Là một y sĩ có được sự huấn luyện về thực vật và có thú vui nghiên cứu những cây cỏ dược thảo từ lâu, tôi làm việc với tư cách là một cố vấn cho nhiều nhóm nghiên cứu về dược thảo, một trong những nhóm đó là Hiệp Hội Thực vật Mỹ Quốc ở tại Austin, Texas. Mới đây, viên giám đốc của hội đồng quản trị tên Mark Blumental yêu cầu tôi có ý kiến phê bình về một lá thư mà ông nhận từ một người đàn bà ở Chicago, bà ta hết sức tán dương ca tụng một chất thuốc tên ginkgo đem lại sức khỏe lớn lao cho bà. Bà đang dùng những viên thuốc rút ra từ những cái lá của một cái cây tên Ginkgo biloba, đây là một cây địa phương ở Trung quốc và giờ đây được trồng nhiều ở những thành phố khắp thế giới, bởi vì nó chống lại sự ô nhiễm. Cái cây có hình dáng dễ thương, lá hình quạt, đã được dùng trong nhiều thế kỷ trong Y khoa cổ truyền Trung Quốc, và cây cái sinh ra hột có thể ăn được. Chỉ trong vòng vài năm nay, thuốc chế ra từ lá cây ginkgo đã có thể mua được tại Tây phương. Sản phẩm này trở nên hết sức phổ biến ở Đức dùng để trị những rối loạn tuần hoàn và giờ đây có thể mua ở những tiệm bán sản phẩm sức khỏe (health food stores) ở nước Mỹ. Những người trong giới Y khoa xem có vẻ quên lãng vị thuốc này.
Để tôi trích đăng một đoạn dài từ bức thư:
Một người bạn 84 tuổi của tôi (tôi được 60 tuổi) gọi hỏi tôi có biết gì về thuốc Ginkgo biloba (Bạch quả) hay không. Tôi nói không, nhưng tôi sẽ tìm hiểu về nó. Sự tìm kiếm của tôi dẫn tôi đến hai cuốn sách. . . . Rồi tôi tìm kiếm thêm một chút bên ngoài và đạt được vài chuyện nhỏ.
Sự tác dụng của thuốc Ginkgo đối với tôi thật là kinh ngạc đến nỗi tôi trở thành một cái loa quảng cáo cho loại thuốc này. Tôi bắt đầu nhận thấy tác dụng của thuốc vào ngày thứ ba uống thuốc (mỗi ngày một viên từ lúc ban đầu). Trong vòng vài ngày lại có thêm nhiều hiệu lực. Trong suốt tuần lễ thứ hai tôi bắt đầu uống ba viên một ngày, mỗi viên cho một bữa. Tôi tin rằng vào tuần thứ ba tôi không còn bị căng thẳng thần kinh nữa và bắt đầu cảm thấy thế giới là một nơi tuyệt vời để sống.
Tôi bắt đầu có thêm năng lực. Trong vòng một khoảng thời gian sáu tuần tôi lại càng thấy thêm nhiều sự thay đổi hơn nữa. . . Một trong những thay đổi ngoạn mục nhất là khi thuốc Ginkgo tạo cho tôi được sự quân bình. Tôi thường dùng gậy vì dáng đi của tôi không được đều đặn, tôi phát hiện ra rằng tôi không còn dùng gậy, và tôi bước những bước dài đều đặn, vững chãi. Không tới vài phút sau tôi đã chạy tới người bạn tôi quen biết và hứng khởi nói cho bà nghe những gì vừa xảy đến cho tôi. Tôi dùng cây gậy quay vòng xung quanh thay vì dùng nó để chống khi bước đi. Tôi quá sức vui mừng phấn khởi vì tôi đã xoay hẳn cả cuộc đời tôi một cách nhanh chóng (một cái gì đó mà tôi không làm được trong nhiều năm. ). (Tôi biết mọi người sẽ nghĩ rằng tôi điên). Tôi lúc nào cũng tươi cười- giống người tôi gặp vậy!
Tôi còn đau ở chân và bàn chân. Tôi lấy lại hơi thở bình thường. Và giờ đây, sau một năm, tôi không còn không trông thấy vào ban đêm và tôi lại lôi kéo ông bác sĩ mắt của tôi (opthalmologist) (thích dùng Ginkgo nữa chứ). Thị lực của tôi khá hơn, và thính giác của tôi cũng được cải tiến nhiều. (Cái máy truyền hình của tôi do đó cũng được vặn nhỏ thay vì vặn lớn).
