Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Chương 3

Bạn sẽ thấy ngôi làng của người Saxon, nhìn từ xa và từ một độ cao nhất định như thế này, mang một vẻ gì đó giống “làng” hơn so với khu hầm ngầm nơi Axl và Beatrice sinh sống. Vì một điều thế này - có lẽ bởi người Saxon nhạy cảm hơn với nỗi sợ bị giam cầm - nên ở đây không thấy cảnh đào sâu vào sườn đồi. Nếu bạn đi xuống sườn thung lũng dốc đứng như những gì Axl và Beatrice đang làm vào buổi chiều muộn hôm ấy, bạn sẽ thấy dưới kia là khoảng hơn bốn mươi ngôi nhà đứng tách biệt, nằm theo hai vòng tương đối tròn trên nền thung lũng, vòng này nằm trong lòng vòng kia. Có thể vẫn còn khá xa nên bạn sẽ không nhận ra sự khác biệt về độ lớn cũng như những nét riêng biệt của từng ngôi nhà, nhưng bạn sẽ nhận ra các mái rơm, cùng một sự thực là rất nhiều trong số chúng có dạng “nhà tròn” không khác biệt là mấy so với ngôi nhà mà một số bạn, hay có lẽ là cha mẹ các bạn, đã lớn lên. Và nếu người Saxon sẵn lòng hy sinh chút an toàn để đổi lấy những lợi ích của không gian bên ngoài, họ cũng đã cẩn thận bù trừ cho đủ: một hàng rào cao làm từ những cây gỗ cột dây, đầu cột nhọn hoắt như những cây bút chì khổng lồ, bao kín làng. Ở khúc nào cũng vậy, hàng rào này cao ít nhất là gấp đôi chiều cao của con người, và để ngăn mọi ý định leo qua rào, người ta đã đào một hào sâu chạy khắp xung quanh phía bên ngoài hàng rào.

Đó chính là bức tranh hiện ra trước mắt Axl và Beatrice khi họ dừng chân lấy lại hơi thở trên đường xuống dốc. Mặt trời đã lặn khuất sau thung lũng, và vì có thị lực tốt hơn nên Beatrice đang một lần nữa nghiêng mình ngó xuống khi đứng trước Axl độ một hoặc hai bước chân, cỏ và cây bồ công anh xung quanh cao tới tận eo bà.

“Em thấy có bốn, không, tới năm người đàn ông đứng gác cổng,” bà nói. “Hình như họ đang cầm giáo. Lần trước em tới đây với đám phụ nữ, chỉ có đúng một người gác cổng cùng hai con chó.”

“Em có chắc chúng ta sẽ được đón chào ở đây không, hở công chúa?”

“Đừng lo, Axl ạ, đến giờ thì họ đã biết em khá rõ. Hơn nữa, một trong số những người cao tuổi ở đây là người Briton, được mọi người coi là một vị trưởng lão thông thái, mặc dù ông ấy không mang trong người dòng máu của họ. Ông ấy sẽ lo liệu để đêm nay chúng ta có một nơi nghỉ chân an toàn. Nhưng cho dù như thế, em vẫn đang lo lắm, vì em nghĩ hình như có chuyện gì đó mới xảy ra. Giờ lại có một người đàn ông khác cầm giáo vừa mới tới, cùng một đàn chó dữ dằn.”

“Ai mà biết được rồi sẽ có chuyện gì với người Saxon,” Axl nói. “Tốt hơn cả là đi tìm chỗ nào khác để trú chân đêm nay.”

“Chẳng mấy chốc trời sẽ tối, Axl ạ, mà những ngọn giáo kia không dành cho chúng ta. Hơn nữa, em muốn gặp một phụ nữ trong làng này, cô ấy có hiểu biết về thuốc thang nhiều hơn bất cứ ai trong số chúng ta.”

Axl đọi Beatrice nói tiếp, nhưng khi thấy bà cứ dõi mắt nhìn ra xa ông liền hỏi: “Tại sao em lại cần thuốc, hở công chúa?”

“Chỉ là một cảm giác khó chịu nhỏ thỉnh thoảng xuất hiện. Người phụ nữ này có thể biết cách giúp em đỡ đau.”

“Khó chịu như thế nào hả công chúa? Em đau ở đâu?”

“Không có gì đâu. Chẳng qua là vì chúng ta cần trú chân ở đây nên em mới nghĩ tới chuyện này.”

“Nhưng em đau ở đâu mới được chứ, công chúa của anh?”

“Ồ…” Không quay người lại, bà đặt một tay bên sườn, ngay dưới lồng ngực, rồi cười to. “Không có gì đáng nói hết. Anh thấy rồi còn gì, nó đâu có khiến em chậm bước trên đường tới đây hôm nay “

“Đúng là em không hề chậm bước chút nào, công chúa ạ, anh mới là người suốt ngày cứ đòi dừng chân nghỉ.”

“Ý em là thế đấy, Axl ạ. Nên anh không cần phải lo lắng.”

“Nó hoàn toàn không khiến em chậm bước chút nào. Thực ra thì, công chúa này, em mạnh mẽ không kém những phụ nữ chỉ bằng nửa tuổi em. Nhưng nếu có thể tìm được thứ gì đó ở đây giúp em hết đau thì tìm gặp cô ấy có hại gì đâu?”

“Anh nói đúng như những gì em nghĩ, Axl ạ. Em có mang theo một ít tiền để đổi lấy thuốc.”

“Ai muốn phải chịu đau dù chỉ một chút chứ? Ai cũng đau chỗ này chỗ kia, và nếu thoát được thì ai cũng muốn thoát. Nhưng mà bằng mọi giá, hãy tới gặp người phụ nữ này nếu cô ấy có mặt ở đây, và nếu mấy người gác cổng kia chịu cho chúng ta qua.”

Trời đã gần tối lúc họ đi qua chiếc cầu bắc qua con hào bảo vệ, đuốc đã được thắp sáng hai bên cổng. Những người gác cổng tuy vạm vỡ to lớn nhưng lại tỏ vẻ hoảng hốt khi thấy họ lại gần.

“Axl này, chờ một chút,” Beatrice nói nhỏ. “Để mình em ra nói chuyện với họ.”

“Đừng lại gần mấy ngọn giáo nhé, công chúa của anh. Lũ chó có vẻ bình tĩnh đấy, nhưng nỗi sợ hãi khiến mấy người Saxon kia trông xuẩn ngốc quá.”

“Nếu họ sợ một người lớn tuổi như anh, Axl ạ, em sẽ sớm cho họ thấy là họ lầm to.”

Beatrice dũng cảm tiến bước về phía họ. Mấy người đàn ông xúm lại quanh bà và vừa nghe bà nói, họ vừa ném những cái nhìn nghi hoặc về phía Axl. Sau đó, một người cất giọng gọi bằng tiếng Saxon, bảo Axl bước gần về phía những ngọn đuốc, có lẽ để kiểm tra cho chắc ông không phải là một người trẻ tuổi trá hình. Rồi sau khi trao đổi thêm vài câu nữa với Beatrice, họ cho phép hai người đi qua cổng.

Axl khá bối rối không hiểu vì sao hai vòng tròn nhà cửa khi nhìn từ xa lại có thể biến thành một mê hồn trận hỗn độn đến thế khi họ thực sự đặt chân trên những con ngõ chật hẹp trong làng. Phải thừa nhận là ánh sáng đang tàn lụi dần, nhưng vừa đi theo Beatrice, ông vừa thấy rõ nhà cửa ở đây được sắp xếp chẳng theo một nguyên lý hay mô hình nào hết. Một công trình bất chợt hiện ra lù lù trước mặt, chắn ngang đường khiến họ buộc phải luồn qua những lối đi lộn xộn bên hông nhà. Hơn nữa, họ còn phải thận trọng hơn cá khi đi ngoài đường: không chỉ vì nền đường lồi lõm và đầy các vũng nước do cơn mưa lúc nãy tạo ra, mà còn vì hình như người Saxon thấy việc vứt các đồ vật linh tinh ra giữa đường đi, kể cả những mảnh gạch vụn, là chuyện rất bình thường. Nhưng điều khiến Axl khó chịu nhất là thứ mùi cứ bám theo từng bước chân họ, tuy khi thoảng khi nồng nặc nhưng không bao giờ hết hẳn. Như bất cứ ai sống ở thời của ông, ông chịu đựng tốt mùi phân, cả phân người lẫn phân động vật, nhưng cái mùi này lại gớm ghiếc hơn rất nhiều. Chẳng bao lâu sau, ông đã định vị được nguồn gốc của nó: khắp làng, người ta bỏ trước nhà hoặc bên vệ đường vô số các mảng thịt thối để cúng tế các vị thần linh. Có một chỗ, giật mình vì mùi hôi thối bốc lên quá mạnh, ông đã quay đầu nhìn thì thấy một vật thể đen sì treo trên mái hiên của một túp lều, biến dạng ngay trước mắt ông khi cả một đàn ruồi bu kín trên đó bay vù đi. Một lát sau đó, họ gặp một lũ trẻ con đang kéo tai một con lợn lôi đi trên đường; chó, bò và lừa khắp nơi không ai trông giữ. Vài người họ gặp đều chỉ im lặng giương mắt nhìn, nếu không thì cũng nhanh chóng biến mất sau cửa ra vào hoặc một cánh cửa chớp.

“Có chuyện gì đó kỳ quặc ở đây đêm nay,” Beatrice vừa đi vừa thì thào. “Thông thường, dân làng ngồi trước nhà hoặc tụ lại thành những vòng tròn cười nói. Lũ trẻ bình thường ra tới lúc này đã lẽo đẽo đi theo chúng ta mà hỏi hàng trăm câu rồi băn khoăn không biết nên xua đuổi chúng ta hay làm bạn với chúng ta. Mọi thứ tĩnh lặng đến mức kỳ quái khiến em cảm thấy rất bất an.”

“Công chúa này, có phải chúng ta đã lạc đường rồi không, hay là vẫn đang trên đường tới chỗ ta sẽ được trú chân nhờ qua đêm?”

“Em đã định đến gặp người phụ nữ kia để hỏi về thuốc thang trước. Nhưng trong tình hình thế này, tốt hơn cả là đi thẳng tới chỗ ngôi nhà dài cổ để tránh gặp chuyện không hay.”

“Nhà bà lang có còn xa không?”

“Theo em nhớ thì cũng chẳng còn xa là mấy.”

“Thế thì đến xem cô ấy có nhà không đi. Kể cả khi cơn đau chỉ là chuyện vặt vãnh, như chúng ta biết thế, chẳng có lý gì cứ phải chịu đựng khi biết có cách để thoát được nó.”

“Chờ đến sáng cũng được, Axl ạ. Em thậm chí còn chẳng thấy đau gì, cho tới khi chúng ta nhắc đến nó.”

“Kể cả như thế, công chúa ạ, tiện thể chúng ta đang ở đây, sao không đi gặp người phụ nữ thông thái ấy chứ?”

“Chúng ta sẽ đi, nếu anh cứ nhất quyết muốn vậy. Mặc dù để đến sáng, thậm chí đợi đến khi em quay lại lần sau cũng chẳng sao.”

Đúng lúc này, họ rẽ qua một góc đường tới một nơi trông có vẻ là khu quảng trường trong làng. Một đám lửa cháy sáng rực tại trung tâm, ánh lửa soi thấy một đám đông lớn đứng xung quanh. Toàn người Saxon đủ mọi lứa tuổi, kể cả những đứa bé nhỏ xíu trong vòng tay cha mẹ, Axl lập tức nghĩ họ đã tình cờ gặp phải một nghi lễ của những người ngoại giáo. Nhưng khi họ dừng bước để quan sát những gì đang diễn ra trước mắt, ông nhận thấy đám đông không thực sự tập trung chú ý vào một điều gì cụ thể. Những gương mặt ông thấy được đều tỏ vẻ nghiêm nghị, có lẽ là sợ hãi thì đúng hơn. Ai cũng hạ thấp giọng, thành thử tất cả hòa vào trong không khí mà tạo thành những âm thanh rì rầm lo lắng. Một con chó cất tiếng sủa khi thấy Axl và Beatrice và ngay lập tức bị những bóng người xung quanh đuổi đi chỗ khác. Những người nhận thấy có khách đang đến gần chỉ giương cặp mắt trống rỗng nhìn họ rồi chẳng buồn để ý tới họ nữa.

“Ai mà biết được họ đang lo lắng chuyện gì, Axl nhỉ,” Beatrice nói. “Nếu không vì nhà của bà lang ở ngay gần đây thì em đã bỏ đi chỗ khác luôn rồi. Để xem liệu em có còn tìm ra đường hay không.”

Khi lần bước dọc theo một dãy lều phía bên tay phải, họ nhận thấy hóa ra còn có rất nhiều người nữa đứng trong bóng tối, im lặng dõi theo đám đông đang vây quanh đám lửa. Beatrice dừng lại nói chuyện với một trong số họ, một phụ nữ đứng ngay trước cửa ra vào ngôi lều của chính cô ta, và phải một lúc sau đó Axl mới nhận ra đó chính là bà lang. Trong thứ ánh sáng tối như bưng thế này, Axl không nhìn thấy rõ cái gì, chỉ biết đó là một phụ nữ cao ráo lưng còn thẳng, có lẽ ở độ tuổi trung niên, với một chiếc khăn choàng quàng qua cánh tay và hai vai. Cô ta cùng Beatrice tiếp tục thì thầm bàn bạc, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn về phía đám đông, thỉnh thoảng nhìn sang Axl. Cuối cùng, người phụ nữ ra hiệu cho họ vào bên trong túp lều, nhưng Beatrice ra nói nhỏ với ông:

“Để em nói chuyện riêng với cô ấy nhé, Axl. Giúp em bỏ bọc đồ này xuống rồi cứ đứng ngoài này chờ em.”

