Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Chương 2

Tuy thế, vẫn còn khá nhiều việc phải được thu xếp ổn thỏa rồi họ mới có thể lên đường. Trong một ngôi làng thế này, nhiều vật dụng cần thiết cho chuyến đi của họ - chăn gối, chai nước, bùi nhùi - đều thuộc sở hữu của cả cộng đồng và để được toàn quyền sử dụng ta phải nỗ lực thương thuyết với hàng xóm láng giềng. Hơn thế nữa, mặc dù tuổi đã cao nhưng cả Axl và Beatrice đều có một khối lượng công việc phải thực hiện hằng ngày, không thể cứ thích là đi mà không được sự đồng thuận của cộng đồng. Kể cả khi cuối cùng họ đã sẵn sàng, thời tiết bỗng thay đổi khiến họ phải lùi ngày khởi hành lại. Vì đánh liều với những rủi ro do sương mù, mưa và giá lạnh gây ra để làm gì trong khi ai cũng biết chẳng bao lâu nữa sẽ là nắng ấm?

Rồi cuối cùng họ cũng được lên đường, gậy chống trong tay và đồ dùng gói ghém trên lưng, vào một buổi sáng rực rỡ với những dải mây trắng mong manh trong làn gió thổi mạnh. Axl muốn lên đường ngay khi tia sáng đầu tiên xuất hiện - ông thấy rõ hôm ấy sẽ là một ngày đẹp trời - nhưng Beatrice khăng khăng muốn chờ tới lúc mặt trời lên cao hơn chút nữa. Họ sẽ dễ dàng tới được ngôi làng của người Saxon, ở đó hai người sẽ nghỉ lại qua đêm đầu tiên, chỉ sau một ngày đi bộ - Beatrice lý luận - và ưu tiên hàng đầu nhất định phải là làm sao vượt được đoạn đường chạy qua một góc của Đại Đồng Bằng càng gần buổi trưa càng tốt, vì đó là lúc những thế lực đen tối nơi này ngủ yên không hoạt động.

Đã lâu lắm rồi họ mới cùng nhau đi đâu đó thế này nên Axl khá lo lắng về khả năng chịu đựng của Beatrice. Nhưng chỉ một giờ đồng hồ sau đo, ông đã thấy yên tâm trở lại: mặc dù đi với tốc độ chậm rãi - một lần nữa ông lại nhận thấy dáng đi của vợ như lệch về một phía, như thể bà đang cố làm giảm nhẹ một cơn đau - Beatrice vẫn tiếp tục đều đặn tiến bước, cúi đầu trước gió khi đi qua những vùng đất trống và dũng cảm đương đầu khi gặp những đám cúc gai cùng những bụi cây mọc thấp. Trên những đoạn đường dốc, hay nơi mặt đất quá lầy lội khiến việc nhấc chân này theo chân kia là cả một nỗ lực to lớn, Beatrice có giảm tốc độ, nhưng vẫn không bao giờ dừng bước.

Trong khoảng thời gian trước khi họ khởi hành, Beatrice càng ngày càng tin chắc mình sẽ nhớ đường, ít nhất là đoạn đường tới ngôi làng của người Saxon, nơi bà thường cùng các phụ nữ trong làng lui tới suốt những năm tháng qua. Nhưng khi ngọn đồi lởm chởm nơi họ cư ngụ đã khuất khỏi tầm mắt, và sau khi đã vượt qua thung lũng phía bên kia vùng đầm lầy, Beatrice bỗng tỏ ra kém tự tin hơn. Tại một ngã ba đường, hay khi đứng trước một cánh đồng lộng gió, bà sẽ dừng chân đứng yên tại chỗ một lúc thật lâu, cái nhìn dần lộ vẻ hoảng hốt khi bà đưa mắt quan sát xung quanh.

“Đừng lo, công chúa ạ,” Axl thường nói vào những lúc ấy. “Đừng lo, cứ từ từ mà suy nghĩ cho kỹ.”

“Nhưng Axl ơi,” bà sẽ nói, quay về phía ông, “chúng ta không có nhiều thời gian. Chúng ta phải đi qua Đại Đồng Bằng vào buổi trưa, nếu muốn được an toàn.”

“Chúng ta sẽ kịp thôi, công chúa ạ. Cứ từ từ suy nghĩ cho kỹ.”

Tới đây, tôi nên nói rõ để bạn biết, việc định hướng nơi đồng không mông quạnh hồi ấy khó khăn hơn rất nhiều so với bây giờ, không chỉ vì không có la bàn và bản đồ đáng tin cậy. Thời đó, chúng ta còn chưa có những hàng giậu dễ thương chia cắt miền quê thành những cánh đồng, lối đi cũng như các đồng cỏ. Người lữ hành thời bấy giờ thường thấy mình đứng trước một phong cảnh thiên nhiên chẳng có điểm gì đặc biệt, nhìn về phía nào cũng thấy hệt như nhau. Một dãy các tảng đá đứng dọc theo chân trời phía xa, một khúc quanh của dòng suối, hay những dốc những vực vốn là đặc trưng của một thung lũng: những manh mối như thế là cách duy nhất để tìm đường. Một lần rẽ nhầm có thể mang đến hậu quả chết người. Chưa cần bận tâm tới khả năng sẽ mất mạng vì thời tiết xấu: lạc đường có nghĩa bạn đã tự đẩy mình vào mối nguy hiểm hơn bao giờ hết là sẽ chạm trán với những kẻ chuyên tấn công - con người, động vật hay các thế lực siêu nhiên - rình rập ở khắp nơi cách xa những con đường đã được kiến lập.

Có lẽ bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy họ trò chuyện mới ít làm sao trên đường, trong khi cặp vợ chồng này vốn lúc nào cũng có biết bao nhiêu chuyện muốn được chia sẻ cùng nhau. Nhưng vào lúc mà một mắt cá chân bị dập hay một vệt xước bị nhiễm trùng trên da hoàn toàn có thể đe dọa đến tính mạng, ai cũng thấy rõ tập trung hoàn toàn vào từng bước chân là một việc làm cần thiết. Cũng có thể, bạn sẽ để ý thấy rằng mỗi khi lối đi thu hẹp lại không đủ để cùng sánh bước, thì không phải Axl mà Beatrice sẽ luôn là người đi trước. Điều này có lẽ cũng sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên, vì bình thường nam giới luôn là người dẫn đường khi đặt chân tới những khu vực nguy hiểm tiềm tàng, và đúng vậy, trong rừng cây hoặc ở những đoạn đường nơi chó sói hoặc gấu có khả năng xuất hiện, họ liền đảo vị trí cho nhau mà chẳng cần một lời bàn cãi. Nhưng phần lớn thời gian trên đường đi, Axl luôn đảm bảo để làm sao vợ mình luôn là người đi trước, lý do là vì ai cũng biết bọn quỷ sứ hay lũ yêu tinh họ có thể chạm trán trên đường đi luôn tấn công con mồi từ phía sau đoàn người - theo tôi hiểu thì giống một con mèo lớn lén theo sau chú linh dương đi sau cùng trong đàn. Đã có rất nhiều trường hợp một người lữ hành ngoảnh lại tìm bạn đồng hành đi sau mình, để rồi nhận ra rằng người bạn ấy đã biến mất không để lại vết tích. Nỗi sợ một biến cố như thế sẽ xảy ra khiến Beatrice cứ chốc chốc lại vừa đi vừa hỏi: “Anh vẫn còn đó chứ, hở Axl?” và đến lượt Axl lại đều đặn trả lời: “Vẫn ở đây, công chúa ạ.”