Tôi gọi điện thoại và viết thư cho những người tôi biết. Mọi người cần biết những gì đã xảy ra cho tôi. Những người có dịp nhìn tôi sau khi tôi dùng thuốc Ginkgo đều ngạc nhiên đến sững sờ.
Một người làm nghề trang điểm sắc đẹp bị đau nhiều ở cổ tay vì cô ta dùng tay quá nhiều trong công việc của cô. Sau khi lắng nghe tôi, cô bắt đầu dùng thuốc Ginkgo và sau đó thông báo là không những cô giảm bớt đau mà còn ngủ ngon hơn trước đây. Có một người đàn bà có tuổi trên 40 thường khi bước ra khỏi nhà, và khi nào muốn đi, bà cần mang theo một ống khí oxygen để dùng trong thời gian bà ra ngoài. Sau khi dùng thuốc, nay bà dùng rất ít khí oxygen- và lại có thể đi nhiều chỗ. Điều này làm sửng sốt những người biết bà và lịch sử bệnh tật của bà.
Tôi bị chứng đau hàm dưới (TMJ (temporo-mandibular joint))- hay tôi nói rằng tôi có chúng. Bất thình lình tôi không còn bị cơn đau hành hạ nữa! Đúng là nhờ thuốc Ginkgo rồi. Tôi khám phá ra rằng lúc nào tôi còn uống thuốc Ginkgo là tôi không bị phiền não bởi cơn đau. Ngay cả tiếng tíc tắc của đồng hồ tôi cũng thấy đi đâu mất tiêu !
Tôi có một bà mẹ năm nay 94 tuổi ở trong nhà dưỡng lão và năm nay bà thay đổi những bác sĩ của bà... Vị bác sĩ mới đồng ý cho bà dùng thuốc Ginkgo nếu tôi trả tiền thuốc cho bà. Chắc chắn là tôi đồng ý làm chuyện đó.
Ngày thứ tư cuối cùng của tháng giêng 1994 là ngày mà bác sĩ đồng ý cho dùng Ginkgo. Ông cho phép bà uống mỗi ngày một viên. Tôi không quan tâm nhiều về chuyện đó, vì tôi đã từng thấy một người đàn bà 84 tuổi nói với tôi về thuốc Ginkgo, lần đầu tiên về thuốc Ginkgo đã làm cho bà khỏe khoắn vô cùng dù bà chỉ uống mỗi ngày một viên mà thôi !
Ngày hôm sau mẹ tôi bắt đầu uống Ginkgo. Từ thứ năm đến chủ nhật bà thay đổi kỳ lạ ! Bà không còn bị căng thẳng thần kinh nữa. Bà có vẻ vui. Bà tràn đầy sức sống. Giọng nói của bà thay đổi từ một giọng yếu đuối, nhỏ nhẹ (bạn có thể nghe thấy sự bệnh hoạn trong giọng nói của bà) thành một giọng nói mạnh mẽ, cứng cát. Tôi có thể cảm thấy như có dòng điện trong phòng đó giữa tôi và mẹ ! Tôi rất cảm thấy sung sướng khi nhìn thấy sự thay đổi của bà và bà cũng vui sướng rộn ràng khi cảm thấy khỏe khoắn hơn lên! Bà cũng có sự tiến bộ thần diệu về thị giác của bà! Điều này đã làm cho cuộc đời bà bước sang một ngã rẻ hoàn toàn mới. Trước đây bà sống trong thế giới nhỏ hẹp của bà- bà không thể nghe người khác nói ngoại trừ họ la lớn (và một vài người cảm thấy khó chịu khi làm chuyện ấy), bà không có thể suy nghĩ sáng suốt (thường hay quên những chuyện ngắn hạn, lẫn lộn, căng thẳng, v.v. . . )
Bất thình lình bà nghe thấy! Lần đầu tiên bà muốn biết cách làm sao để sửa cái máy trợ thính của bà (hearing aid). Và một hôm bà bắt đầu nói chuyện với mọi người trong bàn tiệc tối của bà- một chuyện mà bà chưa từng làm trước đây !. . . Rõ ràng là sự mất mát trí nhớ ngắn hạn của bà đã có tiến bộ. . . Bệnh trĩ (hemorrhoids) của bà cũng có tiến bộ. Tôi hy vọng có nhiều điều thêm nữa cũng tiến bộ. . . . .