“Anh không được vào với em sao, công chúa của anh, kể cả khi anh hầu như chẳng hiểu gì thứ ngôn ngữ của người Saxon?”

“Đây là chuyện của phụ nữ, chồng ạ. Để em nói chuyện riêng với cô ấy, cô ấy nói sẽ khám kỹ tấm thân già của em.”

“Anh xin lỗi, công chúa của anh, anh không suy nghĩ thấu đáo. Để anh tháo bọc đồ của em xuống rồi anh sẽ chờ ngoài này đến lúc nào em xong việc.”

Sau khi hai người phụ nữ đã vào bên trong lều, Axl chợt thấy vô cùng mệt mỏi, đặc biệt là đôi chân và hai vai. Cởi bỏ bọc đồ của mình, ông dựa người vào bức tường làm bằng đất cỏ phía sau lưng rồi đưa mắt nhìn ra chỗ đám đông. Sự bồn chồn lúc này mỗi lúc một dâng cao: những người đứng gần chỗ ông ngồi trong bóng tối thì sải bước ra nhập vào đám đông, nhiều người khác lại vội vã rời khỏi chỗ đứng gần đám lửa, chỉ để một lúc sau vội quay trở lại. Ngọn lửa chiếu sáng rõ một vài khuôn mặt, trong khi những người khác vẫn chìm trong bóng tối, và một lúc sau thì Axl kết luận rằng tất cả bọn họ, trong một trạng thái lo lắng, đang chờ đợi một người nào đó hoặc một điều gì đó chuẩn bị xuất hiện từ ngôi nhà xây bằng gỗ nằm phía bên trái đống lửa. Tại ngôi nhà hẳn là nơi để tổ chức họp hành của người Saxon này cũng có một đống lửa được nhóm riêng ở bên trong, vì các cửa sổ của nó đều lập lòe sáng tối.

Đúng lúc Axl sắp ngủ gật đến nơi, lưng dựa vào tường, giọng nói kìm nén của Beatrice và bà lang vọng tới đâu đó từ phía sau, đám đông bỗng xê dịch và nhốn nháo cả lên trong những tiếng làu bàu nhất loạt. Vài người đàn ông đã ra khỏi ngôi nhà gỗ và đang tiến về phía đám lửa. Đám đông tách ra nhường dường cho họ rồi trở nên im ắng, như thể đang chờ nghe một lời thông báo, nhưng khi không thấy ai nói gì, họ lại chen lấn xúm xít xung quanh những người mới đến mà ồn ã hết cả lên. Axl nhận thấy mọi sự chú ý đều gần như tập trung cả vào người đàn ông cuối cùng bước ra khỏi ngôi nhà lớn. Cậu ta hẳn mới chỉ khoảng ba mươi tuổi nhưng cả người toát ra một vẻ quyền thế trời cho. Mặc dù trang phục rất đơn giản chẳng khác gì một người nông dân bình thường, nhưng trông cậu ta không giống bất cứ ai trong làng. Không chỉ vì cách cậu ta khoác chiếc áo choàng một bên vai, để lộ ra chiếc thắt lưng cùng chuôi kiếm. Cũng chẳng đơn giản là do cậu ta có mái tóc dài hơn tất cả dân làng - mái tóc rủ gần chấm vai và một phần tóc được cột lại bằng một sợi dây da để không xòa vào mắt. Sự thực là, Axl đã nghĩ ngay rằng người đàn ông này cột dây như vậy để tóc không che mất tầm nhìn khi cậu ta lâm trận. Ý nghĩ này đến với Axl thật tự nhiên và ông chỉ thấy giật mình khi ngẫm nghĩ thêm về nó, vì đi kèm với nó là cảm giác ông thực sự nhận ra một điều gì đó. Hơn thế nữa, khi người lạ mặt này sải những bước dài giữa đám đông rồi thả cho tay rơi trên chuôi kiếm, trong Axl dấy lên một cảm giác, thực tới mức gần như chạm được tay vào, cảm giác ấy chứa đựng một sự pha trộn lạ thường của niềm khuây khỏa, sự khích động và nỗi sợ hãi mà một động tác như thế có thể mang tới. Ông tự nhủ sẽ suy nghĩ thêm về những cảm giác kỳ lạ này vào một lúc khác, còn hiện giờ ông gạt chúng ra khỏi tâm trí để tập trung vào cảnh tượng đang diễn ra trước mắt.

Điều khiến chàng trai này khác hẳn với những người xung quanh chính là dáng điệu và cách đi đứng của cậu ta. “Cho dù cố tự biến mình thành một người Saxon bình thường,” Axl nghĩ bụng, “chàng trai này vẫn là một chiến binh. Có lẽ là một chiến binh có khả năng tàn phá ghê gớm nếu cậu ta muốn vậy.”

Hai trong số những người đàn ông còn lại vừa ra khỏi căn nhà lớn đang lởn vởn một cách căng thẳng phía sau chàng trai, và mỗi khi người chiến binh lẫn sâu thêm vào trong đám đông, cả hai người này lại tìm mọi cách để làm sao vẫn bám sát không rời, giống lũ trẻ con lo lắng không muốn bị lạc khỏi cha mẹ. Hai người trẻ tuổi này cũng đeo kiếm, thêm vào đó, mỗi người còn nắm chặt một cây giáo, nhưng nhìn cũng thấy họ khá lóng ngóng với những vũ khí này. Còn hơn thế, họ rất căng thẳng vì sợ hãi và dường như không có khả năng đáp trả những lời hò reo cổ vũ của dân làng. Mắt họ đưa qua đưa lại trong hoảng loạn khi những bàn tay xung quanh vỗ lưng hoặc siết vai họ.

“Cậu thanh niên tóc dài là một người lạ mặt mới tới làng một hoặc hai tiếng trước chúng ta,” giọng Beatrice vang lên sát tai Axl. “Một người Saxon, nhưng đến từ một miền đất xa xôi. Vùng đầm lầy ở phía Đông, cậu ta nói thế, nơi mới đây thôi cậu ta phải chiến đấu chống lại lũ giặc từ ngoài biển.”

Axl nhận thấy giọng nói của hai người phụ nữ đã trở nên rõ ràng hơn, ông quay lại và thấy Beatrice cùng nữ chủ nhà đã ra khỏi căn lều và đang đứng ngoài cửa ngay phía sau lưng ông. Bà lang đang nói nhỏ bằng tiếng Saxon, và một lúc sau đó Beatrice ghé tai ông nói:

“Xem ra là lúc nãy có một người đàn ông trở về làng, thở không ra hơi và bị thương ở vai, sau khi được mọi người giúp bình tĩnh trở lại, anh ta kể anh ta cùng anh trai và đứa cháu, một cậu bé mười hai tuổi, đang câu cá ở nơi họ vẫn thường câu ven sông thì bị hai con quỷ ăn thịt người tấn công. Có điều, theo lời anh ta, chúng chẳng phải là lũ quỷ bình thường. Khổng lồ đồng thời nhanh nhẹn và khéo léo hơn bất cứ con quỷ nào anh ta đã từng gặp. Hai con quỷ sứ - dân làng gọi chúng như vậy - hai con quỷ sứ ngay lập tức giết chết người anh trai và bắt thằng bé lúc ấy vẫn còn sống và đang giãy đạp đi mất. Người này thì bị thương chỉ chạy thoát sau một cuộc rượt đuổi dài dọc lối đi ven bờ, con vật hôi thối suốt cuộc rượt đuổi cứ gầm gừ ngay sát sau lưng, nhưng cuối cùng anh ta cũng cắt đuôi được nó. Axl này, người đeo nẹp trên cánh tay đang nói chuyện với người lạ mặt chính là anh ta đấy. Mặc dù bị thương nhưng vì quá lo lắng cho thằng cháu, anh ta đã dẫn một nhóm gồm toàn những nam giới khỏe mạnh nhất làng trở lại chỗ câu cá, ở đó họ thấy khói bốc lên từ một đám lửa trại gần bờ sông, và khi họ từ từ lén tiến lại gần, vũ khí sẵn sàng trong tay, mấy bụi cây bỗng mở tung ra, có vẻ như hai con quỷ sứ đã cài bẫy họ. Bà lang bảo em ba người đàn ông đã bị giết, trước cả khi những người còn lại kịp nghĩ tới việc chạy thoát thân, và mặc dù trở về không thương tích gì, nhưng gần như tất cả bọn họ đang nằm bẹp trên giường mà run lẩy bẩy và tự lẩm bẩm những gì không biết, họ sợ hãi đến nỗi không thể ra đây mà chúc may mắn cho những người đàn ông quả cảm kia, bất chấp bóng tối đương tràn tới và sương mù đương lan tỏa trong không gian, sẵn sàng lên đường hoàn thành việc mà mười hai người đàn ông khỏe mạnh không thể làm được giữa ban ngày.”

“Có ai biết liệu thằng bé vẫn còn sống hay không?”

“Họ không biết gì hết, nhưng họ vẫn sẽ ra ngoài bờ sông. Sau khi đoàn người đầu tiên trở về trong hoảng loạn, mặc dù các già làng đã kêu gọi nhưng không một ai đủ dũng cảm muốn tham gia cuộc thám hiểm tiếp theo. Thế rồi thật may mắn làm sao, vị khách lạ mặt kia xuất hiện xin ngủ nhờ một đêm vì con ngựa của cậu ta bị đau chân. Và mặc dù ta chẳng hề biết thằng bé cũng như gia đình của cậu bé từ trước, cậu ta tuyên bố sẽ giúp dân làng. Hai người đi cùng cậu ta là hai người cậu khác nữa của thằng bé, cứ nhìn điệu bộ của họ em cũng đủ thấy họ sẽ chỉ làm vướng chân người chiến binh kia thôi chứ có lẽ chẳng trợ giúp được gì. Nhìn kìa, Axl, sự sợ hãi đã khiến họ phát ốm.”

“Anh cũng thấy thế, công chúa ạ. Nhưng dầu sao đi nữa, họ vẫn thật dũng cảm, dám lên đường trong khi trong lòng chứa đầy nỗi sợ. Chúng ta đã chọn nhầm ngày để mong nhận được lòng hiếu khách của dân làng rồi. Anh đang nghe thấy những tiếng khóc lóc vọng từ đâu tới, và rất có thể sẽ còn nhiều người khóc hơn nữa trước khi qua được đêm nay.”

Hình như người phụ nữ bốc thuốc hiểu được phần nào những gì Axl vừa nói, vì cô ta lại đang nói, bằng ngôn ngữ của mình, sau đó đến lượt Beatrice: “Cô ấy bảo chúng ta hãy đến thẳng chỗ ngôi nhà cổ và đừng ló mặt ra ngoài cho tới khi trời sáng. Nếu ta cứ đi lang thang trong làng, cô ấy bảo không thể biết trước được dân làng sẽ cư xử ra sao trong một đêm như thế này đâu.”

“Anh thấy đúng đấy công chúa ạ. Hãy nghe theo lời khuyên của người phụ nữ tốt bụng này, nếu em vẫn còn nhớ đường tới đó.”

Nhưng đúng lúc đó, đám đông đột nhiên ồn ào hẳn lên, rồi tiếng ồn chuyển thành những tiếng hoan hô, đám đông xê dịch như đang cố thay hình đổi dạng. Rồi đoàn người bắt đầu chuyển động, người chiến binh và hai bạn đồng hành ở vị trí gần giữa đoàn. Những lời cổ vũ khe khẽ bắt đầu vang lên, và chẳng mấy chốc sau đó, những khán giả đứng trong bóng tối - trong đó có cả bà lang - cũng bắt đầu tham gia cổ vũ. Đoàn diễu hành tiến gần về phía Axl và Beatrice, và mặc dù ánh sáng từ đám lửa đã bị bỏ lại sau lưng nhưng nhờ những ngọn đuốc được dân làng cầm theo mà Axl vẫn thoáng thấy được nét mặt của vài người, một số tỏ ra hoảng sợ, một số khác lại đầy kích động. Mỗi khi ánh đuốc soi tới chỗ người chiến binh, nét mặt cậu ta vẫn bình tĩnh, cậu ta đưa mắt nhìn sang trái rồi lại sang phải để cảm ơn những lời động viên của dân làng, tay cậu ta một lần nữa lại đặt trên chuôi kiếm. Họ đi qua chỗ Axl và Beatrice đương đứng, tiếp tục đi qua một dãy lều rồi khuất khỏi tầm mắt, cho dù những tiếng cổ vũ lầm rầm vẫn vọng lại thêm một lúc nữa.

Hẳn đã bị tác động bởi bầu không khí này, cả Axl lẫn Beatrice đều đứng yên không động đậy một lúc. Sau đó, Beatrice bắt đầu hỏi bà lang đường tới ngôi nhà cổ và Axl thấy hình như chẳng bao lâu sau họ lại chuyển sang thảo luận đường đi tới một địa điểm nào khác nữa, vì họ đang ra hiệu và chỉ tay về phía những ngọn đồi xa nằm bên ngoài làng.

Cuối cùng thì họ cũng lên đường tới nơi nghỉ chân qua đêm khi sự yên ắng đã trở lại bao trùm trong làng. Chẳng gì khó hơn việc tìm đường trong đêm tối, những ngọn đuốc thắp sáng đây đó ở vài góc đường dường như chỉ càng làm họ thêm bối rối. Họ đang đi ngược lại so với hướng đi của đám đông lúc nãy, ngang qua những ngôi nhà hai bên đường tối đen không mang dấu hiệu gì của sự sống.