Họ tới rìa Đại Đồng Bằng vào lúc gần trưa. Axl muốn tiếp tục đi cho xong để khỏi phải lo lắng tới mối hiểm nguy này nữa, nhưng Beatrice lại nhất quyết muốn chờ đến đúng trưa. Họ ngồi xuống một tảng đá trên đỉnh ngọn đồi dốc chạy xuống đồng bằng, chăm chú quan sát bóng hai cây gậy chống đang cắm trên đất ngay trước mặt cứ ngắn dần theo thời gian.

“Ừ thì có thể hôm nay đẹp trời, Axl ạ,” bà nói. “Và em cũng chưa bao giờ nghe nói có chuyện gì tệ hại xảy ra với bất kỳ ai ở phía này của đồng bằng. Nhưng dù sao thì, tốt hơn cả là chờ tới trưa, khi ta biết chắc sẽ chẳng có con quỷ nào thèm để ý, dù chỉ là hé mắt ra nhìn chúng ta đi qua.”

“Chúng ta sẽ chờ, như em mong muốn, công chúa của anh ạ. Và em nói rất đúng, dù sao đây cũng là Đại Đồng Bằng, cho dù là ở phía vốn nổi tiếng từ bi.”

Họ ngồi như thế một lúc, mắt nhìn xuống miền đất dưới kia, hầu như không nói gì. Rồi Beatrice cất lời.

“Axl ạ, khi gặp chúng ta, nhất định con sẽ muốn chúng ta ở lại sống cùng nó. Anh có thấy cảm giác lạ lùng khi phải chia tay với những người đã là hàng xóm láng giềng của mình ngần ấy năm trời, kể cả khi thỉnh thoảng họ vẫn chòng ghẹo hai mái đầu bạc của chúng mình?”

“Chúng ta vẫn chưa quyết định điều gì cả, công chúa ạ. Chúng ta sẽ bàn bạc mọi chuyện khi gặp con.” Axl vẫn dõi mắt nhìn ra Đại Đồng Bằng. Rồi ông lắc đầu khẽ nói: “Thực là kỳ cục, làm sao anh không thể nhớ ra chút gì về nó.”

“Em nghĩ là đêm qua em nằm mơ thấy con,” Beatrice nói. “Đứng bên một cái giếng, hơi xoay người sang một phía và đang gọi ai đó. Em không nhớ trước và sau đó thế nào nữa.”

“Ít ra em đã nhìn thấy con, công chúa của anh, cho dù chỉ là trong mơ. Trông con thế nào?”

“Một gương mặt nam tính, đẹp trai, em chỉ nhớ có thế. Nhưng màu mắt, góc cạnh trên gò má, thì em lại chẳng nhớ chút nào.”

“Anh không hề nhớ nét mặt con,” Axl nói. “Hẳn là vì màn sương ấy. Có rất nhiều thứ anh sẵn lòng vui vẻ mà quên đi, nhưng thật tàn nhẫn làm sao khi chúng ta không nhớ chút nào về một điều quý giá đến thế.”

Beatrice dịch sát lại gần chồng, để đầu mình ngả vào vai ông. Gió lúc này đang thổi mạnh khiến một phần áo choàng của bà bay tự do. Axl vòng tay qua người vợ, dùng bàn tay chặn áo lại và giữ cho nó ôm vào người Beatrice.

“Thôi thì, anh đoan chắc một trong hai ta chẳng bao lâu nữa sẽ nhớ ra thôi,” ông nói.

“Hãy cố gắng, Axl ạ. Cả hai chúng ta cùng cố. Như thể chúng ta đã để thất lạc một viên đá quý. Nhưng nếu cả hai cùng cố gắng, nhất định chúng ta sẽ tìm ra.”

“Nhất định rồi, công chúa ạ. Nhưng nhìn kìa, bóng của hai cây gậy đã gần như biến mất. Đã đến lúc xuống dưới kia rồi đấy.”

Beatrice ngồi thẳng người dậy và bắt đầu lục lọi trong bọc đồ của mình. “Đây, chúng ta sẽ cầm theo những thứ này.”

Những thứ bà đưa cho ông nhìn giống như những viên sỏi nhẵn nhụi, nhưng khi nhìn kỹ, ông thấy trên bề mặt của chúng có khắc những hình vẽ phức tạp.

“Nhét nó vào thắt lưng đi, Axl ơi, mà để ý đưa phía vạch đánh dấu ra ngoài. Vậy thì Chúa sẽ giữ cho vợ chồng mình an toàn. Còn em sẽ cầm mấy hòn này.”

“Một viên là đủ cho anh rồi, công chúa ạ.”

“Không, Axl của em, chúng ta sẽ chia đều. Giờ thì, em nhớ là có một lối đi dẫn xuống dưới kia, trừ phi mưa đã xóa nhòa tất cả, nếu không đoạn đường đi xuống Đại Đồng Bằng sẽ dễ dàng hơn phần lớn những đoạn chúng ta vừa đi qua. Nhưng có một vị trí chúng ta phải hết sức thận trọng. Axl này, anh có nghe em nói không đấy? Đó là đoạn lối đi chạy qua chỗ chôn người khổng lồ. Với những ai không biết thì chỗ ấy trông cũng chỉ giống như một mô đất bình thường, nhưng em sẽ ra hiệu cho anh, và khi thấy thế, anh phải đi vòng quanh mô đất và chúng ta sẽ gặp lại nhau trên lối đi ở phía bên kia. Giẫm chân lên nấm mồ ấy sẽ chẳng mang lại chuyện gì tốt đẹp, cho dù là giữa trưa hay không. Anh hiểu rõ em chứ, Axl?”

“Đừng lo, công chúa ạ, anh hiểu em rất rõ.”

“Và đừng để em phải nhắc nhở anh một lần nữa. Nếu gặp người lạ trên đường, hoặc nghe có ai gọi từ hai bên vệ đường, hay thấy một sinh vật khốn khổ mắc kẹt trong bẫy hoặc bị thương dưới rãnh, hay bất cứ điều gì như vậy khiến anh chú ý, đừng có hé răng nói dù chỉ một lời mà cũng đừng để chúng khiến anh dừng bước.”

“Anh có phải là đồ ngốc đâu, hở công chúa của anh.”

“Vậy thì được rồi, Axl, đã đến lúc lên đường.”

Đúng như Beatrice hứa hẹn, họ chỉ phải cuốc bộ một quãng ngắn trên Đại Đồng Bằng. Mặc dù có nhiều đoạn lầy lội nhưng đường đi ở đây khá rõ ràng và không khi nào bị che khuất khỏi ánh nắng mặt trời. Sau đoạn xuống dốc ban đầu, con đường cứ thế đều đặn leo dốc, cho tới khi họ nhận thấy mình đang đi trên một dải đất hẹp trên đỉnh đồi cao, hai bên là đất hoang mọc đầy thạch nam. Gió thổi dữ dội, nhưng cảm giác không gì khác một liều thuốc giúp giải độc từ ánh mặt trời giữa trưa. Mặt đất khắp nơi phủ kín cây thạch nam và cây kim tước cao không quá gối, chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện một cây gỗ lớn - một loài cây già cỗi đơn độc nào đó, oằn mình trước những cơn gió mạnh không dứt. Rồi một thung lũng xuất hiện phía bên phải, nhắc họ nhớ tới sức mạnh và sự bí hiểm của Đại Đồng Bằng, và rằng họ chỉ đang cất bước qua một góc nhỏ của vùng đất này.