Thật Là Tuyệt Vời Để Có Thể Cảm Thấy Giống Như Nó Phải Được Cảm Thấy - Sẵn Lòng Hít Thở Và Tận Hưởng Cuộc Sống Giống Như Nó Phải Được Tận Hưởng! Một Người Chỉ Không Muốn Dừng Lại Mà Thôi.
Một người đàn ông tôi quen biết uống một viên Ginkgo mỗi ngày trong vòng chừng sáu tháng. Ông ấy bị chứng bịnh tai nghe lùng bùng. Sau khi dùng thuốc Ginkgo ông không còn bị lùng bùng tai nữa. Ông ấy ngưng không uống thuốc Ginkgo nữa. Chứng bệnh tai lùng bùng trở lại ngay.
Tôi tin rằng chuyện cần thiết là phải tiếp tục uống Ginkgo nếu bạn tính chuyện duy trì những điều lợi lộc do thuốc mang lại. Đối với những người bị bệnh tật hành hạ quá nhiều thì tiền mua thuốc Ginkgo thật đáng đồng tiền bát gạo ! Còn đối với nhiều người cảm thấy đời không đáng sống nữa. Tôi ước mong là có thể đến với họ và nói với họ và sự trị bệnh thần diệu của thuốc Ginkgo!
Lá thư này là một ví dụ điển hình của một lời chứng nhận cho một sản phẩm sức khỏe. Nó sẽ dễ dàng bị loại bỏ bởi nhiều nhà khoa học nghiên cứu Y khoa, những nhà nghiên cứu này sẽ có khuynh hướng quăng bỏ tất cả những lời chứng nhận vào thùng rác có tên là "Những bằng chứng vụn vặt có tính giai thoại". Trong danh từ Y khoa "bằng chứng vụn vặt" (anecdotal evidence) có nghĩa là “không có giá trị khoa học hay quan trọng gì cả”. Tôi có một cái nhìn khác về thứ vật liệu này, và tôi thích thú khi nhìn thấy tại sao có nhiều bác sĩ gặp khó khăn với nó.
Tôi đề nghị câu trả lời đơn giản nhất là những bác sĩ và khoa học gia không muốn bị nhìn nhận như những tên ngớ ngẩn, và họ cảm thấy mối nguy khi hỗ trợ cho những sản phẩm hay những kỹ thuật mà những kết quả rêu rao có thể trở nên sai lầm hay không thể chứng minh được bằng những cuộc thử nghiệm được kiểm soát. Nhưng cũng thật là ngu xuẩn tương tự nếu bỏ đi những bằng chứng cung khai, bởi vì nó có thể đề ra những hướng đi cho sự thẩm tra có tính thử nghiệm cũng như cung cấp những đầu mối cho căn bản của sự lành lặn.
Những khoa học gia chống đối những lời chứng nhận, coi như chúng ngoài vòng tay, dựa trên sự giả định là nguồn thông tin sai lạc, rằng những người chứng nhận bị lừa dối hay chỉ bịa ra câu chuyện vì lý do này hay lý do khác. Tinh túy của một nền khoa học tốt là phải có một sự thẩm tra cởi mở (open-minded inquiry), thế thì ít nhất tại sao nó không thử chứng thực những câu chuyện? Kinh nghiệm trải qua quá nhiều của tôi là bất cứ khi nào tôi gặp và phỏng vấn những người viết những lá thư chứng nhận đến cho tôi, tôi tìm thấy một điều là tôi không có lý do gì để không tin họ, cho dù tôi có thể không đồng ý với những cách mà họ diễn tả kinh nghiệm của họ. Chẳng hạn như tôi tin người viết lá thư đã được trích dẫn ở trên chứng kiến sự thay đổi tích cực trên sức khỏe của riêng bà cùng sức khỏe của bà con và bạn bè bà. Tôi không chắc rằng tôi đồng ý với sự xác nhận của bà là, ”chắc chắc là do thuốc Ginkgo ! Chắc phải như thế?"