“Đi chậm thôi, công chúa cúa anh,” Axl nói khẽ. “Nếu một trong hai ta ngã một cú trời giáng xuống đất, chắc chắn sẽ chẳng có nổi dù chỉ một người ra giúp ta đâu.”

“Axl này, hình như ta lại lạc đường rồi thì phải. Hãy quay trở lại góc rẽ cuối cùng, chắc là em sẽ tìm được đường từ vị trí đó.”

Đúng lúc ấy, lối đi bỗng thẳng ra và hai người nhận thấy mình đang bước đi bên dãy hàng rào bao quanh làng họ đã nhìn thấy từ lúc còn đứng trên đồi. Những cây cột vót nhọn của nó lù lù hiện ra trên đầu, sẫm hơn cả bầu trời đêm. Vừa đi, Axl vừa nghe thấy những tiếng rì rầm từ trên cao vọng xuống. Rồi ông nhận ra không chỉ có mình họ ở đây: tít trên cao dọc theo dãy thành lũy, cách khoảng đều đặn, những bóng đen giờ ông đã nhận ra chính là dân làng đang đưa mắt nhìn ra màn đêm hoang vu phía bên ngoài dãy hàng rào. Axl còn chưa kịp nói cho Beatrice nghe những gì vừa nhìn thấy thì hai người đã nghe thấy tiếng chân bước lại gần từ phía sau lưng. Họ vội vàng tăng tốc, nhưng một ngọn đuốc đã tiến tới và nhiều bóng đen nhanh chóng chặn trước mặt họ. Thoạt đầu, Axl cứ tưởng họ chạm trán với một nhóm dân làng đi ngược lại từ chiều đằng kia, nhưng rồi ông thấy mình cùng Beatrice đã bị vây kín trong một vòng người. Nam giới người Saxon, đủ mọi lứa tuổi và tầm vóc, một số cầm giáo, số khác cầm cuốc, lưỡi hái hoặc các công cụ lao động khác, đang chen lấn quanh họ. Vài người cùng lúc nói gì đó với họ, và hình như thêm nhiều người nữa xuất hiện. Axl thấy hơi nóng từ các ngọn đuốc chĩa về phía họ, ông ôm sát Beatrice vào người và nhìn quanh một lượt để cố gắng nhìn xem đâu là người đứng đầu nhóm người này, nhưng ông không thế xác định nổi. Hơn nữa, mọi khuôn mặt đều chứa đầy vẻ hoảng sợ và ông hiểu ra chỉ cần một cử động bất cẩn cũng sẽ mang lại thảm họa. Vừa kéo Beatrice tránh xa khỏi tầm tay của một cậu thanh niên có cặp mắt đặc biệt hoang dại đang run rẩy giơ một con dao lên, Axl vừa lục trí nhớ tìm vài câu tiếng Saxon. Khi chẳng nghĩ ra được điều gì, ông đành nói đại mấy câu vỗ về, những gì ông thường dùng mỗi khi gặp phải một chú ngựa bất kham.

“Dừng lại đi Axl,” Beatrice thì thào. “Họ sẽ không cảm ơn anh vì hát ru họ đâu.” Bà dùng tiếng Saxon nói với một người, rồi một người khác nữa, nhưng tâm trạng của họ không vì thế mà khá hơn. Họ bắt đầu cao giọng cãi vã, một con chó giật mạnh sợi dây dẫn, qua mặt chủ mà gầm gừ với Axl và Beatrice.

Bỗng nhiên những dáng người đầy căng thẳng quanh họ dường như đồng loạt chùng cả lại. Những tiếng nói nhỏ dần rồi tắt hẳn, cho đến khi cuối cùng chỉ còn lại tiếng quát tháo đầy giận dữ của một người đang ở đâu đó cách họ một quãng ngắn. Tiếng nói tiến lại gần hơn và đám đông rẽ ra cho một người dàn ông lùn mập, dáng người vẹo vọ, tựa vào một cây trượng lê chân bước vào trong quầng sáng.

Ông ta đã khá lớn tuổi và mặc dù lưng còn khá thẳng nhưng cổ và đầu lại nhô ra từ hai vai một cách kỳ cục. Tuy vậy, tất cả những người đang có mặt ở đó lại có vẻ lép vế trước uy quyền của ông ta - ngay cả con chó cũng đã ngừng sủa rồi lẩn vào giữa những bóng người. Vốn từ Saxon lõm bõm của Axl đủ giúp ông hiểu rằng chỉ một phần nỗi tức giận của ông già vẹo vọ ấy có liên quan tới cách đối xử của dân làng với hai người lạ mặt: họ đang bị khiển trách vì dám bỏ vị trí canh gác, hiện ra trong ánh đuốc là những nét mặt tiu nghỉu mặc dù đầy vẻ bối rối. Và khi ông già càng tỏ ra tức giận hơn nữa, đám đông đàn ông hình như bắt đầu từ từ nhớ ra một điều gì đó và từng người lại rút lui vào màn đêm. Nhưng kể cả khi người cuối cùng đã đi mất và những tiếng chân trèo lên thang vang lên, ông già vẹo vọ vẫn tiếp tục ném theo họ những lời xỉ vả.

Cuối cùng, ông ta cũng quay về phía Axl và Beatrice, chuyển sang dùng ngôn ngữ của họ mà hoàn toàn không pha giọng chút nào: “Làm sao họ có thể quên được một việc như thế, nhất lại là ngay sau khi người chiến binh vừa mới lên đường cùng hai người anh em của chính họ để làm những gì không ai trong số họ có đủ can đảm làm? Sự hổ thẹn hay nỗi sợ hãi đã làm trí nhớ của họ suy giảm đến thế?”

“Đúng là họ đang rất khiếp sợ, Ivor ạ,” Beatrice nói. “Giờ chỉ cần một con nhện rơi sau lưng cũng đủ khiến họ làm om sòm hết cả lén. Đám người ông cử ra đón tiếp chúng tôi mới đáng buồn làm sao.”

“Tôi xin lỗi, bà Beatrice ạ. Và xin lỗi cả ông nữa, thưa ông. Đó không phải là cách bình thường chúng tôi đón khách ở đây, nhưng như các bạn thấy đấy, các bạn đã đến vào đúng một đêm khiếp đảm.”

“Chúng tôi đi lạc đường tới chỗ ngôi nhà cổ, Ivor ạ,” Beatrice nói. “Chúng tôi xin đội ơn nếu ông chỉ đường giúp chúng tôi. Đặc biệt sau khi được đón tiếp như vừa rồi, tôi và chồng tôi rất nóng lòng được ở trong nhà nghỉ ngơi.”

“Tôi những muốn hứa hẹn một sự đón tiếp ân cần tại hội trường cho các bạn, nhưng không thể biết được phản ứng của những người láng giềng sẽ ra sao trong một đêm như đêm nay. Nếu bà và chồng bà thuận tình mà tới trú qua đêm tại nhà tôi, nơi tôi biết hai bạn sẽ không bị ai quấy rầy, thì sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.”

“Chúng tôi hân hạnh đón nhận lòng tốt của ông, thưa ông,” Axl xen vào. “Tôi và vợ tôi thực sự cần được nghỉ ngoi.”

“Vậy hai bạn hãy đi theo tôi. Đi sát vào tôi và hạ thấp giọng cho đến khi tới nơi.”

Họ theo Ivor đi xuyên qua màn đêm cho đến khi tới một ngôi nhà, mặc dù về cấu trúc cũng không khác gì những ngôi nhà khác, nhưng lớn hơn và đứng tách biệt. Khi bước qua vòm cửa thấp tè, không khí đặc sệt mùi khói củi bên trong tuy khiến ngực Axl thắt lại nhưng đồng thời lại cho ông cảm giác ấm áp và ân cần. Một đám lửa cháy âm ỉ ngay giữa phòng, xung quanh là các tấm thảm dệt, các tấm da thú và bàn ghế đẽo từ gồ sồi và gỗ tần bì. Khi Axl gỡ các tấm chăn khỏi hai gói đồ, Beatrice sung sướng ngồi thụp xuống một chiếc ghế bập bênh. Ivor vẫn đứng gần cửa ra vào, nét mặt tỏ vẻ lo lắng.

“Tôi vẫn rùng mình vì hổ thẹn,” ông nói, “khi nghĩ tới cách họ đối xử với các bạn mới đây.”

“Xin ông đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa, thưa ông,” Axl nói. “Ông đã đón tiếp chúng tôi ân cần hơn cả những gì chúng tôi xứng đáng được hưởng. Tối nay, chúng tôi tới đây thật đúng lúc nên đã được chứng kiến cảnh những chàng trai quả cảm lên đường thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm của mình. Vì thế, chúng tôi hiểu rõ nỗi khiếp đảm treo lơ lửng trong không khí và chẳng có gì ngạc nhiên khi một số người cư xử ngốc nghếch.”

“Nếu người lạ như hai bạn nhớ rõ những rắc rối của chúng tôi đến thế, tại sao những thằng ngốc ấy đã kịp quên biến? Họ được lệnh, rõ ràng đến cả trẻ con cũng hiểu, rằng bằng mọi giá phải giữ nguyên vị trí tại hàng rào, sự an toàn của cả cộng đồng phụ thuộc vào đó, chưa kể đến việc cần trợ giúp những người hùng của chúng ta nếu họ xuất hiện ở cổng khi bị lũ quỷ đuổi theo sau. Thế mà họ đã làm gì? Hai người lạ đi qua, chẳng còn nhớ chút gì về mệnh lệnh hay thậm chí là nguyên do vì sao phải thực hiện những mệnh lệnh ấy, họ bám lấy hai bạn như những con chó sói điên khùng. Tôi chắc phải hồ nghi chính trí khôn của mình nếu không phải vì sự lãng quên như thế vẫn xảy ra quá thường xuyên ở chốn này.”

“Vùng chúng tôi ở cũng vậy, thưa ông,” Axl nói. “Tôi và vợ tôi đã chứng kiến quá nhiều chuyện bị quên lãng ngay giữa hàng xóm láng giềng của mình.”

“Thực là điều lý thú, thưa ông. Thế mà tôi lại tưởng loại dịch bệnh kiểu này chỉ lây lan trong vùng của chúng tôi. Liệu có phải vì tôi đã già, hay vì là một người Briton sống giữa người Saxon nên tôi thường là người duy nhất nhớ một số chuyện trong khi mọi người quanh mình đều đã quên tiệt hết cả?”

“Chúng tôi cũng thấy hệt như vậy ông ạ. Mặc dù chúng tôi cũng bị ảnh hưởng bởi màn sương này - tôi và vợ tôi giờ đặt tên cho nó như vậy - có vẻ như chúng tôi không quên lãng nhiều bằng những người trẻ tuổi hơn thì phải. Ông có cách giải thích nào cho sự quên lãng này không, thưa ông?”

“Tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về chuyện này, ông bạn ạ, mà chủ yếu là do sự mê tín của người Saxon. Nhưng mùa đông năm ngoái, một người lạ mặt đi qua đây có nói về vấn đề này, và càng nghĩ lại những gì anh ta nói tôi lại càng tin hơn. Có chuyện gì vậy nhỉ?” Nãy giờ vẫn đứng chỗ cửa ra vào, trượng cầm trong tay, Ivor xoay người với sự lanh lợi đáng ngạc nhiên so với một người có cơ thể vẹo vọ đến thế. “Xin lỗi hai bạn. Có thể các chàng trai quả cảm của chúng ta đã về. Giờ thì tốt hơn cả là hai bạn hãy cứ ở nguyên trong này và đừng có thò mặt ra ngoài làm gì.”

Sau khi vị chủ nhà đã đi khỏi, Axl và Beatrice cứ ngồi im lặng như vậy một lúc, mỗi người một ghế, hai mắt nhắm chặt, thầm biết ơn vì được ngồi nghỉ thế này. Sau đó, Beatrice khẽ nói:

“Lúc nãy anh nghĩ Ivor sẽ nói gì, hả Axl?”

“Về chuyện gì cơ, công chúa của anh?”

“Ông ấy đang nói về màn sương và nguyên cớ của tấm màn ấy.”

“Chỉ là tin đồn ông ấy đã nghe được. Dù sao thì cũng nên hỏi lại để ông ấy nói thêm cho ta biết. Một người đàn ông đáng mến. Ông ấy đã sống cả đời với người Saxon à?”

“Suốt từ hồi ông ấy kết hôn với một phụ nữ Saxon, em nghe nói thế. Em không biết bà ấy giờ ra sao. Axl này, hẳn sẽ rất thú vị khi biết được nguyên nhân của màn sương ấy, phải không?”

“Thực sự sẽ là một điều thú vị, nhưng biết rồi có mang lại ích lợi gì hay không, thì anh lại không rõ.”

“Sao anh lại nói như vậy hả Axl? Làm sao anh lại có thể nói một điều vô tâm đến thế?”

“Nói thế thì sao hở công chúa? Có chuyện gì vậy?” Axl ngồi thẳng dậy trên ghế và nhìn sang chỗ vợ. “Anh chỉ có ý nói rằng, biết được căn nguyên có khi cũng không giải quyết được vấn đề, cả ở đây lẫn ở vùng của chúng ta.”

“Nếu có một cơ hội giúp chúng ta hiểu được màn sương phủ này, điều đó có thể mang lại cả một khác biệt cho chúng ta. Làm sao anh có thể nói năng một cách hời hợt đến vậy, hả Axl?”

“Anh xin lỗi, công chúa của anh, anh không có ý nói như thế. Đầu óc anh đang nghĩ tới những việc khác.”

“Làm sao anh có thể nghĩ tới việc khác, trong khi chỉ mới hôm nay thôi ta vừa nghe được những gì người chèo thuyền kia nói?”