Họ đi sát vào nhau, sát tới mức Axl gần như chạm vào gót chân Beatrice. Mặc dù thế, trong suốt quãng đường vượt qua Đại Đồng Bằng, cứ năm hoặc sáu bước chân, Beatrice lại cất giọng hỏi, kiểu như một người đọc kinh cầu nguyện: “Anh còn đó không, Axl?” và Axl lại trả lời: “Có đây, công chúa.” Ngoài hai câu nghi thức ấy ra, họ không nói thêm gì khác. Ngay cả khi tới chỗ mô đất chôn người khổng lồ, và khi Beatrice khẩn cấp ra hiệu cho Axl bước chệch khỏi con đường xuống đám cây thạch nam bên rìa, họ vẫn hô ứng với giọng nói đều đều, như muốn đánh lừa không cho lũ quỷ đang giương tai nghe ngóng biết mục đích thực sự của mình. Axl vẫn luôn để mắt quan sát xem liệu có một đám sương mù vụt kéo qua hay những đám mây sẫm màu đột ngột xuất hiện trên bầu trời hay chăng, nhưng không có dấu hiệu gì của cả hai thứ này, và rồi cuối cùng họ đã bỏ Đại Đồng Bằng lại sau lưng. Khi họ leo qua một rừng cây nhỏ đầy tiếng chim hót, mặc dù Beatrice không nói gì, nhưng Axl thấy bà thả lỏng người và bà không hỏi đi hỏi lại điệp khúc đó nữa.

Hai vợ chồng ngồi xuống nghỉ bên bờ suối, họ rửa chân, ăn bánh mì và đổ đầy nước vào bình. Từ đây trở đi, họ đi theo một lối mòn nhỏ có từ thời La Mã, vừa dài vừa trũng, dọc hai bên là những dãy cây sồi cùng những cây đu, tuy có dễ đi hơn nhưng lại phải thận trọng vì chắc chắn sẽ gặp những người đi đường khác ở đây. Và đúng như vậy, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ đầu tiên, đi ngược lại với họ có một phụ nữ cùng hai đứa trẻ, một cậu bé cưỡi mấy chú lừa, và hai du khách đang rảo bước tìm về với đoàn du hành của mình. Lần nào họ cũng dừng lại trao đổi những lời nhận xét lịch sự, nhưng có một lần, khi nghe thấy tiếng lách cách bánh xe và móng guốc lại gần, họ liền nhảy xuống rãnh trốn. Nhưng không có gì đáng ngại - hóa ra cũng chỉ là một nông dân người Saxon với một xe ngựa chất củi cao ngất.

Tới giữa buổi chiều, mây đen bắt đầu kéo tới che phủ bầu trời, báo hiệu một cơn bão. Họ đang ngồi nghỉ dưới gốc một cây sồi lớn, lưng xoay ra đường và khuất khỏi tầm mắt của những người qua lại. Trước mặt họ là một dải đất trống, vì thế ngay lập tức họ nhận thấy những thay đổi thời tiết này.

“Đừng lo, công chúa ạ,” Axl nói. “Tán cây này sẽ giúp chúng ta khô ráo, cho đến khi mặt trời quay trở lại.”

Nhưng Beatrice đã kịp đứng dậy, nghiêng mình về phía trước, một tay đưa lên che mắt. “Em thấy đoạn đường uốn cong ở phía xa, Axl ạ. Và em thấy chúng ta còn cách ngôi biệt thự cũ chẳng là bao. Đã có lần em với mấy phụ nữ trú chân ở đó. Một đống đổ nát, nhưng mái nhà vẫn còn tốt.”

“Chúng ta có kịp tới đó trước khi trời đổ mưa không, hả công chúa?”

“Nếu chúng ta đi ngay bây giờ thì sẽ kịp.”

“Vậy thì nhanh chân lên thôi. Chẳng có lý do gì phải chịu chết vì ướt sũng nước mưa cả. Và cái cây này, giờ anh mới nhìn, đầy các khoảng trống đến nỗi anh gần như nhìn thấy cả bầu trời phía trên tán lá.”

*

Ngôi biệt thự đổ nát nằm xa hơn so với trong trí nhớ của Beatrice. Khi những giọt mưa đầu tiên lộp độp rơi xuống trong lúc bầu trời trên cao tối sầm lại, hai vợ chồng vẫn đang lặn lội trên một lối đi hẹp phủ đầy cây tầm ma cao đến ngang eo, khiến họ phải dùng gạt quật liên tục để mở đường. Mặc dầu từ ngoài đường có thể thấy rõ ngôi biệt thự nhưng khi đi theo lối này, đống đổ nát của nó lại bị cây cối và những tán lá rừng che khuất, vì thế hai nhà lữ hành của chúng ta vừa giật mình lại vừa nhẹ cả người khi ngôi biệt thự đột ngột hiện ra trước mắt.

Biệt thự này chắc hẳn đã rất nguy nga tráng lệ vào thời La Mã, nhưng hiện giờ chỉ một phần nhỏ còn sót lại. Các nền nhà một thời lộng lẫy thì nay nằm trơ ra giữa nắng mưa, méo mó bởi các vũng nước tù, cây dại và cỏ đua nhau chồi lên giữa các viên gạch lát nền bạc màu. Những mảng tường còn lại, chỗ nào cũng chỉ cao không quá mắt cá chân, cho thấy vị trí ngay trước của các phòng. Axl và Beatrice lúc này đang thận trọng tiến về phía một vòm cửa xếp đá dẫn tới phần còn sót lại của cả công trình, họ dừng chân để nghe ngóng trước khi bước chân qua. Cuối cùng, Axl gọi với vào trong: “Có ai ở trong không?” Thế rồi vì không nghe tiếng đáp, ông nói: “Chúng tôi là hai người Briton lớn tuổi tìm chỗ tránh bão. Chúng tôi đến với thiện ý.”

Tất cả vẫn chìm trong im lặng, họ bước qua vòm cửa vào tới khu vực râm mát của chỗ trước đây hẳn là một hành lang. Rồi họ bước vào một căn phòng rộng rãi chìm trong một thứ ánh sáng xám màu, cho dù cả ở đây, toàn bộ một bức tường cũng đã đổ sụp. Căn phòng bên cạnh đã hoàn toàn biến mất, đám vạn niên thanh dày đặc mọc chen chúc nhau đến tận rìa nền nhà. Tuy nhiên, ba bức tường còn lại vẫn có mái che, đủ tạo nên một nơi trú mưa tốt. Ở đó, phía trước những mảng tường xây đầy bụi bẩn trước đây vốn là những bức tường quét vôi trắng, hiện ra hai bóng người, một đứng, một ngồi, cách nhau một quãng.

Ngồi trên một mảng tường vỡ là một phụ nữ già cả, bé nhỏ như một con chim - lớn tuổi hơn cả Axl và Beatrice - mặc áo choàng đen, mũ tụt về phía sau đầu, để lộ ra một gương mặt nhăn nhúm. Mắt bà ta trũng sâu tới mức bạn khó lòng nhìn thấy chúng. Tấm lưng còng gần như không chạm tới bức tường sau lưng. Một vật gì đó đang cựa quậy trong lòng bà ta và Axl nhận ra đó là một con thỏ, nó bị bà ta giữ chặt trong hai bàn tay xương xẩu.