Khoa học là sự thu thập theo thứ tự của kiến thức bằng phương pháp thẩm tra có hệ thống và sự thử nghiệm, nhưng bạn lấy tư tưởng ở đâu để thẩm tra hay thử nghiệm ngoại trừ những kinh nghiệm của bạn về thế giới chung quanh bạn? Thử nghiệm mù quáng, không có sự bắt đầu từ những giả thuyết được đề nghị từ kinh nghiệm thì chỉ phí thì giờ, tiền bạc, công sức. Tôi bắt đầu trở nên thích thú tìm hiểu Bác sĩ Fulford và qua ông về môn lý thuyết xoa nắn sọ (cranial osteopathic theory) và thực tập như là một kết quả của sự chú tâm về những lời chứng nhận về công việc của ông. Những lời chứng nhận đã dẫn tôi đến những sự khám phá của nhiều sự thực hành hữu ích khác nữa.
Vài năm trước đây tôi có nhận được một bức thư của một người đàn ông ở Califomia diễn tả một kinh nghiệm đáng nhớ với một sự chuẩn bị cho một loại dược thảo gọi là củ máu (blood-root), mà ông ta nói rằng nó có khả năng thần kỳ làm tan những phân tử và nhiều chất sinh trưởng khác trên da, bao gồm ít nhất một trường hợp ông chứng kiến là có một mụt nhọt màu đen nguy hiểm (malignant melanoma). Ông ấy thúc dục tôi nên mua một sản phẩm của một người đàn ông già ở Utah đã chuẩn bị và thử nghiệm nó. Tôi gửi thư mua (nó không đắt lắm), và sau đó không lâu một cái hộp chứa một chất bột nhão có màu máu, có chất dầu, được gửi đến theo đường bưu điện mà không có lời chỉ dẫn nào cả. Tôi vào tủ sách của tôi để đọc và tìm hiểu thêm về loại thực vật này.
Củ máu là một loại dược thảo nhỏ, có tên khoa học là Sanguinaria canadensis, là giống địa phương của miền Trung Mỹ và Canada. Rể của nó ứa ra một dung dịch đỏ như máu, gây ra sự thích thú cho thổ dân da đỏ muốn dùng thử củ này như một loại thuốc. Củ máu là một trong những dược thảo trị bệnh thông dụng nhất được người da đỏ và những người âu Châu tới lập nghiệp sau này xài, họ uống vào bên trong để chữa bệnh sưng cổ họng và những bệnh về đường hô hấp và dùng bên ngoài cho sự tăng trưởng trên bề mặt thân thể. Dược thảo lá cây này rơi vào tình trạng mất thiện cảm trong thời đại tân tiến này vì bị lên án là nó có chứa đựng chất độc: nếu uống vào bên trong, nó sẽ làm rầy rà đến sự phân chia tế bào và có thể dẫn đến sự thay đổi và ung thư. Cơ quan thực phẩm và thuốc men cho nó vào trong danh sách những dược thảo nguy hiểm nhất. Nhưng tôi có thể tìm thấy một lô những dẫn chứng nói về khả năng đặc biệt của nó nhằm xóa đi những sự phát triển bất thường trên da mà không làm hại đến tế bào bình thường, ngay cả chuyện dược thảo này có thể làm tan đi chứng ung thư ngực ăn mòn ngay dưới da, và do đó được dùng để trị liệu trong những ngày trước khi có những phương cách để trị liệu bệnh ung thư ngực như bây giờ. Được dùng như một thứ thuốc rịt vào da, nó có vẻ an toàn.
Bởi vì tôi chưa có nhu cầu dùng ngay chất thuốc này, tôi để vào tủ lạnh và quên bẵng nó đi. Tôi chỉ nhớ đến nó sáu tháng sau, khi tôi phải quyết định dùng nó để trị bệnh cho con chó cái Coca của tôi. Nó được sáu tuổi và ở trong tình trạng sức khỏe tốt ngoại trừ có một vết lở phát triển bên phía phải gần vai. Lúc bất đầu vết lở có màu da đen nhỏ nhưng dần dần nó lớn lên bằng hòn bi và có màu hơi đen. Ông bác sĩ thú y của tôi nói với tôi rằng vết lở đen này sẽ biến đi. Ông nói thêm, "Vết lở này rồi sẽ biến thành cục u màu đen." Lấy nó đi có nghĩa là gây mê cho con chó, đó là điều tôi không muốn làm, vì chuyện gây mê là một chuyện có nhiều nguy hiểm xảy đến nhiều cho chó hơn là người. Cho nên tôi không làm gì cả và mụt u này vẫn tiếp tục lớn mạnh.