“Những thứ khác, công chúa ạ, thí dụ như nếu những người đàn ông quả cảm kia đã trở về và nếu như đứa trẻ kia không hề hấn gì. Hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngôi làng với những người gác cổng sợ hãi cùng cánh cổng mong manh kia bị lũ quỷ sứ tàn ác tấn công để trả thù cho sự đón tiếp khiếm nhã dành cho chúng. Có rất nhiều việc để suy nghĩ, hơi đâu mà bận tâm tới màn sương phủ hay những điều mê tín dị đoan người chèo thuyền lạ mặt kia nói đến.”

“Không việc gì phải gay gắt với em, Axl. Em không bao giờ muốn cãi nhau cả.”

“Hãy tha thứ cho anh, công chúa của anh. Hẳn là tâm trạng chung ở đây đã tác động đến anh.”

Nhưng Beatrice đã rơm rớm nước mắt. “Không việc gì phải nói năng gay gắt đến thế,” bà gần như lẩm bẩm một mình.

Axl đứng dậy và đi về phía chiếc ghế bập bênh của vợ rồi hơi cúi xuống, ôm vợ vào ngực mình. “Anh xin lỗi, công chúa của anh,” ông nói. “Nhất định chúng ta sẽ nói chuyện với Ivor về màn sương phủ ấy trước khi đi khỏi ngôi làng này.” Rồi một lát sau đó, khi họ vẫn tiếp tục ôm nhau, ông nói tiếp: “Thực lòng mà nói, công chúa ạ, anh đang nghĩ tới một việc cụ thể.”

“Việc gì vậy hả anh?”

“Anh đang băn khoăn tự hỏi không biết bà lang nói gì với em về cơn đau của em.”

“Cô ấy nói không có vấn đề gì và cho em biết sẽ có những thay đổi ra sao trong thời gian tới.”

“Anh vẫn thường nói thế, công chúa ạ. Chẳng phải chính anh đã bảo em không phải lo lắng còn gì?”

“Em có lo lắng gì đâu hả chồng. Chính anh cứ nhất định muốn tới gặp cô ấy đêm nay đấy chứ.”

“Làm như vậy là tốt, vì đến giờ ta đã biết không có gì đáng lo, mà trước giờ chúng ta cũng có lo lắng gì đâu.”

Bà nhẹ nhàng thoát khỏi vòng tay của chồng rồi để chiếc ghế đu đưa về phía sau. “Axl này,” bà nói. “Bà lang có nhắc đến một thầy tu già, cô ấy nói ông ấy còn thông thái hơn cô ấy nhiều. Ông ấy đã giúp rất nhiều người trong làng này, tên ông ấy là Jonus. Tu viện của ông ấy cách đây một ngày đường, theo con đường trên núi về phía Đông.”

“Con đường lên núi về phía Đông hả.” Axl đi ra phía cửa Ivor mới chỉ khép hờ và nhìn ra ngoài màn đêm đen. “Anh nghĩ thế này, công chúa ạ, ngày mai ta có thể theo con đường trên núi cao mà đi, cũng dễ dàng chẳng khác gì con đường xuyên qua rừng bên dưới.”

“Đường đó khó đi lắm, Axl ạ. Phải trèo rất nhiều. Sẽ mất thêm ít nhất một ngày đi đường nữa, trong khi con trai chúng ta đang nóng lòng đợi chúng ta tới nơi.”

“Những gì em nói đều đúng cả. Nhưng thật đáng tiếc nếu đã tới tận đây rồi mà không ghé thăm thầy tu thông thái.”

“Bà lang cũng chỉ nói thế vì tưởng chúng ta đằng nào cũng sẽ đi theo con đường ấy. Em bảo cô ấy là con đường phía dưới sẽ đưa chúng ta tới ngôi làng của con trai chúng ta thuận tiện hơn, và cô ấy đồng ý rằng thế thì cũng chẳng đáng bỏ công, vì em không có bệnh tật gì, chỉ là cơn ê ẩm thông thường của tuổi già mà thôi.”

Axl vẫn nhìn ra màn đêm ngoài kia qua cánh cửa khép hờ. “Kể cả như vậy, công chúa ạ, hãy cứ tiếp tục nghĩ tới việc này. Nhưng Ivor đã trở lại đây rồi, trông ông ấy không vui chút nào.”

Ivor sải bước vào nhà, thở nặng nhọc rồi ngồi xuống một chiếc ghế rộng chất đầy da thú, thả cho cây trượng rơi lạch cạch xuống bên chân. “Một thằng ranh ngu ngốc thề rằng nó thấy một con quỷ sứ trèo lên phía bên ngoài hàng rào và đang ngó nghiêng xuống từ trên đỉnh hàng rào. Một sự chấn động mới to lớn làm sao, chẳng cần nói các bạn cũng biết, tất cả những gì tôi có thể làm là cắt cử một nhóm ra xem sự thật có phải như vậy hay không. Tất nhiên là chỗ thằng ranh chí tới chẳng có gì khác ngoài bầu trời đêm, thế mà nó cứ tiếp tục bảo rằng con quỷ sứ trên đó vẫn đang nhìn xuống chỗ chúng tôi, thế là cả đám còn lại co rúm lại sau tôi như một lũ trẻ con cầm cuốc với giáo trong tay. Thế rồi thằng ngốc thú nhận nó ngủ gật khi canh gác và mơ thấy quỷ sứ, nhưng liệu nghe xong thế bọn họ có vội vã trở về vị trí hay không? Họ vẫn sợ chết khiếp, tôi phải thề sẽ nện cho một trận nhừ tử, cho tới khi chính người thân của họ nhầm tưởng họ là một đống thịt cừu.” Ông đưa mắt nhìn quanh, vẫn tiếp tục thở nặng nhọc. “Hãy thứ lỗi cho vị chủ nhà này, các bạn của tôi ạ. Tôi sẽ ngủ trong căn phòng bên trong kia nếu có ngủ được chút nào đêm nay, các bạn cứ tự nhiên sao cho thật thoải mái nhé, mặc dù tôi cũng chẳng có là bao để mời các bạn.”

“Ngược lại thì có, thưa ông,” Axl nói, “ông đã cho chúng tôi một chỗ nghỉ chân thực êm ái tuyệt vời và chúng tôi rất lấy làm biết ơn vì điều đó. Tôi rất tiếc ông đã bị kéo ra khỏi nhà không phải vì một tin tức gì tốt đẹp.”

“Cứ phải chờ thôi, có khi phải tới khuya hoặc tới tận sáng cũng nên. Các bạn đang trên đường đi đâu vậy?”

“Ngày mai chúng tôi sẽ lên đường nhằm hướng Đông, thưa ông, tới làng của con trai mình, nó đang nóng lòng chờ chúng tôi ở đó. Nhưng có việc này chắc ông sẽ giúp được chúng tôi, chẳng là tôi và vợ tôi đang tranh cãi xem đi đường nào là tốt nhất. Chúng tôi nghe nói có một vị thầy tu thông thái tên là Jonus ngụ tại một tu viện trên con đường chạy trên núi, chúng tôi muốn được thỉnh giáo ông ấy về một vấn đề nho nhỏ.”

“Jonus hẳn nhiên là một cái tên được tôn kính rồi, mặc dù chính tôi chưa bao giờ được diện kiến ông ấy. Bằng giá nào cũng nên tìm gặp ông ấy, nhưng hãy nhớ điều này, đường lên tu viện không dễ đi chút nào. Gần như cả ngày các bạn sẽ phải trèo dốc đứng. Và khi cuối cùng lối đi trở nên bằng phẳng, lại phải chú ý để không lạc đường, vì đó là lúc bạn sẽ bước chân vào vùng của Querig.”

“Querig, con rồng cái ư? Đã lâu lắm rồi tôi không nghe thấy ai nhắc đến nó. Dân vùng này vẫn sợ nó lắm sao?”

“Nó hầu như không bao giờ xuống núi nữa,” Ivor nói. “Cho dù cũng có lúc nó chợt nảy ra ý thích tấn công người đi đường, nhưng người ta thường hay đổ tội cho nó trong khi kẻ tấn công thực sự lại là lũ thú hoang hoặc bọn cướp đấy thôi. Cứ như tôi thấy thì mối đe dọa của Querig đến từ sự hiện diện dai dẳng của nó nhiều hơn là từ những hành động của nó. Một khi nó vẫn còn tự do sống ngoài kia, mọi hành vi xấu xa vẫn tiếp tục lây lan khắp vùng như căn bệnh dịch hạch vậy. Cứ nghĩ đến hai con quỷ giáng họa xuống chúng ta đêm nay mà xem. Chúng từ đâu đến? Chúng không chỉ là quỷ ăn thịt người. Không một ai ở đây thấy thứ gì như chúng bao giờ. Tại sao chúng lại tới đây, rình bên bờ sông của chúng ta? Có thể Querig rất hiếm khi xuất hiện, nhưng những thế lực đen tối đều bắt nguồn từ nó và thật ô nhục làm sao khi bao nhiêu năm tháng đã trôi qua mà chưa ai tiêu diệt được nó.”

“Nhưng Ivor này,” Beatrice nói, “liệu ai dám thách thức một con thú dữ như vậy chứ? Dù thế nào đi chăng nữa thì Querig vẫn là một con rồng vô cùng hung dữ, lại ẩn náu ở một địa hình phức tạp.”

“Bà nói đúng lắm, Beatrice ạ, đó là một nhiệm vụ khó nhằn. Chuyện là có một hiệp sĩ lớn tuổi còn sót lại từ thời Vua Arthur, nhiều năm về trước đã được lệnh của vị vua vĩ đại này phải lên đường giết Querig. Nếu đi theo con đường trên núi, rất có thể các bạn sẽ gặp ông ta. Không dễ nhầm ông ta với ai khác, ông ta mặc một chiếc áo giáp đã hoen gỉ, cưỡi trên lưng một con chiến mã mệt mỏi, luôn hăm hở tuyên bố sứ mệnh thiêng liêng của mình, cho dù tôi đoán rằng ông già ngốc nghếch chưa bao giờ làm gì khiến con rồng cái ấy lo lắng dù chỉ trong giây lát. Rồi chúng ta sẽ già khụ trong đợi chờ cho tới ngày ông ta hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhưng nhất định rồi, các bạn ạ, hãy lên đường tới tu viện, có điều phải thận trọng và đảm bảo kiếm được một nơi trú chân an toàn trước khi màn đêm buông xuống.”

Ivor toan bước chân vào phòng trong, nhưng Beatrice vội ngồi dậy nói:

“Ivor này, lúc nãy ông có nói về màn sương phủ. Có nói rằng ông đã nghe nhắc đến nguyên nhân gây ra nó, nhưng đúng lúc ấy lại bị gọi ra ngoài trước khi kịp nói thêm gì đó. Chúng tôi đương rất mong được nghe ông nói về vấn đề này.”

“À, màn sương phủ ấy hả. Một cái tên hay đấy. Ai mà biết được có bao nhiêu phần sự thực trong những gì người ta nói cho chúng ta nghe, hả bà Beatrice? Tôi đoán là mình có nhắc tới người lạ mặt cưỡi ngựa qua vùng của chúng tôi năm ngoái và trú chân ở đây. Anh ta từ miền đầm lầy đến, giống như vị khách quả cảm của chúng ta đêm nay, mặc dù anh ta dùng một thứ ngôn ngữ địa phương thường rất khó hiểu. Tôi mời anh ta tới nghỉ tại ngôi nhà nghèo nàn này, cũng như tôi đã mời các bạn vậy, và suốt buổi tối chúng tôi đã trò chuyện về rất nhiều vấn đề, trong đó có màn sương này, gọi theo cái tên rất thích hợp các bạn đặt cho nó. Anh ta rất quan tâm tới mối ưu phiền kỳ lạ này của chúng tôi và cứ hỏi đi hỏi lại. Rồi anh ta mạo muội nêu lên một điều gì đó khi ấy tôi lập tức gạt đi, nhưng kể từ đó đã suy nghĩ thêm rất nhiều. Người lạ mặt cho rằng có lẽ chính Chúa đã lãng quên rất nhiều điều về quá khứ của chúng ta, về những sự kiện đã xảy ra từ xa xưa, về những gì mới xảy ra trong cùng ngày hôm ấy. Và nếu một sự kiện gì đó không còn hiện diện trong tâm trí của Chúa, cơ hội cho nó tồn tại trong trí óc con người được là bao?”

Beatrice trân trân nhìn Ivor. “Chẳng lẽ lại như vậy được sao, ông Ivor? Mỗi chúng ta đều là một đứa con yêu quý của Người. Làm sao Chúa lại quên những gì chúng ta đã làm và những gì đã từng xảy ra với chúng ta được chứ?”

“Đó cũng chính là câu hỏi của tôi, bà Beatrice ạ, và người lạ mặt không đưa ra được câu trả lời nào hết. Nhưng kể từ ngày ấy, tôi cứ nghĩ mãi về những gì anh ta nói. Có lẽ đó là một cách giải thích hợp lý cho cái mà hai ông bà gọi là màn sương phủ. Giờ thì xin phép hai bạn, tôi phải đi nghỉ một lát.”

*

Axl nhận ra Beatrice đang lay vai mình. Ông không biết họ đã ngủ bao lâu: trời vẫn tối, nhưng bên ngoài có những tiếng ồn ào và ông nghe thấy tiếng Ivor từ đâu đó trong nhà: “Hãy cầu nguyện để đây là tin tốt lành chứ không phải tận thế của chúng ta.” Nhưng khi Axl ngồi dậy, vị chủ nhà đã kịp đi mất, còn Beatrice thì đang nói: “Nhanh lên, Axl, để ra xem chuyện gì.”