Ở đầu đằng kia của bức tường ấy, như thể đang cố gắng tránh càng xa càng tốt khỏi bà già mà vẫn không bị ướt mưa, là một người đàn ông gầy gò, cao đến mức bất thường. Anh ta mặc một chiếc áo khoác dày cộp, loại áo những người chăn cừu thường dùng khi phải trông coi lũ cừu vào một đêm lạnh giá, nhưng lộ ra dưới phần lai áo là đôi cẳng chân trần. Chân anh ta mang một đôi giày thuộc loại Axl thấy vẫn thường được các ngư dân sử dụng. Mặc dù có lẽ vẫn còn trẻ, nhưng đỉnh đầu anh ta lại trọc lốc nhẵn nhụi, trong khi quanh hai tai lại lún phún những chùm lông đen. Anh ta đứng gượng gạo, lưng quay về phía căn phòng, một tay đặt trên bức tường trước mặt, như thể đang chăm chú lắng nghe chuyện gì đó đang diễn ra phía bên kia bức tường. Anh ta chẳng mở mồm nói lấy một câu mà chỉ đưa mắt nhìn qua vai khi Axl và Beatrice bước vào. Cả bà già kia cũng im lặng giương mắt nhìn họ, và chỉ đến khi Axl nói: “Cầu cho mọi người được an lành,” họ mới bớt căng thẳng. Người đàn ông cao lênh khênh nói: “Vào đây, các vị, nếu không sẽ bị ướt đấy.”

Quả vậy, bầu trời đã kịp mở toang và nước mưa đang xối xuống từ mấy chỗ thủng trên mái, bắn tung tóe trên nền nhà gần chỗ các vị khách của chúng ta đang đứng. Vừa cảm ơn anh ta, Axl vừa dẫn vợ tới gần bức tường, chọn một vị trí nằm ở khoảng giữa hai vị chủ nhà. Ông giúp Beatrice tháo bọc đồ trên lưng ra, sau đó đặt bọc đồ của mình xuống nền.

Rồi cả bốn người cứ im lặng như vậy một lúc, trong khi cơn bão ngày càng dữ dội hơn, một tia chớp lóe lên rọi sáng nơi trú mưa của họ. Vẻ bất động kỳ cục của người đàn ông cao kều cùng bà già bé nhỏ kia như một thứ bùa mê khiến cả Axl và Beatrice giờ cũng đứng im không nhúc nhích. Cứ như thể sau khi tìm thấy một bức tranh rồi bước chân vào trong, đến lượt mình, họ cũng bất đắc dĩ phải sắm vai một nhân vật được khắc họa trong bức tranh ấy.

Thế rồi, khi cơn mưa xối xả như trút nước dịu bớt thành một làn mưa đều đều, cuối cùng thì bà già bé nhỏ cũng phá tan bầu không khí im lặng. Một tay vuốt ve con thỏ, một tay túm chặt lấy nó, bà ta nói:

“Chúa ở bên các bạn, hỡi những người anh em. Rồi các bạn sẽ tha thứ vì lúc nãy tôi không mời chào các bạn, nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi các bạn xuất hiện. Dù sao chăng nữa, các bạn biết mình được đón chào ở đây. Một ngày đẹp trời để đi lại, cho tới khi cơn bão ập đến. Nhưng loại bão này cũng sẽ tan đi đột ngột như lúc nó tới vậy thôi. Chuyến đi của các bạn sẽ không bị trì hoãn lâu và nghỉ chân một chốc cũng là điều cần thiết. Các bạn đi đâu vậy?”

“Chúng tôi đang trên đường tới ngôi làng con trai mình sinh sống,” Axl nói, “nó đang nóng lòng chờ đón chúng tôi. Nhưng chúng tôi mong sẽ được nghỉ qua đêm ở một ngôi làng của người Saxon và hy vọng sẽ tới nơi trước khi màn đêm buông xuống.”

“Người Saxon có cách sống hoang dại,” bà già nói. “Nhưng họ sẽ sẵn lòng đón tiếp người lỡ đường, hơn cả người Briton chúng ta. Hãy ngồi xuống đi hai bạn. Khúc gỗ phía sau các bạn còn khô nguyên và tôi vẫn thường mãn nguyện ngồi trên đó.”

Axl và Beatrice làm theo lời bà ta, sau đó lại im lặng một hồi trong khi mưa vẫn tiếp tục đổ xuống. Cuối cùng, một cử chỉ của bà già khiến Axl phải đưa mắt nhìn. Bà ta đang kéo tai con thỏ về phía sau, và trong khi con thỏ đang cố vùng vẫy tìm cách thoát thân, bàn tay trông như móng vuốt của bà ta giữ chặt lấy nó. Tiếp đó, khi Axl vẫn đang để mắt theo dõi, bà ta bỗng lấy ra một con dao lớn đã hoen gỉ gí vào họng con vật. Beatrice giật nảy mình bên cạnh Axl, và Axl chợt nhận ra những vũng sẫm màu dưới chân họ cũng như rải rác khắp nơi trên nền nhà đổ nát chính là các vệt máu cũ, và trộn lẫn với mùi của đám cây thường xuân cùng mùi mốc meo của các tảng đá ẩm ướt là một mùi sát sinh, tuy mờ nhạt nhưng phảng phất dây dưa trong không khí.

Sau khi kề dao vào cổ họng con thỏ, bà già lại ngồi gần như im phăng phắc. Axl nhận thấy đôi mắt trũng sâu của bà ta giờ đang dán chặt vào người đàn ông cao kều ở đầu kia bức tường, như thể bà ta đang chờ hiệu lệnh từ anh ta. Nhưng người đàn ông vẫn giữ nguyên thế đứng cứng nhắc nãy giờ, trán gần chạm vào tường. Anh ta hoặc là không nhận thấy những gì bà già đang làm, hoặc đang nhất quyết lờ bà ta đi.

“Bà ơi,” Axl nói, “giết con thỏ đi nếu phải giết nó. Nhưng vặn cổ cho gọn gàng. Hay là kiếm một hòn đá đập một phát cho xong bà ạ.”

“Nếu tôi đủ sức, ông ạ, nhưng tôi quá yếu. Tôi có một con dao sắc lẹm, nhưng tất cả chỉ có thế.”

“Thế thì tôi vui lòng được giúp bà. Không cần dùng đến con dao của bà làm gì.” Axl đứng dậy, chìa tay ra, nhưng bà già không tỏ vẻ muốn đưa con thỏ cho ông. Bà ta vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, dao kề cổ họng con thỏ, mắt dán chặt vào người đàn ông ở góc phòng đằng kia.