Rồi bỗng nhiên tôi nhớ đến lọ thuốc tôi để trong tủ lạnh. Đây quả là cơ hội tốt nhất để thử sức mạnh của củ máu. Tôi trét một lớp mỏng chất củ máu lên trên vết lở, và cứ tiếp tục trét như thế trong vòng ba ngày vào buổi sáng. Vào ngày thứ tư, lúc tôi gọi con chó Coca lại để tiếp tục xức thuốc cho nó, tôi chú ý khi thấy máu chảy xuống từ vết thương. Cục u đã biến thành màu xám và như muốn tróc khỏi da, để lại một cái vết thương sâu như một lỗ hổng sâu hoắm phía dưới. Tôi ngưng bôi chất củ máu, dùng nước khử trùng hydrogen petroxide lau sạch vết thương và để ý xem khu vực mục u ra sao. Hai ngày sau, toàn thể mục u giờ đã biến thành màu xám, rớt xuống, để lại một mảng hình tròn còn tươi và nhanh chóng lành lặn sau đó. Kết quả cuối cùng là da lành lặn hẳn và không còn dấu vết nào của mụt u nữa. Cái củ máu đã dời chỗ mụt u đi một cách gọn gàng còn hơn là người dùng đến dao giải phẫu nữa. Sau đó một thời gian, lông mọc lên chỗ vết thương, bao phủ nó toàn vẹn. Tôi không thể trông chờ một kết quả nào tốt đẹp hơn thế nữa, đặc biệt là con chó không tỏ lộ ra một sự bất ổn khó chịu nào.
Thử với súc vật như vậy là quá đủ, tôi chuẩn bị để thử với con người. Sau đó không lâu một người bạn tới viếng thăm tôi và chỉ cho tôi tôi coi một nốt ruồi trên ngực của anh làm anh lo lắng. Anh ta làm nghề chụp hình và tên là John Fago. Vài năm trước đây anh bị cưa một chân vì bệnh ung thư xương. Trước khi giải phẫu anh là một người trượt tuyết xuống đồi năng động và giờ đây còn một chân anh vẫn trượt tuyết nhuần nhuyễn như ngày nào. Nói một cách theo thống kê thì cơ hội để chữa lành bệnh ung thư của anh rất lớn, và anh cẩn thận để theo đuổi một lối sống có triển vọng chữa lành bệnh nhiều hơn nữa. Anh vẫn lo ngại về sự lớn mạnh kỳ lạ này (mụt ruồi). Mụt này là một mụt chứa sắc tố của tế bào đã được căng lớn lên. Lúc tôi kể cho John nghe về chuyện cái củ máu trị bệnh con chó của tôi, anh ta không ngần ngại và nói với tôi, "Cứ thử cho tôi đi. "
Không giống như con chó có lông che ngoài nên mụt u của John dễ dàng quan sát tiến trình trị bệnh. Vào ngày thứ hai bôi chất củ máu lên, da chung quanh mụt ruồi sưng tấy lên, rõ ràng có phản ứng của hệ thống miễn nhiễm từ bên trong cơ thể., và John nói rằng hơi bị rát. Vào ngày thứ ba, mụt ruồi trở nên xanh xao và sưng lên. Vào ngày thứ tư, nó rụng xuống, để lại một vòng tròn vết thương và lành lặn nhanh chóng. Sau đó tôi yêu cầu John diễn tả kinh nghiệm này của anh với một nhóm sinh viên Y khoa. Anh làm đúng như lời tôi yêu cầu và kết quả là tôi bắt đầu có thêm những lời yêu cầu xóa mụt ruồi mà không cần giải phẫu. Qua nhiều năm tháng tôi đã đưa nhiều chất thuốc củ máu và cách thức dùng chúng cho một số sinh viên Y khoa, và kết quả lúc nào cũng chắc chắn và hài lòng. Trường hợp mới nhất là một cô gái trẻ có một mụt u lớn nằm ở chỗ cài nút áo ngực. Một bác sĩ về da (dermatologist) muốn cắt bỏ nó đi, nhưng sự diễn tả của ông về kích thước của vết cắt làm cô thối lui, và cô biết sự lành lặn sẽ khó khăn vì vị trí của chỗ cắt. Cô hỏi tôi còn có cách nào khác không ngoài chuyện giải phẫu cắt bỏ. Củ máu đã giải quyết vấn đề của cô. Sau này cô nói với tôi, "Thật là rùng mình khi nhìn mụt u vào ngày thứ ba xức thuốc củ máu. Nhưng tôi nhớ lời ông về những gì sẽ xảy ra, nên tôi rán không ưu tư gì nhiều. Giờ đây thì mụt u đã ra đi toàn vẹn, và tôi nghĩ nó rụng vì xức thuốc thế này thì tốt đẹp hơn là nhờ ông bác sĩ da giải phẫu cắt bỏ. Tôi thật vô cùng ngạc nhiên. "
Đó là một ví dụ của một sự khám phá bằng cách chú ý quan sát một lời chứng nhận. Tôi hy vọng rằng nó sẽ gây hứng khởi cho sự thẩm tra khoa học vào cơ cấu mà trong đó củ máu sẽ có khả năng kích thích sự chống lại của những tế bào bất bình thường và vào trong những áp dụng có thể có cho sự chữa trị của những sự lớn mạnh ngoài những mụt nhọt.