Mắt vẫn còn mờ vì chưa tỉnh ngủ hẳn, ông luồn tay qua tay vợ và hai người loạng choạng ra ngoài trời đêm. Thêm rất nhiều ngọn đuốc đã được thắp lên, vài ngọn đang cháy sáng rực trên tường thành, khiến cho việc tìm đường đi lối lại giờ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tứ phía là người đi lại, chó sủa và trẻ con khóc. Thế rồi, như có một bàn tay vô hình sắp đặt, Axl và Beatrice bỗng thấy họ nhập vào một đoàn người vội vã hướng về cùng một phía. Đoàn người đột ngột dừng lại và Axl thực ngạc nhiên khi chưa gì đã thấy mình đứng ở hội trường - rõ ràng là từ nhà Ivor ra đây có một lối đi khác ngắn hơn so với lối họ đi lúc nãy. Đám lửa đang rực cháy dữ dội hơn bao giờ hết, đến mức Axl đã thoáng nghĩ sức nóng do lửa tỏa ra chính là nguyên nhân khiến dân làng dừng bước. Nhưng khi đưa mắt nhìn qua nhiều hàng người trước mặt, ông thấy người chiến binh đã quay về. Cậu ta đang đứng khá bình tĩnh ở đằng kia, phía bên trái đám lửa, nửa người sáng trong ánh lửa, nửa kia chìm trong bóng tối. Nửa mặt được chiếu sáng của cậu ta phủ đầy một thứ Axl nhận ra là những đốm máu li ti, như thể cậu ta vừa đi qua một đám bụi máu. Mặc dù vẫn được buộc nhưng mái tóc dài của cậu ta đã xổ ra phần nào, trông có vẻ ẩm ướt. Quần áo cậu ta mặc dính đầy bùn đất và có lẽ cả máu nữa, chiếc áo choàng khoác hờ một bên vai lúc lên đường giờ đây đã rách lỗ chỗ. Nhưng dường như cậu ta không mang thương tích gì và lúc này đang kín đáo nói chuyện với ba vị lão làng, một trong số đó chính là Ivor. Axl còn thấy người chiến binh đang giữ một vật gì đó ở chỗ gập khuỷu tay nữa.

Trong lúc đó, những tiếng reo hò bắt đầu vang lên, thoạt đầu còn nhỏ nhẹ, sau đó cứ tiếp tục theo đà lớn dần, cho đến khi cuối cùng người chiến binh cũng xoay người ra sau để đón nhận sự cổ vũ. Thái độ của cậu ta không hề nghênh ngang vênh váo. Khi bắt đầu nói chuyện với đám đông, mặc dù giọng cậu ta đủ lớn cho tất cả mọi người đều nghe rõ, nhưng không hiểu bằng cách nào đó lại cho người nghe cảm giác cậu ta đang thấp giọng trò chuyện thực mật thiết, quả là thích hợp với những vấn đề nghiêm trọng như thế này.

Các thính giả nín lặng nuốt lấy từng lời và chẳng mấy chốc, câu chuyện của cậu ta đã thu hút được những tiếng thốt ra hoặc vì kinh ngạc hoặc tỏ rõ sự tán thành. Có một lúc, cậu ta đưa tay chỉ vào một chỗ ngay sau lưng mình và lần đầu tiên Axl để ý thấy hai người đàn ông đi cùng người chiến binh, lúc ấy đang ngồi trên đất trong quầng sáng của ánh lửa. Trông như thể họ vừa ngã xuống từ trên cao và choáng váng tới mức không tài nào đứng dậy nổi. Đám đông bắt đầu hoan hô họ, nhưng cả hai người có vẻ chẳng hề để ý gì, vẫn chỉ ngồi trân trân nhìn ra khoảng không trước mặt.

Người chiến binh quay lại nhìn đám đông rồi nói gì đó khiến những tiếng reo hò lắng dần. Cậu ta bước lại gần đám lửa, một tay túm chặt lấy vật thể vẫn đang mang theo mình rồi giơ lên.

Những gì Axl trông thấy giống như đầu của một sinh vật có một cái cổ dày đã bị cắt rời ngay dưới họng. Những đám tóc xoăn sẫm màu từ đỉnh đầu phủ quanh một bộ mặt quái dị không còn tí đường nét nào: chỗ trước đây vốn là mắt, mũi và mồm giờ chỉ còn là một mảng thịt nổi đầy nhọt, giống như da ngỗng, với vài túm lông mọc rủ xuống từ hai má. Đám đông rên lên một tiếng và Axl thấy ai cũng co rúm cả lại. Chỉ đến lúc ấy, ông mới nhận ra cái họ đang nhìn hoàn toàn không phải là đầu mà chỉ là một phần vai và cánh tay phía trên của một sinh vật giống hình người nhưng to lớn khác thường. Thực ra người chiến binh đang giơ lên chiến lợi phẩm là một khúc bắp tay dính với vai, và đúng vào lúc đó, Axl nhận ra thứ mà ông tưởng là những đám tóc lại chính là gân lòng thòng từ vết chém cắt lìa đoạn thân này khỏi cơ thể con vật.

Ngay sau đó, người chiến binh hạ chiến lợi phẩm xuống rồi để nó rơi xuống chân, như thể tới giờ mới gom đủ sự khinh miệt đối với phần cơ thể còn lại của con vật ấy. Đám đông một lần nữa co rúm đoạn lại nhích dần tới, rồi những tiếng hò reo lại vang lên. Nhưng lần này tiếng reo nhanh chóng tắt lịm khi người chiến binh tiếp tục cất lời, và mặc dù không hiểu dù chỉ một từ nhưng Axl vẫn cảm nhận rõ ràng trạng thái kích động đầy căng thẳng quanh ông. Beatrice nói vào tai Axl:

“Người anh hùng của chúng ta đã giết chết cả hai con quái vật. Một con mang vết thương chí mạng chạy vào rừng và sẽ không thể qua khỏi đêm nay. Con kia ở lại chống cự và để bắt nó đền tội, người chiến binh đã mang về đây phần cơ thể của nó như anh thấy đang nằm trên mặt đất kia. Phần còn lại của con quỷ sứ đã bò xuống hồ hòng làm tê dịu đi cơn đau rồi chìm nghỉm dưới nước hồ tối sẫm. Thằng bé con, Axl ạ, anh có nhìn thấy thằng bé ở chỗ kia không?”

Ở gần rìa ngoài quầng sáng từ đám lửa, một nhóm nhỏ mấy phụ nữ đang túm tụm quanh một cậu bé gầy còm có mái tóc sẫm màu ngồi trên một tảng đá. Cậu bé cao gần bằng một người trưởng thành, nhưng dưới tấm chăn đang quấn quanh người kia, ai cũng có thể thấy bên trong vẫn chỉ là dáng người cao lênh khênh và vụng về của một cậu con trai. Một phụ nữ đã mang ra một thùng nước và đang gột rửa những mảng ghét cáu bẩn trên mặt và cổ cậu, nhưng dường như cậu bé không hề để ý. Mắt cậu đang dán chặt vào lưng người chiến binh đứng ngay trước mặt mình, cho dù thỉnh thoảng cậu lại nghiêng đầu sang một bên, như thể đang cố vòng qua chân người chiến binh mà nhìn tới cái vật thể đương nằm trên mặt đất.

Axl ngạc nhiên khi cảnh cậu bé mới được giải cứu, còn sống và rõ ràng không bị thương tích gì nghiêm trọng, không hề khiến ông cảm thấy nhẹ nhõm hay mừng vui, mà chỉ mang lại trong ông một cảm giác bất an mơ hồ nào đó. Thoạt đầu, ông nghĩ chắc hẳn đó là do thái độ kỳ cục của thằng bé, nhưng rồi ông chợt nhận ra vấn đề thực sự: có một điều gì đó không bình thường trong cách dân làng đón nhận thằng bé, người mà mới đây thôi sự an nguy còn là tâm điểm chú ý của ca cộng đồng. Một thái độ dè dặt, gần như lạnh lùng, gợi Axl nhớ lại sự việc xảy ra với cô bé Marta ở làng, khiến ông tự hỏi không biết có phải cậu bé này, cũng như Marta, đang dần bị lãng quên. Nhưng chuyện này không thể xảy ra ở đây. Mọi người ngay lúc này đang chỉ trỏ về phía thằng bé, còn những phụ nữ đang chăm sóc cho cậu thì đang nhìn đám đông với thái độ đầy phòng vệ.

“Em không kịp hiểu họ đang nói gì nữa, Axl ạ,” Beatrice nói vào tai ông. “Đang cãi cọ gì đó về thằng bé, mặc dù ai cũng nhẹ nhõm hết cả người khi thằng bé trở về an toàn còn nó thì vẫn bình tĩnh đến lạ sau những gì đôi mắt con trẻ của nó phải chứng kiến.”

Người chiến binh vẫn đang nói chuyện với đám đông, có thể thấy giọng nói của cậu ta đã mang vẻ nài xin. Hình như cậu ta đang đưa ra một lời buộc tội, và Axl thấy sự thay đổi thái độ của đám đông. Cảm giác biết ơn và kính sợ đang dần nhường chỗ cho một cảm xúc khác, còn có cả sự bối rối, thậm chí là hoảng sợ trong những tiếng quát tháo ầm ĩ đang dâng lên quanh ông. Người chiến binh lại nói, giọng nghiêm khắc, đưa tay về phía sau chỉ vào thằng bé. Thế rồi Ivor xuất hiện trong ánh lửa và dừng lại sau lưng người chiến binh, ông nói gì đó khiến những tiếng lầm rầm phản đối từ một bộ phận trong đám đông có phần nào bớt đi. Một người sau lưng Axl gào lên một câu gì đó, thế là những tiếng cãi cọ lại bùng lên từ cả tứ phía. Ivor nói thật to và mọi người lại im lặng được một chút, chỉ để ngay lập tức những tiếng quát tháo lại nổi lên, giờ thì những bóng đen còn chen lấn xô đẩy lẫn nhau.

“Ôi, Axl này, hãy nhanh chân đi khỏi đây thôi!” Beatrice thốt lên vào tai chồng. “Đây không phải chỗ dành cho chúng ta.”

Axl đưa tay ôm vai vợ và bắt đầu chen chân tìm đường thoát, nhưng một điều gì đó khiến ông phải ngoái nhìn một lần nữa. Tháng bé vẫn ngồi nguyên như cũ và trân trân nhìn vào lưng người chiến binh, hình như không nhận thấy cảnh náo loạn đang diễn ra ngay trước mắt. Nhưng những phụ nữ lúc nãy chăm sóc cho nó giờ đã lùi lại vài bước và đang lưỡng lự hết nhìn thằng bé lại nhìn đám đông. Beatrice kéo mạnh tay ông. “Axl, em xin anh đấy, hãy đưa chúng ta thoát khỏi chỗ này. Em sợ rồi chúng ta sẽ bị vạ lây mất.”

Hẳn là cả làng đã tập trung hết tại hội trường, vì chẳng hề có một bóng người trên đường họ quay trở lại nhà Ivor. Chỉ tới khi đã nhìn thấy ngôi nhà, Axl mới hỏi: “Họ vừa nói những gì thế, công chúa của anh?”

“Em không biết chắc cho lắm, Axl ạ. Có quá nhiều điều dồn dập cùng một lúc nên em không thể hiểu cho hết. Họ cãi nhau về thằng bé mới được cứu sống và bắt đầu mất bình tĩnh. Thật may là chúng ta đã thoát được, rồi chúng ta sẽ biết chuyện gì đã xảy ra thôi.”

*

Sáng ra khi Axl thức dậy, những tia nắng mặt trời đang rọi sáng khắp phòng. Ông đang nằm trên nền nhà, nhưng đã ngủ cả đêm trên một chiếc giường lót thảm mềm mại dưới lớp chăn ấm áp - thực là một sự sắp đặt tiện nghi hơn những gì vốn quen thuộc trong cuộc sống của ông - đôi chân mệt mỏi của ông đã được nghỉ ngơi ra trò. Hơn thế nữa, ông còn cảm thấy tinh thần thật sảng khoái, vì ông tỉnh dậy đúng lúc một kỷ niệm dễ chịu đang vấn vương trong tâm trí.

Beatrice cựa quậy bên cạnh nhưng mắt vẫn nhắm nghiền và hơi thở vẫn đều đặn. Axl ngắm vợ, như vẫn thường làm vào những lúc như thế này, chờ đợi một tình cảm vui sướng dịu dàng dâng lên trong ngực. Đúng như ông mong muốn, cảm giác này đến ngay sau đó, nhưng hôm nay trong đó còn vương cả một chút buồn. Điều này khiến Axl ngạc nhiên, ông nhẹ đưa tay vuốt vai vợ, như thể mong rằng làm như vậy sẽ xua đuổi được bóng đen u ám.

Ông nghe thấy tiếng người ngoài kia, nhưng không giống những tiếng ồn đã đánh thức hai vợ chồng đêm qua, đây là âm thanh của cuộc sống vào một buổi sáng bình thường. Ông chợt nhận ra mình và Beatrice đã dại dột mà ngủ dậy quá muộn, nhưng ông vẫn không muốn đánh thức Beatrice dậy mà cứ tiếp tục ngồi đó ngắm bà. Mãi rồi ông cũng nhẹ nhàng đứng dậy, bước lại gần cánh cửa ra vào làm bằng gỗ và đẩy nhẹ cho nó mở ra một chút. Cánh cửa này - nếu có bản lề gỗ thì cũng sẽ là một cánh cửa “hẳn hoi” - kẽo kẹt kêu và ánh nắng tràn vào phòng qua khe hở, nhưng Beatrice vẫn ngủ yên. Hơi lo lắng, Axl quay trở lại chỗ bà đang nằm và cúi xuống gần vợ, cảm giác cứng nhắc khó nhọc ở hai đầu gối hiện rõ. Cuối cùng thì Beatrice cũng mở mắt ra nhìn chồng.