Cuối cùng, người đàn ông cũng quay lại nhìn họ. “Các vị ạ,” anh ta nói. “Tôi rất ngạc nhiên lúc hai người bước vào khi nãy, nhưng giờ tôi lại thấy mừng. Vì tôi thấy hai vị là người tốt, và tôi cầu xin hai người, trong khi chờ cơn mưa dứt, hãy lắng nghe nỗi thống khổ của tôi. Tôi là một người chèo thuyền hèn mọn, đưa khách qua sông trên những con nước sóng vỗ bập bềnh. Tôi không quản ngại, cho dù giờ làm việc thật dài và khi có nhiều người chờ qua sông thì tôi chẳng ngủ được là bao còn hai cẳng chân tôi đau nhức mỗi khi phải mạnh tay khua chèo. Tôi làm việc cả khi mưa dầm gió bão hay dưới ánh nắng mặt trời nóng như rang. Nhưng tôi vẫn giữ vững tinh thần chờ tới ngày được nghỉ ngơi. Vì tôi chỉ là một trong số vài người chèo thuyền và mỗi chúng tôi đều lần lượt được nghỉ, nhưng phải sau vài tuần dài lao động không ngừng. Trong ngày nghỉ của mình, ai trong số chúng tôi cũng đều có những nơi cần đến, và các vị ạ, nơi tôi muốn đến chính là nơi này. Tôi đã từng là một cậu bé vô tư lự sống trong ngôi nhà này. Nó không còn được như trước nữa, nhưng với tôi, đây là nơi chứa đầy những kỷ niệm vô giá, và tôi đến đây chỉ mong được yên tĩnh ôn lại những ký ức đó. Giờ thì hãy nghĩ tới điều này. Cứ mỗi lần tôi tới đây, chỉ trong vòng một giờ sau khi tôi có mặt, bà già này sẽ bước chân qua vòm cửa kia. Bà ta sẽ ngồi xuống rồi chửi bới tôi hết giờ này qua giờ khác, từ đêm tới sáng. Bà ta sẽ đưa ra những lời buộc tội độc ác và bất công. Lợi dụng màn đêm, bà ta sẽ nguyền rủa tôi những lời gớm ghiếc nhất trên đời. Bà ta không cho tôi dù chỉ một phút nghỉ ngơi. Nhiều lúc, như các vị thấy đấy, bà ta sẽ mang theo một con thỏ, hoặc một con vật nhỏ bé nào đó, để có thể xuống tay một cách hung bạo rồi làm ô uế nơi yêu dấu này bằng máu của chúng. Tôi đã làm mọi thứ có thể để thuyết phục bà ta hãy để tôi yên, nhưng bà ta đã học được cách lờ đi cho bằng hết lòng trắc ẩn Chúa đã gieo vào tâm hồn mình. Bà ta sẽ không chịu bỏ đi, và cũng không chịu ngừng mắng nhiếc tôi. Kể cả bây giờ, cũng chỉ vì sự xuất hiện bất ngờ của các vị bà ta mới tạm ngưng sự ngược đãi này. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải lên đường trở lại với những tuần lễ dài lê thê trong công việc cực nhọc của mình trên sông nước. Các vị, tôi tha thiết đề nghị các vị, hãy làm gì đó để bà ta chịu bỏ đi. Hãy thuyết phục để bà ta thấy hành động của mình là tội lỗi. Có thể người ngoài cuộc như các vị sẽ tác động được tới bà ta cũng nên.”

Không ai nói gì một lúc sau khi người đàn ông ngưng lời. Sau này, Axl nhớ rằng có một sự thôi thúc mơ hồ xui mình cất lời đáp lại, nhưng cùng lúc đó ông cũng có cảm tưởng rằng người đàn ông kia vừa nói những chuyện ấy trong một giấc mơ nên thật ra ông không có nghĩa vụ lên tiếng. Cả Beatrice dường như cũng không vội vã gì, mắt bà vẫn nhìn vào bà già kia, lúc ấy đã kịp buông con dao khỏi cổ họng con thỏ và đang dùng sống dao vuốt ve bộ lông của nó, gần như đầy vẻ yêu thương. Cuối cùng, Beatrice cũng nói:

“Bà ơi, tôi xin bà, cho phép chồng tôi giúp bà và con thỏ. Không cần phải làm vấy máu chốn này, mà cũng chẳng có chậu để hứng. Bà sẽ đem vận rủi đến không chỉ cho người chèo thuyền chân chất này mà còn cho chính bản thân bà cùng những người khác tìm tới chốn này trú chân. Cất con dao kia đi rồi đi đâu mà giết con vật một cách êm ái thì đi. Và chửi mắng người đàn ông này, một người chèo thuyền chăm chỉ, như bà đang làm liệu có mang lại điều gì tốt đẹp không?”

“Đừng vội nói những lời cay nghiệt với bà ấy, công chúa của anh,” Axl nói một cách nhẹ nhàng. “Chúng ta không biết chuyện gì đã xảy ra giữa bọn họ. Người chèo thuyền này xem ra có vẻ thực lòng, nhưng nghĩ mà xem, cũng có thể có lý do nào đó mới khiến bà ấy bỏ thời gian tới đây như thế.”

“Ông nói chí phải,” bà già nói. “Liệu có phải vì tôi cho rằng đây là cách hay ho để qua nốt những ngày tháng tàn của cuộc đời? Tôi thà ở đâu đó thật xa chốn này, bên người chồng của tôi, và chính vì người chèo thuyền này mà giờ đây tôi phải xa lìa ông ấy. Chồng tôi là một người đàn ông cẩn thận và thông thái, thưa ông, và chúng tôi đã chuẩn bị cho chuyến đi của mình từ rất lâu, nói chuyện về nó và mơ về nó suốt nhiều năm trời. Và khi cuối cùng chúng tôi đã sẵn sàng đồng thời có đủ những thứ mình cần, chúng tôi lên đường và sau vài ngày, thấy một vịnh nước nhỏ từ đó có thể vượt sông sang đảo. Chúng tôi đứng chờ người chèo thuyền và cuối cùng cũng thấy một con thuyền đương tiến về phía mình. Nhưng chẳng biết trời xui đất khiến ra sao mà chính con người kia tới đón chúng tôi. Thấy hắn ta cao đến mức nào chưa. Đứng trong lòng thuyền trên sông, con sào dài trong tay trước nền trời, trông hắn ta vừa cao vừa gầy, hệt như những diễn viên tập tễnh đi trên cà kheo vậy. Hắn ta cập bến chỗ tôi cùng chồng mình đang đứng chờ trên mấy tảng đá rồi buộc thuyền lại. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn không hiểu hắn ta đã làm gì, nhưng bằng một cách nào đó, hắn ta đã đánh lừa chúng tôi. Chúng tôi đã quá cả tin. Hòn đảo kia chẳng còn xa là bao, và sau hơn bốn mươi năm chúng tôi làm bạn đời của nhau và hầu như chẳng bao giờ xa nhau dù chỉ một ngày, người chèo thuyền này đã đưa chồng tôi đi và bỏ tôi lại chờ đợi trên bờ. Tôi không thể hiểu nổi làm thế nào hắn ta làm được điều đó. Hẳn giọng nói của hắn ta đã đẩy chúng tôi vào một cơn mê, vì trước khi tôi kịp hiểu ra thì hắn ta đã đưa chồng tôi lên thuyền mà chèo đi mất, trong khi tôi vẫn đứng trên bờ. Kể cả lúc đó, tôi vẫn chưa hoài nghi gì. Vì ai ngờ một người chèo thuyền lại có thể độc ác đến thế? Nên tôi cứ đúng chờ. Tôi tự nhủ, chắc chỉ vì con thuyền không thể chở hơn một khách mỗi lần, vì hôm ấy nước động, và bầu trời thì tối đen gần như hôm nay. Tôi đứng trên tảng đá và nhìn theo con thuyền cứ nhỏ dần cho tới khi chỉ còn là một dấu chấm. Và tôi cứ đứng chờ ở đó, cho tới khi cuối cùng, đốm nhỏ ấy lại lớn dần lên và hắn ta quay trở lại chỗ tôi. Chẳng mấy chốc, tôi đã thấy rõ cái đầu nhẵn nhụi như một hòn sỏi của hắn ta, có điều trên thuyền chẳng có vị khách nào. Và tôi cứ tưởng đã đến lượt mình lên thuyền, và rồi tôi sẽ sớm được đoàn tụ với người yêu dấu của mình. Nhưng khi hắn ta tới chỗ tôi đang đợi, buộc sợi thừng vào cọc, hắn ta bỗng lắc đầu và không chịu đưa tôi sang đảo. Tôi cự cãi, khóc lóc và kêu xin, nhưng hắn ta nhất quyết không nghe. Thay vì đưa tôi qua sông, hắn ta lại đề nghị - thật độc ác làm sao! - hắn lại đề nghị tôi hãy nhận lấy con thỏ hắn nói vốn bị dính bẫy ven bờ trên đảo. Hắn ta mang nó về cho tôi vì cho rằng nó sẽ là một bữa phù hợp cho buổi tối cô đơn đầu tiên của đời tôi. Thế rồi, khi thấy chẳng còn ai khác chờ thuyền, hắn ta đẩy thuyền ra khơi, bỏ tôi ngồi khóc sướt mướt trên bờ với con thỏ bất hạnh trong tay. Một lát sau, tôi thả cho nó chạy biến vào trong những bụi cây thạch nam, vì để tôi nói cho các vị hay, tôi chẳng muốn ăn uống gì vào buổi tối hôm ấy, cũng như rất nhiều buổi tối sau đó. Đó là lý do vì sao tôi mang một món quà nhỏ cho hắn ta mỗi lần tôi đến đây. Một con thỏ cho món hầm để trả ơn lòng tốt của hắn ta hôm ấy.”