Nói chuyện về những sự trị bệnh của dược thảo với bác sĩ có phần nào khó khăn vì họ không được huấn luyện về thực vật học trong Y khoa (medical botany) và vì môn này bị phân cực quá cao (highly polarized), và một vài người có trách nhiệm cho rằng dùng dược thảo trong Y khoa không những là không có khoa học, chỉ dựa thuần túy trên những bằng chứng lưu truyền, mà còn nguy hiểm nữa. Nói như vậy là đứng ở tư thế chưa có thông tin đầy đủ. Không những có những thứ thuốc tây quen thuộc ngày nay được chế tạo từ cây lá; mà có cả một nỗ lực ngày hôm nay để nghiên cứu những cách thức chữa trị bằng dược thảo cổ truyền bằng những phương pháp của khoa học hiện đại. Nói chung, dược thảo cây lá trị bệnh an toàn hơn thuốc tây (pharmaceutical drugs) vì chất cấu tạo chủ động của chúng đã được làm loãng bớt đi bằng vật liệu không tác dụng (inert material) và được cải tiến bằng thành phần thứ hai. Mặt khác, những nhà sản xuất những sản phẩm dược thảo thường đưa ra những lời công bố không có bằng chứng cụ thể để có thể bán hàng trong một thị trường tranh đua rộng lớn không có tổ chức điều hành chặt chẽ.
Hãy lấy trường hợp chất thuốc Ginkgo biloba. Hàng chục những bài viết khoa học nói về chất hóa học và dược tính của nó, căn cứ vào sự thử nghiệm trên súc vật và người, đã xuất hiện trên những tạp chí tốt, dù những tạp chí này không phải là thứ được đọc bởi những y sĩ Mỹ (Tôi không quên nghĩ đến một vị y sĩ tôi biết thường đọc tờ Planta Medica, một tờ báo của Đức và là một trong những báo tốt). Nếu bạn điểm qua loại văn chương tài liệu phong phú về ginkgo, bạn sẽ tìm thấy bằng chứng rằng nó tăng lên số lượng máu luân lưu trong cơ thể, đặc biệt là ở đầu. Nó đã được chứng tỏ là một loại thuốc điều trị hữu hiệu và không có chất độc cho chứng rối loạn về thính giác và sự quân bình sinh ra do sự luân lưu yếu kém của máu đến tai và trí nhớ kém cùng những nhiệm vụ của tinh thần do máu cung cấp cho bộ óc bị khiếm khuyết. Nó không có chất độc nếu so với thuốc tây dùng để trị những trường hợp này.
Những sự tác dụng được biết đến của chất chắt lọc từ ginkgo cũng hiển nhiên như những kết quả vừa ý được trình bày trong lá thư của người đàn bà ở Chicago, nhưng những công hiệu mà bà ta kể về chuyện bà ta đã kinh nghiệm đã đi xa hơn những tác đụng đã được biết của thuốc. Ngoài ra, liều lượng mà dùng như vậy là thấp. Liều lượng có hiệu quả theo tiêu chuẩn thường là một ngày ba lần, mỗi lần ba viên. Ngay với liều lượng như thế, bệnh nhân được khuyến cáo nên kiên nhẫn; hiệu lực của thuốc ginkgo thường không xuất hiện trước sáu hay tám tuần dùng thuốc liên tục. Cho nên ngay cả khi chúng ta chấp nhận câu chuyện là đúng, thì vẫn còn có câu hỏi về sự phân công của nguyên nhân và kết quả. Liệu thuốc Ginkgo gây ra những thay đổi bổ ích chăng?