“Đã đến lúc dậy rồi, công chúa ạ,” ông nói, cố giấu đi cảm giác nhẹ nhõm. “Cả làng đã bận rộn ngoài kia, ông chủ nhà của chúng ta đã đi đâu mất từ bao giờ rồi ấy.”

“Lẽ ra anh nên đánh thức em dậy từ nãy mới phải, Axl ạ.”

“Nhìn em ngủ thật thanh thản, và sau một ngày dài như hôm qua, anh cứ nghĩ em muốn ngủ thêm nữa. Anh biết mình đã đúng, vì bây giờ nhìn em tươi tắn như một cô gái trẻ.”

“Anh lại đã bắt đầu nói năng linh tinh rồi đấy, trong khi chúng ta thậm chí còn chưa biết đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Những âm thanh ngoài kia cho em biết họ vẫn chưa nện nhau thành bột nhão. Nghe có vẻ bọn trẻ con và lũ chó ngoài kia đã được ăn uống no say và đang vui sướng. Alx này, không biết trong nhà có nước để rửa mặt không nhỉ?”

Một lát sau đó, sau khi đã cố gắng hết sức ăn mặc sao cho thật chỉnh tề - trong khi Ivor vẫn đi đâu chưa quay lại - hai vợ chồng ra khỏi nhà và đi lang thang ngoài trời trong làn không khí khô lạnh tươi sáng vì muốn tìm gì đó để ăn. Với Axl, ngôi làng lúc này trông có vẻ khoan dung hơn rất nhiều. Những căn lều tròn trong bóng đêm dường như nằm lộn xộn bừa bãi khắp nơi thì nay xếp thành những hàng dài ngay ngắn trước mặt, bóng của chúng đều đặn ngả xuống mặt đất tạo thành một lối đi gọn gàng xuyên suốt ngôi làng. Rất nhiều người, cả nam lẫn nữ, mang dụng cụ và chậu giặt hối hả đi lại khắp nơi, với một lũ trẻ con chạy theo đuôi. Mặc dù nhiều đến độ không đếm xuể nhưng lũ chó có vẻ ngoan ngoãn dễ bảo. Cảnh một con lừa đang khoái chí ị bậy trong ánh nắng mặt trời trước một giếng nước là điều duy nhất nhắc Axl nhớ tới sự lộn xộn của nơi này đêm qua khi họ mới tới. Dân làng thậm chí còn gật đầu hay kín đáo chào khi họ đi qua, mặc dù không ai tiến xa tới mức bắt chuyện với hai người.

Họ mới đi được một đoạn ngắn thì đã trông thấy hai dáng người tương phản của Ivor và người chiến binh đứng đằng xa trên đường đương chụm đầu bàn bạc. Khi Axl và Beatrice tiến lại gần, Ivor lùi lại một bước và mỉm cười một cách e dè.

“Tôi không muốn đánh thức các bạn quá sớm,” ông nói với họ. “Nhưng tôi là một chủ nhà tồi và chắc hai bạn đang chết đói rồi. Đi theo tôi tới ngôi nhà cổ và tôi sẽ lo liệu để hai bạn được ăn uống đầy đủ. Nhưng đầu tiên, mời hai bạn gặp người hùng đêm qua của chúng ta. Hai bạn sẽ thấy cậu Wistan hiểu rõ ngôn ngữ của hai bạn mà chẳng gặp chút khó khăn gì.”

Axl quay về phía người chiến binh và cúi đầu chào. “Vợ chồng tôi rất hân hạnh được gặp một người dũng cảm, rộng lượng và thiện nghệ như cậu. Việc làm của cậu đêm qua thực là đáng nể.”

“Những gì cháu làm không có gì phi thường cả bác ạ, và kỹ năng của cháu cũng vậy.” Giọng nói của người chiến binh vẫn nhẹ nhàng như trước, ánh mắt cậu ta phảng phất một nụ cười. “Đêm qua cháu gặp may, hơn nữa, còn nhận được sự trợ giúp khéo léo của các bạn đồng hành dũng cảm.”

“Các bạn đồng hành mà cậu ấy vừa nhắc đến,” Ivor nói, “còn bận tự bôi nhọ thanh danh nên không thể tham gia trận chiến. Cậu ấy là người duy nhất tiêu diệt hai con quỷ sứ.”

“Thực vậy sao, thưa ông, hãy thôi không bàn tới chuyện này nữa.” Người chiến binh đã nói vậy với Ivor, còn lúc này cậu ta đang chăm chú nhìn Axl, như thể một vết gì đó trên mặt ông đã hoàn toàn thôi miên cậu ta.

“Cậu nói tiếng của chúng tôi rất tốt đấy cậu ạ,” Axl nói, sửng sốt khi bị soi xét kỹ lưỡng.

Người chiến binh vẫn tiếp tục nhìn Axl thật kỹ, rồi như chợt nhận ra những gì mình đang làm, cậu ta liền phá lên cười to. “Hãy tha thứ cho cháu, thưa bác. Cháu cứ tưởng… Nhưng mong bác hãy tha thứ cho cháu. Cháu mang trong mình dòng máu Saxon chính cống, nhưng lớn lên ở một xứ không xa đây là mấy và thường xuyên sống với người Briton. Vì thế nên ngoài ngôn ngữ của mình, cháu còn nói được ngôn ngữ của các bác. Dạo này cháu cũng ít dùng hơn, vì cháu sống quá xa tít tận vùng đầm lầy, nơi người ta nghe thấy rất nhiều ngôn ngữ lạ nhưng trong đó không có tiếng của các bác. Vì thế, cháu mong các bác thông cảm nếu cháu mắc lỗi.”

“Hoàn toàn không phải thế, cậu ạ,” Axl nói. “Không ai có thể nhận ra đó không phải là tiếng mẹ đẻ của cậu. Thực tế là, đêm qua, tôi không thể không đế ý tới cách cậu đeo kiếm, sát vào người và cao phía trên eo hơn so với thói quen thường thấy của người Saxon, bàn tay cậu đặt trên chuôi kiếm uyển chuyến theo từng bước chân. Tôi hy vọng không khiến cậu bực mình khi nói đó là hiểu theo cách của người Briton.”

Wistan lại cười to. “Các bạn đồng hành người Saxon của cháu vẫn liên tục chế giễu không chỉ cách đeo kiếm mà cả cách cháu cầm kiếm nữa. Nhưng như bác thấy đấy, người Briton dạy cháu những kỹ năng này, và cháu không bao giờ ước được học từ bất kỳ ai khác. Những gì cháu học được đã bảo toàn tính mạng cho cháu qua biết bao hiểm nguy, và đêm qua lại một lần nữa giúp cháu. Hãy tha thứ cho sự mạo muội của cháu, thưa bác, nhưng cháu thấy là hai bác không phải người vùng này. Liệu có phải quê hương hai bác nằm đâu đó ở phía Tây?”

“Chúng tôi đến ngay từ vùng bên cạnh đây thôi, cậu ạ. Đi bộ mất không hơn một ngày đường.”

“Vậy có lẽ trước đây hai bác đã từng sống ở phía Tây cũng nên?”

“Như tôi đã nói, thưa cậu. Chúng tôi đến từ xứ bên cạnh đây thôi.”

“Hãy thứ lỗi cho cách xử sự kém cỏi của cháu. Đi xa về phía Tây thế này, cháu luôn thấy nỗi nhớ quê hương thời thơ ấu, mặc dù cháu biết quê mình vẫn còn cách đây một quãng đường khá xa. Cháu thấy khắp nơi dường như đều là những khuôn mặt nửa quen nửa lạ. Bác và bác gái chắc sáng nay sẽ trở về nhà hay chăng?”

“Không cậu ạ, chúng tôi sẽ đi về phía Đông, tới làng của con trai mình, chúng tôi hy vọng sẽ tới nơi sau hai ngày nữa.”

“A. Nghĩa là hai bác sẽ đi theo con đường xuyên qua rừng.”

“Thực ra thì, chúng tôi định sẽ đi theo con đường trên cao vượt qua các dãy núi, lối ấy đi qua nơi một người đàn ông thông thái sống trong một tu viện, hy vọng ông ta sẽ đồng ý cho chúng tôi gặp mặt.”

“Vậy sao?” Wistan gật đầu tư lự, một lần nữa lại nhìn kỹ Axl. “Cháu nghe nói đường đi đó dốc lắm.”

“Các vị khách của tôi vẫn chưa ăn sáng,” Ivor xen vào. “Cậu Wistan này, xin phép cậu cho tôi đưa họ tới chỗ ngôi nhà dài. Sau đó, nếu được, tôi muốn tiếp tục câu chuyện chúng ta đang bàn dở.” Ông hạ giọng rồi tiếp tục nói bằng tiếng Saxon và Wistan dáp lại bằng một cái gật đầu. Sau đó, quay sang Axl và Beatrice, Ivor lắc đầu nói một cách nghiêm trọng: “Bất chấp những nỗ lực lớn lao của cậu ấy đêm qua, mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Nhưng hãy đi theo tôi, các bạn của tôi, hẳn các bạn đang đói meo.”

Ivor bước đi, dáng người lắc lư, cây trượng nện thình thịch xuống đất theo từng bước chân. Dường như tâm trí ông đang quá rối bời nên không nhận thấy hai vị khách đã bị rớt lại phía sau trên những lối đi đông người. Đến lúc Ivor đã cách họ vài bước chân, Axl nói với Beatrice: “Người chiến binh ấy đúng là một chàng trai dễ mến, em có thấy vậy không công chúa của anh?”

“Không nghi ngờ gì,” bà nói khẽ. “Nhưng thật kỳ cục khi cậu ta cứ nhìn anh chằm chằm như thế, Axl ạ.”

Họ không kịp nói gì thêm nữa, vì khi nhận ra mình sắp bỏ rơi họ dọc đường, Ivor đã dừng lại chờ sẵn ở góc đường.

Chẳng bao lâu sau họ tới một khoảnh sân nhỏ chan hòa ánh nắng. Một đàn ngỗng đang lang thang trên sân, một dòng chảy nhân tạo cắt ngang khu đất - một kênh nước nông đào trong đất, nơi có dòng nước nhỏ hối hả chảy qua. Một cây cầu nhỏ đơn sơ xếp từ hai tảng đá phẳng được đặt tại điểm rộng nhất của kênh đào, trên một tảng khi ấy đang có một cậu con trai ngồi xổm giặt quần áo. Cảnh tượng ấy mang lại ấn tượng bình dị của một khúc đồng quê cho Axl, ông những muốn dừng bước để ngắm nhìn lâu hơn nữa nếu Ivor không tiếp tục kiên quyết dấn bước về phía ngôi nhà thấp lợp mái rạ dày chạy dọc hết phía xa của khu đất.

Bước chân vào bên trong, bạn sẽ thấy ngôi nhà này không khác gì mấy so với một bếp ăn mộc mạc rất nhiều người trong số các bạn từng thấy ở nơi này hay nơi khác. Có rất nhiều dãy bàn kèm ghế dài, và ở một đầu nhà là bếp và khu phục vụ. Điều khác biệt chủ chốt so với một nơi như thế của thời hiện đại chính là sự hiện diện khắp nơi của cỏ khô: cỏ khô trên đầu, dưới chân, và mặc dù không phải là một phần trong thiết kế nhưng cỏ khô còn phủ đầy trên các mặt bàn, bị những cơn gió mạnh thường xuyên quét qua nơi này thổi bay tứ tung. Vào một buổi sáng như sáng nay, khi hai nhà lữ hành của chúng ta ngồi xuống ăn sáng, ánh mặt trời chiếu vào qua những ô cửa sổ dạng như cửa sổ trên mạn tàu sẽ cho thấy trong phòng đầy những sợi cỏ khô li ti bay lả tả trên không.

Khi họ tới nơi, bên trong ngôi nhà dài không có lấy một bóng người, nhưng Ivor bước vào khu bếp và chỉ một lát sau, hai phụ nữ lớn tuổi xuất hiện với bánh mì, mật ong, bánh quy cùng hai bình sữa và nước. Đến lượt Ivor trở ra với một khay đựng thịt gia cầm đã được cắt sẵn thành miếng, Axl và Beatrice bắt đầu ngấu nghiến ăn một cách biết ơn.

Thoạt đầu họ lẳng lặng ăn, vì tới giờ mới nhận ra mình đã đói bụng đến mức nào. Ivor ngồi ở phía bên kia bàn, tiếp tục ủ ê nghiền ngẫm, mắt đăm chiêu nhìn xa xăm, một lúc lâu sau Beatrice mới nói:

“Những người Saxon này là một gánh nặng to lớn cho ông, Ivor ạ. Có lẽ ông đang ước được trở về sống với người cùng dòng máu với mình, khi mà giờ đây thằng bé đã trở về an toàn và bọn quỷ ăn thịt người đã bị tiêu diệt.”