“Con thỏ đó chính ra tôi định dành để ăn tối hôm ấy,” người chèo thuyền cắt ngang từ phía bên kia phòng. “Vì thấy tội nghiệp nên tôi đã tặng bà ta. Hoàn toàn chỉ xuất phát từ lòng tốt.”

“Chúng tôi không biết gì về việc cậu làm,” Beatrice nói. “Nhưng bỏ bà ấy lại một mình trên bờ như thế nghe có vẻ là một sự lừa gạt nhẫn tâm. Điều gì đã khiến cậu hành động như vậy chứ?”

“Thưa bà thân mến, hòn đảo bà ta nhắc đến không phải là một hòn đảo bình thường. Những người chèo thuyền chúng tôi nhiều năm qua đã đưa rất nhiều người sang đó, và cho tới bây giờ, có hàng trăm người sinh sống trên các cánh đồng cũng như trong những khu rừng trên đảo. Nhưng hòn đảo ấy có những đặc trưng kỳ lạ, nên bất cứ ai đặt chân lên đảo cũng sẽ chỉ thấy mình đơn độc bước đi giữa cây cỏ và không bao giờ gặp cho dù chỉ một người khác. Thỉnh thoảng vào một đêm trăng sáng hay trước khi một cơn mưa đổ xuống, người ấy có thể có cảm giác hình như có sự hiện diện của những người dân khác trên đảo. Nhưng phần lớn thời gian, ai cũng tưởng như mình là người duy nhất sinh sống ở đó. Tôi sẵn lòng đưa bà ta qua sông, nhưng khi bà ta nhận ra rằng mình sẽ không được ở cùng chồng, bà ta liền tuyên bố không muốn sống cuộc đời cô độc như thế và không muốn đi. Tôi nhượng bộ quyết định của bà ta, vì tôi buộc phải làm thế, rồi để bà ta đi theo ý riêng của mình. Như tôi đã nói, tôi tặng bà ta con thỏ hoàn toàn chỉ xuất phát từ lòng tốt. Các vị thấy bà ta trả ơn tôi thế đấy.”

“Gã chèo thuyền này là một thằng cha quỷ quyệt,” bà lão nói. “Hắn ta sẽ cả gan đánh lừa cả các vị, mặc dù các vị chỉ là người ngoài. Hắn ta sẽ làm cho các vị tin rằng ai trên đảo cũng chỉ đi lang thang trong cô độc, trong khi điều đó hoàn toàn không phải là sự thực. Làm gì có chuyện tôi và nhà tôi nhiều năm lại đi mơ ước được tới một nơi như thế? Sự thực là, có rất nhiều người được phép qua sông với tư cách vợ chồng để cùng nhau sinh sống trên đảo. Rất nhiều người được cùng nhau tay trong tay đi dạo trong các khu rừng và những bãi biển yên tĩnh. Cả tôi và chồng tôi đều biết điều đó. Chúng tôi biết điều đó từ khi còn là trẻ con. Hai người anh em ạ, nếu các bạn lục lại trí nhớ, các bạn sẽ nhớ ra sự thực tôi đang kể cho các bạn nghe. Khi ngồi chờ tại chỗ vịnh nước nhỏ ấy, chúng tôi hoàn toàn không có chút khái niệm mơ hồ nào, rằng một kẻ chèo thuyền độc ác đến vậy đang đến chỗ mình.”

“Chỉ có một phần trong những gì bà ta vừa nói là sự thực,” người chèo thuyền nói. “Thỉnh thoảng, một cặp vợ chồng sẽ được phép cùng nhau sang đảo, nhưng chuyện đó rất hiếm khi xảy ra. Họ phải có một tình yêu bền chặt hơn bình thường. Thỉnh thoảng việc ấy có xảy ra, tôi không phủ nhận điều đó, và đó là lý do vì sao khi có một người đàn ông đi cùng vợ, hay thậm chí chỉ cần là hai người yêu nhau mà chưa kết hôn, đứng chờ để được sang bờ bên kia, chúng tôi có phận sự phải hỏi han kỹ lưỡng. Vì chúng tôi là người phải xác định cho rõ liệu tình cảm của họ có đủ mạnh để được phép đi cùng nhau hay không. Bà ta không chịu thừa nhận, nhưng tình cảm của bà ta với chồng đơn giản là quá ít ỏi. Hãy để bà ta nhìn vào sâu trong trái tim mình, rồi xem bà ta có dám tuyên bố tôi đã đánh giá sai lầm vào hôm ấy hay không.”

“Thưa bà,” Beatrice nói. “Bà có muốn nói gì không?”

Bà già ngồi im không nói gì. Bà ta vẫn nhìn xuống, sưng sỉa chạy sống dao trên bộ lông của con thỏ.

“Bà ơi,” Axl nói, “khi trời ngừng mưa, chúng tôi sẽ quay trở ra đường. Bà có muốn đi cùng chúng tôi không? Chúng tôi sẽ vui lòng đi cùng bà một lúc. Chúng tôi có thể trò chuyện nhàn nhã với bà về bất cứ điều gì bà muốn. Hãy để yên cho người chèo thuyền tốt bụng này được vui vẻ với phần còn sót lại của ngôi nhà khi nó vẫn còn đứng đó. Bà được gì khi ngồi đây thế này chứ? Và nếu muốn, tôi sẽ giết con thỏ một cách gọn gàng trước khi đường đi của chúng ta chia thành hai ngả. Bà thấy thế có được không?”

Bà già không thèm trả lời, mà cũng chẳng tỏ vẻ đã nghe thấy những gì Axl vừa nói. Một lúc sau, bà ta chậm rãi đứng lên, ôm chặt con thỏ trên ngực. Vóc dáng bé nhỏ của bà ta khiến chiếc áo choàng lết phết trên nền nhà khi bà ta bước về góc tường đổ nát của căn phòng. Nước từ chỗ dột trên trần nhà nhỏ tong tỏng xuống người bà ta, nhưng có vẻ bà ta chẳng thèm quan tâm. Khi đã tới phía bên kia của nền nhà, bà ta đưa mắt nhìn mưa rơi và đám cỏ cây mọc tùm lum phía ngoài. Sau đó, từ từ cúi xuống, bà ta thả con thỏ xuống ngay dưới chân mình. Con vật ấy thoạt đầu không động đậy, có lẽ vì đã sợ đến hóa đá. Rồi nó chạy biến vào trong đám cỏ.

Bà già thận trọng đứng thẳng người dậy. Khi bà ta quay người lại, thật khó dám chắc điều gì với đôi mắt trũng sâu đến kỳ quặc ấy, nhưng hình như bà ta đang nhìn người chèo thuyền, vừa nhìn bà ta vừa nói: “Hai người lạ mặt này làm ta mất cả hứng. Nhưng ta tin chắc, rồi hứng sẽ trở lại thôi.”