Câu hỏi này đã nêu lên một vấn đề hóc búa để làm cho thêm nhiều bác sĩ quăng những lời chứng nhận vào sọt rác. Ai cũng biết rằng niềm tin trong Y khoa có thể tạo ra những kết quả thuận lợi ngay cả khi chất thuốc dùng không có hiệu quả. Đây là một sự đáp ứng của thuốc giả (placebo), nhiều bác sĩ không thích chuyện này vì nó làm vẩn đục những cuộc thí nghiệm của họ và có vẻ không được khoa học cho lắm nếu nhìn lăng kính của mô hình thực vật Y khoa (biomedical). Tôi coi sự tác dụng của thuốc giả (placebo response) là một ví dụ thuần túy của chuyện lành lặn phát sinh ra từ tâm trí; chứ đây không phải là chuyện ruồi bu; nó có khả năng trở thành một đồng minh chữa bệnh mà bác sĩ có thể tìm đến trong nỗ lực làm giảm nhẹ cơn bệnh. Tôi còn tin xa hơn nữa là nghệ thuật của Y khoa là sự lựa chọn của những phương pháp chữa trị và phương cách điều trị của họ đến bệnh nhân sẽ làm tăng tiến thêm sự hữu hiệu thông qua tác động của những phản ứng do thuốc giả gây nên. Cách tốt nhất mà một y sĩ để làm chuyện này là dùng những cách chữa trị mà bạn thật tình tin tưởng, bởi vì cái niềm tin bạn đặt vào những chuyện bạn làm gây xúc tác niềm tin của bệnh nhân của bạn.
Không may mắn thay, quan điểm về thuốc giả không còn được hợp thời nữa ngày nay. Nhiều bác sĩ không muốn dính dáng gì đến thuốc giả nữa, họ chỉ thích những phương pháp chữa trị "thật" hữu hiệu qua những cơ cấu sinh hóa tương tự. Họ cũng muốn những phương pháp chữa trị có những kết quả cụ thể ("giống như cây đũa thần" vậy). Nếu một vị thuốc bắt đầu có hiệu quả trong nhiều điều kiện khác nhau, nhiều bác sĩ sẽ mất hứng thú vào nó, vì họ nghĩ thiếu sự đặc trưng riêng biệt có nghĩa là thiếu một cơ cấu làm nền tảng (underlying mechanism). Nói một cách khác chất thuốc này có thể- nói một cách rốt ráo!- chỉ là một thứ thuốc giả mà thôi (placebo).
Tôi cho rằng cách suy nghĩ này là lối suy nghĩ riêng lẻ của Y khoa Tây phương. Trong truyền thống Y khoa Trung quốc, thuốc men, đa số vốn là dược thảo, được chia làm ba hạng là: tuyệt hảo, trung bình, và yếu. Những thuốc yếu là những thuốc có những tác dụng nào đó trong những điều kiện nào đó, những viên thuốc thần dược cũng giống như những cách trị bệnh lý tưởng nhanh nhất của Tây phương. Những thuốc trung bình có sức mạnh rộng rãi vì nó làm những chức năng của cơ thể mạnh lên. Thuốc tuyệt hảo là thuốc bổ và thuốc trị bá bệnh. Sâm (ginseng) là một ví dụ điển hình, gốc tiếng la-tinh của nó là "Panax", có chung một nguồn gốc như từ panacea, có nghĩa là "chữa trị toàn bộ". Theo khái niệm của người Trung Hoa, thuốc tuyệt hảo chữa trị tốt bằng cách kích thích những chức năng đề kháng của cơ thể, làm cho nó có nhiều sức đề kháng nhiều hơn để chống lại với đủ thứ bệnh. Những thuốc này không có chất độc, chúng không phải là những vũ khí chống lại một số bệnh tật nào đó; nhưng bằng cách gia tăng khả năng đề kháng nên dĩ nhiên chúng chống đủ thứ bệnh một cách hữu hiệu.