“Đây không phải là quỷ ăn thịt người bà ạ, cũng chẳng phải bất cứ loài vật nào từng xuất hiện ở quanh đây. Nỗi kinh hoàng đã tan biến khi dân làng biết chúng không bao giờ còn lởn vởn phía ngoài cổng làng nữa. Nhưng thằng bé lại là chuyện khác. Đúng là nó đã trở về, nhưng còn lâu mới được an toàn.” Ivor nghiêng người qua mặt bàn về phía hai vợ chồng rồi hạ giọng, mặc dù một lần nữa lại chỉ có ba người bọn họ trong nhà. “Bà nói đúng lắm, bà Beatrice ạ, tôi vẫn tự hỏi tại sao mình lại chịu sống giữa những con người man rợ này. Thà sống trong hang chuột còn hơn. Liệu người lạ mặt quả cảm ấy sẽ nghĩ gì về chúng tôi, nhất là sau những gì cậu ấy đã làm đêm qua?”

“Tại sao, có chuyện gì thế hở ông?” Axl hỏi. “Chúng tôi có ra chỗ đám lửa đêm qua, nhưng khi thấy mọi người cãi cọ kịch liệt, chúng tôi đã bỏ đi và đến giờ vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Các bạn đã rất sáng suốt khi quyết định không ở lại, các bạn ạ. Những kẻ tối dạ kia đã bị kích động đến nỗi sẵn sàng móc mắt lẫn nhau. Tôi sợ đến nỗi chẳng dám nghĩ tới việc họ sẽ làm gì với một cặp khách lạ người Briton nếu họ thấy các vị đứng lẫn trong đám đông nữa. Thằng bé Edwin đã trở về an toàn, nhưng đúng lúc dân làng bắt đầu hân hoan trở lại, đám phụ nữ lại thấy một vết thương nhỏ trên người nó. Chính tôi đã kiểm tra cùng các già làng khác. Một vệt xước ngay dưới ngực nó, không khác gì vết xước sau khi một đứa trẻ bị ngã. Nhưng đám phụ nữ, chính là người nhà của thằng bé, lại tuyên bố đó là một vết cắn, và cả làng sáng nay đã gọi đó là vết cắn. Tôi đã phải khóa kín thằng bé lại trong nhà kho để giữ an toàn cho nó, nhưng mặc dù vậy, bạn bè của nó và chính người nhà của nó lại liên tục ném đá vào cửa, đòi đưa nó ra để giết.”

“Làm sao lại như vậy được hả Ivor?” Beatrice hỏi. “Có phải vì lớp sương mù che phủ ấy mà họ đã không còn nhớ chút nào những kinh hoàng thằng bé vừa mới phải trải qua?”

“Giá mà như vậy thì tốt quá bà ạ. Nhưng lần này, dường như họ lại nhớ quá rõ. Những kẻ tối dạ ấy không chịu nhìn đâu xa hơn sự mê tín dị đoan của mình. Họ cứ khăng khăng cho rằng nếu đã bị quỷ sứ cắn, chính thằng bé chẳng bao lâu sau sẽ biến thành một con quỷ và rồi gieo rắc kinh hoàng ngay tại đây, bên trong các bức tường làng. Họ sợ nó và nếu nó còn sống ở đây, nó sẽ phải chịu một số phận kinh khủng không kém số phận nó đã được cậu Wistan giải thoát khỏi đêm qua.”

“Ông này,” Axl nói, “chắc chắn ở đây có nhiều người đủ trí thông minh để thuyết phục họ hiểu ra lẽ phải chứ.”

“Nếu có thì chúng tôi cũng bị số đông đánh bại, và kể cả khi chúng tôi có thể ra lệnh cấm và ngăn cản được một hoặc hai ngày, lũ người dốt nát kia rồi sẽ tìm được cách làm những gì họ muốn mà thôi.”

“Vậy phải làm gì bây giờ, thưa ông?”

“Người chiến binh cũng kinh ngạc như hai bạn vậy, tôi và cậu ấy đã bàn bạc chuyện này suốt cả buổi sáng hôm nay. Mặc dù đòi hỏi này thật là quá đáng, nhưng tôi đã đề nghị cậu ấy mang thằng bé theo lúc cậu ấy cưỡi ngựa rời khỏi làng, rồi bỏ thằng bé lại ở một ngôi làng nào đó đủ xa, nơi nó có cơ hội sống một cuộc đời mới. Sâu thẳm trong thâm tâm, tôi thấy thật là xấu hổ khi đòi hỏi cậu ấy làm một việc như thế, nhất là ngay sau khi cậu ấy vừa mạo hiểm tính mạng cho chúng tôi, nhưng tôi không thể nghĩ ra cách nào khác nữa. Wistan đang suy nghĩ thêm về đề nghị này, cho dù cậu ấy còn phải hoàn thành một công việc được nhà vua giao phó và đã chậm trễ vì con ngựa và vì chuyện xảy ra đêm qua. Bây giờ tôi phải đi kiểm tra tình hình thằng bé, rồi xem liệu người chiến binh đã quyết định ra sao.” Ivor đứng dậy và cầm lấy cây trượng. “Nhớ đến chào từ biệt tôi trước khi các bạn lên đường nhé. Mặc dù có lẽ sau những gì tôi vừa kể, tôi cũng sẽ thông cảm thôi nếu các bạn muốn nhanh chân rời khỏi nơi này mà không một lần ngoái đầu nhìn lại.”

*

Axl nhìn theo khi Ivor ra khỏi cửa nhà và sải bước đi ngang qua khoảng sân đầy nắng. “Thực là một tin buồn, công chúa ạ,” ông nói.

“Thật buồn anh ạ, nhưng chẳng liên quan gì tới chúng ta. Đừng lãng phí thời gian ở đây nữa. Đường đi của chúng ta hôm nay sẽ rất dốc.”

Đồ ăn và sữa rất tươi ngon, họ tiếp tục ăn trong im lặng. Rồi Beatrice lại nói:

“Anh có tin không, hả Axl? Những gì Ivor nói đêm hôm qua về màn sương che phủ, rằng chính Chúa là người khiến chúng ta quên lãng.”

“Anh không biết phải nghĩ thê nào nữa, công chúa ạ.”

“Axl này, sáng nay em mới nghĩ ra điều này, lúc đi bộ trên đường làng.”

“Em nghĩ ra cái gì cơ, công chúa của anh?”

“Chỉ là một suy nghĩ thôi. Rằng có lẽ Chúa rất giận vì một việc nào đó chúng ta đã làm. Hoặc có thể không phải là tức giận, Chúa thấy hổ thẹn thì đúng hơn.”

“Một suy nghĩ kỳ lạ, công chúa ạ. Nhưng nếu đúng như những gì em nói, tại sao Người không trừng phạt chúng ta? Tại sao lại khiến chúng ta quên lãng như một lũ ngốc, cả những việc mới chỉ xảy ra một vài giờ trước?”

“Có thể Chúa quá hổ thẹn vì chúng ta, hoặc vì một việc nào đó chúng ta làm, nên Người ước giá mình tự quên đi được. Và như người lạ mặt đã nói với Ivor, khi Chúa không nhớ, thì quá dễ hiểu vì sao chúng ta cũng không thể nhớ nổi điều gì.”

“Nhưng chúng ta đã làm gì đến nông nỗi Chúa phải hổ thẹn đến vậy?”

“Em không biết Axl ạ. Nhưng nhất định không phải việc gì anh và em từng làm, vì Người vẫn luôn thương yêu chúng ta hết mực. Nếu chúng ta cứ cầu xin Người, cầu xin Người hãy nhớ lại ít nhất vài điều quý giá nhất đối với hai ta, ai mà biết được, có khi lời xin sẽ thấu tai Người và Người sẽ ban cho chúng ta điều ta mong ước.”

Một tràng cười nổ ra phía bên ngoài ngôi nhà. Nghiêng đầu một chút để nhìn, Axl trông thấy ngoài sân một lũ trẻ con đang chơi trò giữ thăng bằng trên hai tảng đá phẳng bắc ngang con kênh nhỏ. Trong khi ông quan sát, một đứa kêu ré lên khi ngã tòm xuống nước.

“Ai biết được hả công chúa,” ông nói. “Có lẽ vị thầy tu thông thái trên núi biết cách giải thích cho chúng ta nghe. Nhưng, khi em nhắc tới chuyện thức dậy hồi sáng nay, anh cũng chợt nghĩ tới một việc, biết đâu lại cũng đúng vào lúc em đang nghĩ tới chuyện này. Là một kỷ niệm, nhỏ thôi, nhưng cũng khiến anh thấy rất vui lòng.”

“Ôi Axl của em. Chuyện gì thế?”

“Anh nhớ tới lần hai ta đi chợ, hoặc cũng có thể là đi xem một hội chợ nào đó. Tại một ngôi làng lớn, nhưng không phải làng của chúng mình, hôm ấy em mặc chiếc áo choàng màu xanh lá cây nhạt có mũ đội đầu.”

“Hoặc đó là một giấc mơ hoặc chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, chồng của em ạ. Vì em không có cái áo choàng nào màu xanh hết.”

“Đúng là việc này xảy ra từ rất lâu rồi, công chúa ạ. Một ngày mùa hè, nhưng vẫn có những con gió lạnh nơi chúng ta ghé chân, em choàng chiếc áo quanh người, cho dù không đội mũ lên đầu. Một cái chợ, mà cũng có thể là một lễ hội. Ngôi làng ấy nằm ở sườn đồi, ngay khi vừa bước chân vào làng là thấy ngay một lũ dê được nhốt trong chuồng.”

“Thế chúng ta làm gì ở đó hả Axl?”

“Chúng ta cứ đi lang thang tay trong tay thôi, rồi sau đó một người lạ mặt, một người đàn ông là dân làng, bỗng dưng xuất hiện trên đường chúng ta đi. Anh ta đưa mắt nhìn em rồi cứ thế nhìn trân trân như thể đang ngắm một nữ thần vậy. Em có nhớ không, công chúa của anh? Một thanh niên, mà anh nghĩ hồi ấy chúng ta cũng vẫn còn trẻ. Rồi anh ta thốt lên, rằng chưa bao giờ được chiêm ngưỡng một cô gái nào xinh đẹp đến thế. Xong anh ta đưa tay ra chạm vào cánh tay em. Em có nhớ chút nào không, công chúa của anh?”

“Em cũng nhớ mang máng cái gì đó, nhưng không được rõ ràng cho lắm. Hình như anh đang nhắc đến cậu thanh niên say rượu thì phải.”

“Có lẽ cũng có say một chút, anh không biết nữa, công chúa ạ. Hôm ấy là một ngày hội, như anh đã nói. Dù sao thì, anh ta đã rất sửng sốt khi nhìn thấy em. Nói rằng em là người đẹp nhất trên đời anh ta từng gặp.”

“Vậy thì đúng là chuyện này đã xảy ra từ lâu lắm rồi! Có phải cuối cùng anh nổi ghen rồi cãi cọ với anh ta, đến nỗi hai ta gần như phải tháo chạy khỏi làng, đúng không?”

“Anh không nhớ có chuyện như thế, công chúa ạ. Chuyện anh đang nói đến là hôm em mặc áo choàng xanh, vào một ngày lễ hội, và anh chàng lạ mặt ấy, khi biết anh là người hộ tống em, đã quay sang anh mà nói, cô ấy là hình ảnh đáng yêu nhất đời mà tôi từng được thấy nên anh hãy chăm sóc cho cô ấy thật cẩn thận đấy nhé, anh bạn của tôi ạ. Anh ta nói thế đấy.”

“Em có nhớ một chút, nhưng em nhớ rõ là hôm ấy anh cãi nhau với anh ta vì ghen tuông mà.”

“Làm sao anh có thể làm một việc như thế chứ, trong khi ngay lúc này những lời nói của người lạ mặt vẫn khiến anh cảm thấy một nỗi tự hào dâng lên trong lòng? Hình ảnh đẹp nhất anh ta được thấy trên đời. Và anh ta bảo anh phải chăm sóc em cho thật tốt.”

“Axl này, anh thấy vừa tự hào vừa ghen tuông nữa. Chẳng phải anh đã cự lại anh ta, cho dù lúc ấy anh ta đang say rượu còn gì?”

“Anh không nhớ giống thế, công chúa ạ. Có thể anh chỉ tỏ ra ghen tuông để trêu chọc anh ta mà thôi. Nhưng hồi ấy anh biết anh ta không có ý gì xấu. Sáng nay anh đã tỉnh dậy trong kỷ niệm này, mặc dù chuyện đã xảy ra từ bao nhiêu năm trước.”

“Nếu anh nhớ như thế thì cứ coi như là thế đi, Axl nhỉ. Khi màn sương này còn che phủ quanh ta, nhớ được chuyện gì cũng là điều quý hóa cả và tốt nhất là chúng ta phải cố để không quên thêm một lần nữa.”

“Anh tự hỏi không biết chuyện gì xảy ra với cái áo choàng ấy. Em luôn giữ gìn nó rất cẩn thận.”

“Đó là một cái áo mà Axl. Cũng như bất cứ thứ quần áo nào khác, nó sẽ phải sờn dần theo năm tháng.”

“Có phải chúng ta đã đánh mất nó ở đâu đó? Bỏ quên trên một phiến đá trong nắng mặt trời chăng?”

“Giờ thì em nhớ rồi. Và em đã hờn trách anh vì mất cái áo.”

“Điều đó thì anh tin lắm, công chúa ạ, mặc dù giờ anh không thể hiểu nổi làm sao mà em lại đổ lỗi hết cả cho anh như vậy.”

“Ôi Axl này, nhớ được vài chuyện nhỏ như vậy cũng dễ chịu lắm rồi, cho dù là có màn sương che phủ hay không. Rất có thể Chúa đã nghe thấu những gì chúng ta cầu xin và đang vội tới đây giúp chúng ta nhớ lại mọi thứ.”