Nói xong, bà ta nhấc đuôi áo choàng lên rồi chậm rãi bước xuống chỗ đám cỏ, hệt như một người thanh thản bước xuống bể bơi. Mưa vẫn đều đặn rơi xuống người, bà ta kéo mũ trùm kín đầu trước khi bước chân vào đám cây tầm ma mọc cao.

“Chờ một chút, chúng tôi sẽ đi cùng bà,” Axl gọi với theo. Nhưng ông thấy tay Beatrice đặt trên cánh tay mình và nghe thấy bà thì thầm: “Tốt hơn cả là đừng dính dáng gì tới bà ấy nữa, Axl ạ. Để yên cho bà ấy đi.”

Khi Axl ra tới chỗ bà ta bước xuống đám cỏ bên ngoài căn phòng, ông nửa mong những tán lá cây đã cản trở khiến bà già không đi xa thêm được nữa. Nhưng không thấy bóng dáng bà ta đâu cả.

“Cảm ơn các bạn của tôi,” người chèo thuyền nói từ sau lưng Axl. “Có thể ít nhất là ngày hôm nay, tôi sẽ được yên thân ngồi ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu.”

“Rồi chúng tôi cũng sẽ đi thôi, cậu ạ,” Axl nói. “Ngay khi mưa ngừng rơi.”

“Không phải vội, các vị ạ. Các vị đã rất sáng suốt, và tôi xin cảm ơn các vị vì điều đó.”

Axl tiếp tục nhìn ra mưa. Từ sau lưng, ông nghe thấy Beatrice nói: “Ngôi nhà này trước đây hẳn là rất nguy nga, đúng không cậu.”

“Vâng, quả có thế, thưa bà. Khi còn là một cậu bé, tôi cũng chẳng hiểu nó nguy nga tới mức nào, vì tôi đâu có biết tới ngôi nhà nào khác. Có tranh ảnh đẹp và đồ đạc quý giá khắp nơi, cùng những người hầu khôn ngoan và tốt bụng. Ngay ở đằng kia trước đây vốn là phòng tiệc lớn.”

“Chắc cậu buồn lắm khi thấy nó thế này.”

“Tôi chỉ thấy may mắn, thưa bà, khi nó vẫn còn đứng đây. Vì ngôi nhà này đã phải trải qua những ngày tháng chiến tranh, khi rất nhiều ngôi nhà khác giống nó đã bị cháy rụi và chẳng còn gì sót lại ngoài vài ụ đất nằm dưới lớp cỏ cùng đám cây thạch nam.”

Đến đây, Axl nghe thấy tiếng chân Beatrice rồi thấy bà đặt tay lên vai mình. “Có chuyện gì vậy hở Axl?” bà hỏi, hạ giọng khẽ nói. “Có chuyện gì đó khiến anh không vui, em thấy thế.”

“Không có gì, công chúa của anh ạ. Chỉ vì đống đổ nát này. Anh chợt có cảm giác mình mới chính là người nhớ lại nhiều điều về chốn này.”

“Những điều gì mới được chứ, hả Axl?”

“Anh không biết, công chúa của anh. Khi người chèo thuyền nhắc tới chiến tranh và nhà cửa bị đốt cháy, anh gần như cảm thấy như mình đã nhớ lại một điều gì đó. Từ hồi anh còn chưa biết em, hẳn là thế.”

“Chẳng lẽ đã có lúc chúng ta không biết nhau sao, Axl của em? Nhiều khi em thấy chúng ta chắc đã phải quen biết nhau từ khi còn là trẻ sơ sinh ấy chứ.”

“Anh cũng thấy như thế, công chúa ạ. Chỉ vì cái nơi kỳ lạ này mà anh trở nên ngớ ngẩn quá mất rồi.”

Beatrice ân cần nhìn chồng. Sau đó, bà siết tay ông rồi khẽ nói: “Nơi này quả là kỳ quái và có lẽ sẽ gây hại hơn cả những gì mưa có thể gây ra cho chúng ta. Em nóng lòng muốn rời khỏi chỗ này, Axl ạ. Trước khi bà già ấy quay lại hoặc trước khi chuyện gì đó tệ hại hơn xảy ra.”

Axl gật đầu. Quay người lại, ông gọi với ra góc phòng bên kia: “Thôi, cậu chèo thuyền này, xem ra trời bắt đầu quang đãng trở lại rồi, chúng tôi lên đường đây. Rất cảm ơn cậu đã cho chúng tôi trú mưa.”

Người chèo thuyền không nói gì, nhưng anh ta tới giúp họ chất đồ lên lưng rồi đưa gậy chống cho họ. “Chúc các vị một chuyến đi an toàn,” anh ta nói. “Hy vọng con trai các vị khỏe mạnh khi được gặp các vị.”

Họ cảm ơn anh ta một lần nữa, nhưng Beatrice bỗng dừng bước và nhìn lại khi hai người đang bước qua vòm cửa để ra ngoài.

“Vì chúng tôi bỏ cậu lại đây,” bà nói, “và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa, tôi băn khoăn không biết cậu có cho phép tôi được hỏi một câu hỏi nhỏ được không.”

Người chèo thuyền lúc ấy đang đứng ở chỗ của mình bên bức tường, thận trọng nhìn Beatrice.

“Lúc nãy,” Beatrice tiếp tục, “cậu có nhắc tới nhiệm vụ phải hỏi han mỗi cặp nam nữ chờ được sang sông. Cậu nhắc tới việc phải tìm hiểu xem liệu sự gắn kết tình cảm của họ có đủ lớn để cho phép họ được cùng nhau sinh sống trên đảo hay không. Vậy thì thế này cậu ạ, có điều này tôi đang băn khoăn. Cậu hỏi thế nào để biết được điều cậu cần biết?”

Người chèo thuyền thoáng tỏ ra lưỡng lự. Rồi anh ta nói: “Nói thật với bà, tôi không được phép nói tới những chuyện này. Theo lẽ công bằng mà nói, chúng ta lẽ ra không nên gặp mặt nhau hôm nay thế này, nhưng một sự tình cờ kỳ lạ nào đó đã đưa chúng ta đến với nhau, và tôi không lấy làm ân hận vì điều đó. Cả hai vị đều là người tử tế và tin tưởng vào câu chuyện của tôi, và tôi rất lấy làm biết ơn các vị. Vì thế, tôi sẽ đưa ra câu trả lời hay nhất có thể có. Như bà đã biết, tôi có nhiệm vụ phải hỏi han tất cả những người muốn vượt sông sang đảo. Nếu là một cặp như trong câu hỏi của bà, nói rằng tình cảm của họ rất bền chặt, thì tôi phải yêu cầu họ kể cho tôi nghe những kỷ niệm yêu dấu nhất của họ. Tôi sẽ hỏi một người trước, rồi hỏi người kia sau. Mỗi người sẽ phải nói riêng cho tôi nghe. Cách làm này sẽ sớm phơi bày bản chất của sự gắn kết giữa hai người.”

“Nhưng cậu này,” Beatrice nói. “Thực sự thấy được những gì nằm trong trái tim con người là một việc rất khó đúng không? Rất dễ bị đánh lừa bởi vẻ bề ngoài.”

