đấy, cậu chăn cừu ạ. Tôi sợ là mình cũng biết cậu bổ củi vì mục đích gì mất rồi. Hãy nghe lời chúng tôi đi cậu ạ. Thằng bé này cho cậu một cơ hội độc nhất vô nhị mà có lẽ cậu sẽ không bao giờ gặp thêm một lần nữa đâu. Hãy đưa nó đi và lên đường làm việc của cậu đi.”

Wistan trầm ngâm nhìn cha Jonus, sau đó lịch sự cúi đầu. “Tôi rất vui được gặp cha, thưa cha. Và tôi xin lỗi vì lúc nãy đã nói năng bất lịch sự với cha. Nhưng bây giờ, hãy cho phép tôi và thằng bé này được cáo từ cha. Tôi biết bác Beatrice đây vẫn muốn được hỏi ý kiến của cha, bà ấy là một phụ nữ quả cảm và nhân từ. Tôi xin cha hãy dành chút sức lực giúp cho bà ấy. Giờ thì, tôi xin được cảm ơn cha vì những lời khuyên dành cho tôi và xin được chào từ biệt.”

Nằm trong bóng tối, vẫn hy vọng giấc ngủ sẽ bất thình lình kéo đến với mình, Axl cố nhớ lại vì sao mình lại im lặng một cách kỳ quặc gần như suốt lúc đứng trong phòng của cha Jonus như thế. Phải có một lý do nào đó, và ngay cả khi Beatrice hoan hỉ phát hiện ra nguyên nhân của làn sương mù ấy và quay sang kêu lên với ông như thế, ông cũng chỉ đưa tay ra cho bà mà chẳng nói năng được gì. Lúc đó, ông đương bận đánh vật với một cảm xúc vừa kỳ quặc vừa mãnh liệt, cảm xúc ấy đã xô ông vào một giấc mơ, cho dù ông vẫn nghe rõ từng từ xung quanh mình. Ông đã tưởng như mình đang đứng trên một con thuyền giữa dòng sông lạnh giá, đưa mắt nhìn xuyên qua lớp sương mù dày đặc, biết rằng bất cứ giây phút nào, sương cũng có thể tan và làm lộ ra những hình ảnh sống động của đất liền trước mắt. Rồi ông chợt thấy hoảng sợ, nhưng cùng lúc đó lại cũng thấy tò mò nữa - mà cũng có thể là cảm giác gì đó mạnh mẽ hơn và mơ hồ hơn - ông đã quả quyết tự nhủ, “Cho dù đó là chuyện gì đi chăng nữa, hãy để tôi được thấy nó, hãy cho tôi thấy nó.”

Có phải ông đã nói thành tiếng câu ấy? Có thể lắm, đúng vào lúc Beatrice quay sang ông sôi nổi kêu lên, “Axl, anh có nghe thấy không? Chính con rồng cái là nguyên nhân gây ra làn sương phủ!”

Ông không thể nhớ chính xác chuyện gì đã xảy ra sau khi Wistan và thằng bé rời khỏi phòng của cha Jonus. Vị thầy tu câm lặng Ninian hẳn đã đi với họ, có lẽ là để đưa dầu bôi vết thương cho thằng bé, hoặc có thể chỉ đơn giản là để dẫn họ quay trở lại sao cho không ai trông thấy. Dù sao đi chăng nữa, chỉ còn ông và Beatrice ở lại với cha Jonus và mặc dù bị thương và kiệt sức, cha Jonus vẫn khám cho vợ ông một cách kỹ lưỡng. Vị thầy tu không đề nghị bà cởi bỏ cái gì - Axl đã nhẹ người khi thấy thế - và mặc dù trí nhớ của ông về việc này cũng lờ mờ như mọi thứ khác, ông vẫn nhớ được hình ảnh Jonus ghé tai vào một bên người Beatrice, mắt nhắm lại để tập trung như thể đang lắng nghe những thông điệp yếu ớt nào đó phát ra từ bên trong cơ thể bà. Axl cũng nhớ vị thầy tu hấp háy mắt khi đặt ra cả loạt câu hỏi cho Beatrice. Bà có thấy nôn nao sau khi uống nước không? Có thấy đau ở gáy không? Có cả những câu hỏi khác Axl không còn nhớ nổi nữa, nhưng Beatrice đã trả lời là không hết câu này đến câu khác, và bà càng trả lời không nhiều hơn bao nhiêu thì Axl càng cảm thấy dễ chịu hơn bấy nhiêu. Chỉ có một lần, khi Jonus hỏi bà có thấy máu trong nước tiểu hay không và khi Beatrice trả lời có, thỉnh thoảng có thấy, Axl mới thấy lo lắng. Nhưng vị thầy tu đã gật đầu, như thể cho rằng đó là điều bình thường không có gì bất ngờ, rồi tiếp tục luôn câu hỏi khác ngay sau đó. Rồi thì cuộc khám bệnh này kết thúc ra sao? Ông nhớ cha Jonus mỉm cười rồi nói, “Vậy là bà có thể tới chỗ con trai mà không cần lo lắng gì hết,” và chính Axl đã nói, “Em thấy chưa, công chúa của anh, anh vẫn biết là chẳng có chuyện gì hết.” Rồi vị thầy tu chậm rãi và thận trọng nằm xuống giường để lấy lại sức. Vắng mặt Ninian nên Axl vội vàng rót nước đầy cốc cho vị thầy tu và khi kề cốc nước vào miệng người ốm, thấy những giọt máu bé li ti từ môi dưới nhểu xuống hòa vào nước trong cốc. Sau đó, cha Jonus ngẩng lên nhìn Beatrice rồi nói:

“Thưa bà, bà có vẻ vui mừng khi biết sự thực về thứ mà bà gọi là làn sương phủ.”

“Quả là tôi rất vui, thưa cha, vì giờ chúng tôi đã có lối thoát.”

“Hãy cẩn thận, vì đó là điều bí mật được một số người chăm chăm giữ kín, cho dù có lẽ tốt hơn cả nếu nó không còn bị giữ kín nữa.”

“Tôi chẳng quan tâm nó có phải bí mật hay không, thưa cha, tôi chỉ thấy vui vì bây giờ tôi và Axl đã biết và có thể làm gì đó.”

“Nhưng liệu bà có chắc muốn được giải thoát khỏi làn sương phủ này không, thưa bà? Chẳng phải nếu một số thứ được giấu kín khỏi trí óc của chúng ta thì vẫn hay hơn sao?”

“Có thể là như vậy với ai đó, thưa cha, nhưng không phải với chúng tôi. Tôi và Axl muốn thấy lại những phút giây hạnh phúc chúng tôi đã từng chia sẻ với nhau. Tuột khỏi tay những điều ấy cũng giống như việc một tên trộm trong đêm lẻn vào lấy đi những gì quý giá nhất của mình.”

“Nhưng làn sương phủ này che kín tất cả mọi ký ức, cả tốt lẫn xấu. Có phải vậy không, thưa bà?”

“Sẽ có cả những điều không hay trở lại với chúng tôi, có thể chúng sẽ khiến chúng tôi phải khóc hoặc run lên vì tức giận. Nhưng đó chính là cuộc sống chúng tôi đã chia sẻ với nhau còn gì?”

“Vậy là bà không sợ những ký ức không vui rồi, phải không thưa bà?”

“Có gì phải sợ chứ, thưa cha? Những gì trái tim Axl và tôi dành cho nhau lúc này cho thấy con đường đưa chúng tôi tới ngày hôm nay chẳng có gì đe dọa chúng tôi, cho dù lớp sương mù này có che giấu điều gì đi chăng nữa. Giống như một câu chuyện kết thúc có hậu, đến một đứa trẻ cũng biết không việc gì phải sợ những ngoắt ngoéo quanh co trước đó. Tôi và Axl sẽ nhớ mãi cuộc sống bên nhau của chúng tôi, cho dù có thế nào, vì cuộc sống đó là tất cả những gì thân yêu nhất đối với chúng tôi.”

Hẳn là một con chim vừa mới bay ngang qua trần nhà phía trên chỗ ông nằm. Tiếng động khiến ông giật mình, và ông chợt nhận ra mình đã ngủ thiếp đi được một chút xíu. Ông cũng còn nhận ra tiếng bổ củi đã ngừng, các khoảng sân ngoài kia đã hoàn toàn im ắng. Không biết người chiến binh đã quay về phòng cùng họ chưa? Axl không hề nghe thấy gì, cũng chẳng có dấu hiệu gì cho thấy có ai khác nằm bên Edwin ở phía bên kia căn phòng, bên kia khối đen là chiếc bàn ăn. Cha Jonus đã nói gì sau khi khám cho Beatrice và sau khi hỏi han bà? Đúng, Beatrice đã nói, bà có thấy máu trong nước tiểu, nhưng ông ta mỉm cười rồi hỏi tiếp một câu khác. Em thấy chưa, công chúa của anh, Axl đã nói thế, anh vẫn bảo em chẳng có gì đâu mà. Và cha Jonus đã mỉm cười, dù bị thương và kiệt sức, rồi nói giờ Beatrice có thể tới gặp con trai mà chẳng phải lo lắng gì. Nhưng những câu hỏi của cha Jonus không phải là những gì Beatrice vẫn thường lo nghĩ tới. Ông biết, Beatrice vẫn e sợ những câu hỏi của người chèo thuyền, khó trả lời hơn nhiều so với những câu hỏi của cha Jonus, và đó chính là lý do vì sao bà rất vui khi được biết nguyên nhân của làn sương phủ. Axl, anh nghe thấy chưa? Bà đã rất hoan hỉ. Gương mặt rạng rỡ, bà đã hỏi, Axl, anh nghe thấy chưa?