“Rồi chúng ta sẽ còn nhớ thêm được nhiều việc nữa, công chúa nhỉ, một khi chúng ta quyết tâm làm cho được. Rồi chẳng có người chèo thuyền ranh mãnh nào lừa nổi chúng ta, nếu như thực sự có một ngày chúng ta thèm quan tâm tới những câu chuyện huyên thuyên của anh ta. Nhưng thôi ăn cho xong đi nhỉ. Mặt trời đã lên cao, chúng ta đã muộn giờ lên đường chinh phục con đường dốc rồi đấy.”

*

Họ đang trên đường quay lại nhà của Ivor, và vừa đi qua nơi đêm hôm trước suýt bị hành hung thì họ nghe thấy tiếng gọi từ trên cao vọng xuống. Nhìn quanh, họ phát hiện thấy Wistan đang ngồi tại một bệ quan sát trên thành lũy tít trên cao.

“Rất vui khi thấy hai bác vẫn còn ở đây,” người chiến binh nói vọng xuống.

“Vẫn ở đây,” Axl gọi lên đáp, bước thêm vài bước về phía hàng rào. “Nhưng đang cố nhanh chân cho kịp thời gian. Còn cậu thì sao? Hôm nay cậu sẽ nghỉ ngơi cả ngày ở đây chứ?”

“Cháu cũng sớm lên đường thôi. Nhưng nếu bác đồng ý nói chuyện với cháu một chút, cháu sẽ rất lấy làm biết ơn. Cháu xin hứa sẽ không giữ chân bác lâu.”

Axl và Beatrice đưa mắt nhìn nhau, rồi Beatrice khẽ nói. “Nếu anh muốn, hãy nói chuyện với cậu ta. Em sẽ quay về nhà Ivor gói ghém đồ đạc.”

Axl gật đầu rồi quay trở lại gọi với lên chỗ Wistan, “Được thôi cậu ạ. Cậu có muốn tôi lên trên ấy không?”

“Nếu bác muốn, thưa bác. Cháu sẵn lòng trèo xuống, nhưng phong cảnh trên này trong một buổi sáng rực rỡ như sáng hôm nay sẽ làm tinh thần bác phấn chấn lên rất nhiều. Nếu bác không phiền chuyện leo thang, cháu mong bác hãy lên đây thưởng thức cảnh đẹp cùng cháu.”

“Lên xem cậu ta muốn gì, Axl ạ,” Beatrice nói nhỏ. “Nhưng cẩn thận đấy, và em không chỉ có ý nói tới riêng cái thang đâu.”

Axl cẩn thận trèo lên từng bậc thang một cho tới khi đến chỗ Wistan đang chìa tay ra đón. Axl đứng cho vững trên bệ quan sát hẹp rồi đưa mắt nhìn xuống chỗ Beatrice đang nhìn lên từ dưới kia. Chỉ sau khi ông đã vui vẻ vẫy tay chào, bà mới miễn cưỡng đi tiếp về nhà Ivor, nằm ở vị trí mà từ điểm quan sát thuận tiện trên cao này, Axl nhìn thấy rất rõ. Ông tiếp tục nhìn theo vợ thêm một lúc, sau đó quay lại đưa mắt nhìn qua hàng rào ra phía ngoài.

“Bác thấy cháu không hề nói ngoa chút nào đúng không, thưa bác,” Wistan nói khi họ đứng cạnh nhau, gió thổi vào mặt. “Phong cảnh thực rực rỡ ngút tầm mắt.”

Vạn vật trước mắt họ hôm ấy có lẽ cũng không khác là bao so với những gì người ta trông thấy khi nhìn từ các ô cửa sổ trên cao của một ngôi nhà ở làng quê nước Anh ngày nay. Hai người hẳn đã thấy, ở phía bên phải, những dải cây xanh đều đặn trải dài xuống theo sườn thung lũng, trong khi xa tít đằng kia ở bên tay trái, dọc sườn đồi bên kia phủ kín những rặng thông, mờ ảo vì khoảng cách xa khiến chúng như hòa lẫn trong bóng những rặng núi nằm phía chân trời. Hiện ra trong trẻo ngay trước mặt họ trên nền thung lũng là dòng sông nhẹ nhàng uốn khúc dọc theo dải đất rồi khuất xa khỏi tầm mắt, và xa hơn nữa là vùng đầm lầy trải dài hút mắt, điểm đây đó những hồ hay ao nước lớn nhỏ khác nhau. Dọc theo bờ sông hẳn còn có những cây đu cùng đám liễu rủ, hay những rừng cây dày đặc mà vào thời đó thường làm dấy lên linh tính báo hiệu là nơi chứa đựng đầy những điềm gở. Và ngay ở chỗ ánh mặt trời soi vào bóng râm phía bờ trái của dòng sông, hiện ra tàn dư của một ngôi làng đã hoang phế từ rất lâu đời.

“Hôm qua cháu đã cưỡi ngựa xuống sườn đồi kia,” Wistan nói, “con ngựa cái của cháu, chẳng chờ được nhắc nhở tự nhiên phi nước đại, cứ như hoàn toàn chỉ vì quá sung sướng. Chúng cháu phi qua các cánh đồng, đi ngang những hồ và sông, tinh thần cháu bay bổng. Thực là một điều lạ lùng, như thể cháu đang được quay trở lại với cảnh vật trong cuộc sống của mình ngày trước, cho dù cháu biết mình chưa bao giờ tới vùng này. Phải chăng cháu đã từng đi qua đây khi vẫn còn là một cậu bé, quá nhỏ không biết mình đang ở đâu, nhưng đã đủ lớn để ghi nhớ phong cảnh này? Cả cây cối lẫn vùng đất hoang phủ đầy thạch nam ở đây, đến cả bầu trời nữa, tất cả như gọi nhớ lại một ký ức đã bị lãng quên nào đó.”

“Có thể lắm,” Axl nói, “vùng này và vùng đất xa hơn ở phía Tây, nơi cậu sinh ra, có rất nhiều điểm tương đồng.”

“Hẳn là thế bác nhỉ. Ở vùng đầm lầy chỗ chúng cháu ở làm gì có núi đồi, còn cây cỏ thì không có được màu sắc như những gì đang trải ra trước mắt chúng ta đây. Nhưng chính trong lúc vui sướng phi nước đại ấy mà một miếng sắt bịt móng cho con ngựa của cháu bị vỡ, và mặc dù sáng nay dân làng tốt bụng đã thay bằng miếng sắt mới, cháu vẫn sẽ phải nương nhẹ vì một móng chân của nó bị sưng tím. Sự thật là, thưa bác, cháu mời bác lên đây không chỉ để thưởng thức phong cảnh thôn quê, mà để tránh xa khỏi tai vách mạch rừng khó chịu. Cháu cho là đến giờ, bác đã biết rõ chuyện gì xảy ra với thằng bé Edwin?”

“Ông Ivor có kể cho chúng tôi nghe, chúng tôi thấy thực đáng buồn khi sự can thiệp quả cảm của cậu lại mang đến một kết quả như thế.”

“Có lẽ bác cũng đã biết các già làng ở đây, vì quá tuyệt vọng khi nghĩ tới những gì sẽ xảy ra cho thằng bé nếu nó ở lại làng, đã thiết tha đề nghị cháu mang nó theo ngay trong hôm nay. Họ đề nghị cháu bỏ thằng bé lại một làng nào đó thật xa nơi này, nói với dân làng cháu đã tìm thấy thằng bé đi lạc và đói bụng trên đường. Cháu vui lòng mà làm theo những gì họ nói, có điều cháu sợ rằng một kế hoạch như thế cũng chẳng cứu được nó. Tin đồn sẽ lan đi nhanh chóng giữa các vùng và chỉ tháng sau hoặc năm sau, thằng bé sẽ rơi vào cảnh ngộ hệt như hôm nay, thậm chí còn tệ hại hơn vì tội khi mới đến đã không cho họ biết. Bác có hiểu cho cháu không, thưa bác?”

“Cậu thật sáng suốt khi biết lo tới một kết cục như thế, cậu Wistan ạ.”

Người chiến binh nói những điều này trong khi mắt vẫn đang ngắm phong cảnh đằng xa, đưa tay hất một lọn tóc rối gió thổi bay vào mặt. Vừa làm việc này, hình như cậu ta chợt nhận thấy điều gì đó trên nét mặt của Axl nên thoáng quên biến chuyện mình đang nói tới. Cậu ta nghiêng đầu chăm chú nhìn Axl. Rồi cậu ta khẽ cười mà nói:

“Hãy tha thứ cho cháu, thưa bác. Cháu vừa chợt nhớ tới một việc. Nhưng quay trở lại với vấn đề lúc nãy. Cháu hoàn toàn không quen biết cậu bé này trước đêm qua, nhưng sự vững vàng của thằng bé khi phải đối mặt với từng nỗi kinh hoàng xảy ra với chính nó khiến cháu rất ấn tượng. Hai bạn đồng hành của cháu, mặc dù rất dũng cảm khi mới lên đường nhưng đã bị nỗi sợ lấn át khi tới gần hang ổ của hai con quỷ sứ. Nhưng thằng bé thì lại khác, cho dù tính mệnh hoàn toàn do lũ quỷ định đoạt nhưng vẫn giữ được bình tĩnh tới mức cháu phải tự hỏi không hiểu sao nó làm được như thế. Cháu rất đau lòng khi cho rằng số phận của nó thế là đã định. Vì thế, cháu cứ ngồi cố nghĩ cách giải quyết viêc này, và nếu bác cùng người vợ tốt bụng của bác đồng ý giúp một tay thì có lẽ mọi chuyện sẽ ổn thỏa.”

“Chúng tôi sẵn sàng làm những gì có thể, cậu ạ. Hãy cho tôi biết cậu muốn gì.”

“Khi các già làng đề nghị cháu đưa thằng bé tới một làng khác cách xa đây, cháu biết ý họ nói tới một ngôi làng của người Saxon. Nhưng chính xác là, thằng bé sẽ không bao giờ an toàn tại một ngôi làng của người Saxon, vì điều mê tín dị đoan về vết cắn trên người thằng bé chỉ có trong người Saxon. Tuy nhiên, nếu bỏ thằng bé lại với người Briton, những người thấy điều mê tín này là trò vớ vẩn, thì sẽ không có nguy hiểm gì, kể cả khi câu chuyện này vẫn đuổi theo chân thằng bé. Nó là một thằng bé khỏe mạnh, và như cháu nói rồi đấy, dũng cảm một cách đặc biệt, cho dù nó rất ít nói. Nó sẽ là một người được việc cho bất cứ cộng đồng nào ngay từ ngày đầu tiên nó xuất hiện. Giờ thì, thưa bác, lúc trước bác nói bác đang trên đường tới ngôi làng của con trai bác ở phía Đông. Cháu tin rằng đó cũng là một ngôi làng của người theo đạo Thiên Chúa. Nếu bác và bác gái có lòng bênh vực cậu bé, và có thể nếu được con trai của hai bác nói giúp, thì chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp. Tất nhiên, rất có thể cũng chính những người tốt bụng ấy sẽ đón nhận thằng bé từ tay cháu, nhưng cháu là một kẻ lạ mặt, một kẻ thường mang tới sợ hãi và nghi ngại. Hơn nữa, công việc cháu phải làm, thứ đã đưa chân cháu tới vùng này, không cho cháu cơ hội được đi thực xa về phía Đông.”

“Vậy ý cậu muốn,” Axl nói, “tôi và vợ tôi đưa thằng bé đi khỏi nơi này.”

“Đó đúng là ý của cháu bác ạ. Tuy nhiên, công việc cháu phải làm sẽ cho phép cháu đi cùng đường với hai bác, ít nhất là một đoạn. Bác nói bác sẽ đi theo con đường trên núi. Cháu sẵn lòng hộ tống hai bác và thằng bé, ít nhất là tới khi sang sườn núi bên kia. Sự có mặt của cháu thật là một sự đòi hỏi quá đáng và tẻ nhạt, nhưng mấy ngọn núi kia đã có tiếng là hiểm nguy, và ngọn kiếm của cháu chắc sẽ có dịp được phục vụ hai bác. Con ngựa cũng có thể mang hộ đồ đạc cho hai bác, vì nó sẽ không phàn nàn gì hết cho dù chân đang đau. Bác thấy thế nào, thưa bác?”

“Tôi thấy đây là một kế hoạch tuyệt vời. Tôi và vợ rất buồn khi nghĩ tới cảnh ngộ của thằng bé và chúng tôi rất vui lòng nếu có thể giúp giải quyết chuyện này. Những gì cậu nói quả là sáng suốt, cậu ạ. Nhất định rồi, thằng bé sẽ được an toàn tối đa giữa người Briton. Tôi hoàn toàn không hồ nghi gì, thằng bé sẽ được đối đãi ân cần tại làng của con trai tôi, vì chính con trai tôi là một người được tôn trọng ở đó, thực tế là trong số những người cỡ tuổi nó, chỉ có nó được coi là một già làng thôi đấy. Tôi biết nó sẽ lên tiếng bênh vực thằng bé và đảm bảo nó được đón tiếp tử tế ở đó.”

“Cháu thấy thật nhẹ nhõm trong lòng. Cháu sẽ cho già làng Ivor biết kế hoạch của chúng ta rồi tìm cách đưa thằng bé ra khỏi khu nhà kho một cách êm thấm. Hai bác sẵn sàng lên đường ngay chứ?”

“Vợ tôi ngay lúc này đang gói ghém đồ đạc chuẩn bị lên đường.”

“Vậy hãy chờ cháu ở cổng phía Nam. Cháu với con ngựa và Edwin sẽ ra đó ngay. Cháu vô cùng cảm ơn bác, thưa bác, vì đã cùng cháu chia sẻ vấn đề này. Cháu cũng rất vui được làm bạn đồng hành với hai bác trong một hai ngày tới.”