“Đúng vậy, thưa bà, nhưng dân chèo thuyền chúng tôi đã gặp quá nhiều người sau bao nhiêu năm, chẳng cần nhiều thời gian chúng tôi sẽ nhận ra ngay sự giả dối. Hơn nữa, khi những người lữ khách nói về những kỷ niệm yêu dấu nhất của họ, họ không thể nào che giấu được sự thực. Một cặp nam nữ có thể nói rằng họ yêu nhau đấy, nhưng thay vì tình yêu, những người chèo thuyền chúng tôi có thể lại nhìn thấy sự oán giận, bực tức, có khi cả sự căm ghét. Hay chúng tôi lại chỉ nhận thấy một sự khô khan nhạt nhẽo. Thỉnh thoảng là nỗi sợ phải sống đơn độc và chỉ vậy thôi. Tình yêu lâu dài vượt qua được thử thách của thời gian là thứ rất hiếm khi chúng tôi được gặp. Và khi được chứng kiến tình cảm như thế, chúng tôi quá vui lòng mà đưa cặp vợ chồng qua sông cùng nhau. Thưa bà, tôi đã nói nhiều hơn những gì nên nói.”

“Tôi cảm ơn cậu. Những điều này chỉ để thỏa mãn tính tò mò của một bà già mà thôi. Bây giờ, chúng tôi sẽ để cậu được yên một mình.”

“Chúc ông bà đi đường bình an.”

*

Họ trở ra theo vết chân của mình trên lối mòn được họ quật cây mở đường qua đám dương xỉ và tầm ma lúc trước. Cơn bão khiến mặt đất trở nên khó lường, nên mặc dù nóng lòng được đi xa khỏi căn biệt thự thật nhanh, họ vẫn phải tiến bước một cách thận trọng. Mưa vẫn chưa ngừng hẳn khi cuối cùng họ ra tới con đường trũng, họ bèn tạm trú chân dưới gốc cây lớn đầu tiên bắt gặp trên đường.

“Em có bị ướt hết không thế công chúa?”

“Đừng lo anh ạ. Cái áo này rất được việc. Anh thì sao?”

“Mặt trời ló ra sẽ giúp làm khô mọi thứ.”

Họ đặt bọc đồ xuống và ngồi tựa vào thân cây, lấy lại hơi thở. Sau một hồi, Beatrice khẽ nói:

“Axl này, em thấy sợ.”

“Tại sao, em sợ gì, công chúa của anh? Đến giờ thì không gì có thể làm hại em được nữa.”

“Anh còn nhớ người phụ nữ lạ mặt ăn mặc rách rưới tối tăm nói chuyện với em trên chỗ bụi gai già hôm đó không? Phải rồi, trông cô ấy giống một người điên đi lang thang, nhưng câu chuyện cô ấy kể lại rất giống những gì bà già kia vừa nói. Chồng cô ấy cũng bị một người chèo thuyền đưa đi mất và cô ấy bị bỏ lại trên bờ. Khi rời khỏi vịnh nước trở về, vừa đi vừa khóc vì cô đơn, cô ấy bỗng thấy mình đang đi dọc bên sườn một thung lũng trên cao, từ đó cô ấy nhìn thấy được toàn bộ đường đi cả phía trước lẫn phía sau, và thấy trên đường bao nhiêu người cũng đang khóc lóc như cô ấy. Em cũng chỉ hơi sợ khi nghe chuyện này, em tự nhủ chuyện ấy chẳng có gì liên quan tới anh và em Axl ạ. Nhưng cô ấy cứ tiếp tục nói, rằng vùng đất này đã bị nguyền rủa mà chìm trong màn sương quên lãng, điều này thì chính hai ta đã thấy nhiều lần. Rồi cồ ấy hỏi em: ‘Làm thế nào để bà và chồng bà chứng minh được tình yêu dành cho nhau khi không thể nhớ được những gì đã cùng nhau chia sẻ trong quá khứ?’ Kể từ đó, em cứ suy nghĩ mãi về điều này. Thỉnh thoảng, nó khiến em thấy vô cùng sợ hãi.”

“Nhưng em sợ cái gì mới được chứ, hả công chúa? Chúng ta có định và có muốn đi tới một hòn đảo nào như vậy đâu?”

“Kể cả như vậy Axl ạ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tình yêu của chúng ta tàn lụi trước cả khi chúng ta có cơ hội nghĩ tới việc đến một nơi như thế?”

“Em đang nói gì thế, công chúa của anh? Làm sao tình yêu của chúng ta có thể lụi tàn cho được? Chẳng phải tình yêu ấy bây giờ còn sâu sắc hơn cả khi chúng ta còn trẻ con ngốc nghếch hay sao?”

“Nhưng Axl ạ, chúng ta thậm chí còn không nhớ nổi những ngày ấy. Hay những năm tháng đã qua. Chúng ta không nhớ nổi những cuộc cãi cọ nảy lửa hay những khoảnh khắc bé nhỏ chúng ta cùng vui hưởng và nâng niu. Chúng ta không nhớ con trai của mình, không nhớ tại sao nó lại không sống cùng chung ta.”

“Chúng ta sẽ làm cho những ký ức này sống lại trong mình, công chúa ạ. Hơn nữa, tình cảm trong trái tim anh dành cho em vẫn luôn luôn như một, nhớ hay quên cũng không thay đổi được gì. Em có thấy như vậy không, công chúa của anh?”

“Có anh ạ. Nhưng rồi em lại băn khoăn liệu những gì chúng ta đang cảm nhận trong trái tim mình sẽ chẳng được như những hạt mưa đang rơi xuống người chúng ta từ những chiếc lá sũng nước trên kia, cho dù chính bầu trời đã tạnh mưa từ lâu. Em đang tự hỏi liệu khi không có những kỷ niệm, chẳng có gì nuôi dưỡng tình cảm trong tim thì rồi liệu tình yêu có nhạt phai mà chết hay không.”

“Chúa sẽ không bao giờ để những chuyện như thế xảy ra, công chúa ạ.” Axl khẽ nói, gần như thì thầm, vì chính ông cũng chợt thấy một nỗi sợ không tên dâng lên trong lòng.

“Hôm nói chuyện với nhau bên bụi gai già,” Beatrice tiếp tục, “người phụ nữ lạ mặt đã nhắc nhở em không được lãng phí một chút thời gian nào nữa. Cô ấy nói chúng ta phải làm tất cả những gì có thể làm để nhớ lại những gì chúng ta đã từng cùng nhau chia sẻ, cả điều hay lẫn điều dở. Và đến giờ, lúc chúng ta lên đường rời khỏi chỗ trú mưa, câu trả lời của người chèo thuyền kia chính là điều em vừa mong đợi vừa sợ hãi. Cơ hội của chúng ta là gì, hả Axl, khi chúng ta thế này? Nếu một ai như vậy hỏi chúng ta kỷ niệm yêu dấu nhất của chúng ta là gì? Axl, em sợ lắm.”

“Chà, công chúa ơi, không có gì mà em phải sợ hãi. Chúng ta chưa mất hoàn toàn trí nhớ, chúng ta chỉ để thất lạc đâu đó vì màn sương phủ xấu xa này mà thôi. Chúng ta sẽ tìm lại được chúng, nếu cần thì từng kỷ niệm một. Chẳng phải đó là lý do chúng ta thực hiện hành trình này hay sao? Khi con trai đứng trước mặt chúng ta, anh tin chắc rất nhiều điều sẽ bắt đầu quay lại.”

“Em hy vọng thế. Những gì người chèo thuyền ấy nói càng khiến em lo sợ hơn.”

“Hãy quên anh ta đi, công chúa ạ. Chúng ta đâu có cần con thuyền của anh ta, cả hòn đảo của anh ta nữa? Mà em nói đúng đó, mưa đã tạnh và nếu bước chân ra khỏi tán cây này, chúng ta sẽ sớm khô ráo thôi. Hãy lên đường thôi nhỉ, và đừng bận tâm đến những ưu lo này nữa.”