Những dòng viết lạc đề này đề cập đến quan niệm Y khoa và sự khác biệt giữa Y khoa Tây phương và Đông phương chỉ có một ý định đơn giản là chỉ ra nhiều lý do tại sao những bác sĩ có đầu óc khoa học lại có thể bỏ qua những lời chứng nhận như trường hợp lá thư được trình bày ở trên. Nói tóm tắt: họ có khuynh hướng không muốn tin vào những câu chuyện và không rán tìm cách chứng thực chúng, có lẽ vì sợ rằng người nào đó đang rán tìm cách đặt cái gì đó vào họ; họ không sẵn lòng hỗ trợ (hay ngay cả xem xét) những cách điều trị rớt ra ngoài lãnh vực kinh nghiệm của họ, giống như những cách điều trị bằng dược thảo; và họ ngần ngại khi đưa ra những lời diễn dịch về nguyên nhân và kết quả vào những câu chuyện có tính cách giai thoại loại này vì họ sợ những ứng dụng hữu ích khi được công bố, nếu quả thật đúng như thế, sẽ trở thành "không gì khác hơn" là những tác dụng của thuốc giả. (placebo responses). Thuốc giả (placebo) là một chất thuốc bột thuần túy không có tác dụng trị bệnh gì cả, nhưng bác sĩ vẫn cho bệnh nhân uống và nói là một chất thuốc diệu kỳ, bệnh nhân đôi khi khỏi bệnh dù uống chất thuốc giả không có chất thuốc trị bệnh này. Và điều này đã nói lên tác dụng tâm lý của bệnh nhân làm cho bệnh nhân khỏi bệnh chứ không phải vì thuốc.
Trải qua nhiều năm tôi viết và nói trước công chúng, tôi đã nhận được hàng trăm hàng vạn những lời chứng nhận. Cứ mỗi lá thư chứng nhận tôi nhận được thì tôi nghe cả tá những câu chuyện khác không được viết ra giấy. Trong những thành đạt được bệnh nhân hết lời ca ngợi những phương cách chữa trị diệu kỳ khác nhau: những dược thảo (quen thuộc và không quen thuộc), một số thực phẩm nào đó và những chế độ ăn uống, vitamins và những chất phụ trội, thuốc (toa, bán qua quày hàng, và bất hợp pháp), châm cứu, tập thể dục yoga, sự phục hồi sinh hóa (biofeedback), phép chữa theo lối vi lượng đồng căn (homeopathy), chỉnh xương (chiropractice), giải phẫu (surgery), cầu nguyện, xoa bóp (massage), tâm lý trị liệu (psychotherapy), yêu thương, hôn nhân, ly dị, tập thể dục, phơi nắng, nhịn ăn (fasting), và v...v. Tôi thâu thập những dữ kiện này, cất giữ và trân trọng chúng. Toàn thể những dữ kiện này bao gồm nhiều loại phong phú và tựu trung xoáy mạnh về một điểm: Người ta có thể trở nên khỏe khoắn hơn. Hơn thế nữa, họ có thể khá hơn dù đang bị nhiều tình trạng bệnh hoạn khác nhau, ngay cả những bệnh hiểm nghèo nhất trong một thời gian dài.
Giống như những bạn đồng nghiệp của tôi, tôi cũng thường đặt câu hỏi về những sự diễn dịch đơn giản về nguyên nhân và kết quả; nhưng không giống như họ, tôi không quăng đi những báo cáo. Những lời chứng nhận là những mảnh bằng chứng quan trọng. Chúng không nhất thiết là sự chứng nhận cho sức mạnh hay giá trị của những người chữa bệnh hay sản phẩm nào đó. Hơn thế nữa, chúng là lời chứng nhận cho khả năng của con người trong chuyện làm lành lặn cơ thể. Bằng chứng hiển nhiên là cơ thể có khả năng làm lành lặn chính nó. Khi bỏ quên nó đi, nhiều vị bác sĩ tự cắt họ ra khỏi một nguồn lạc quan to lớn về sức khỏe và sự lành lặn.
Những Hình Thái Chung Quanh Sự Lành Lặn: Al
Trong số những người tôi đã phỏng vấn về hồ sơ bệnh lý lành lặn cá nhân của họ, hồ sơ của Alan (Al) Kapuler là một trường hợp bất thường và lý thú nhất. Từ một nhà thực vật học phân tử (molecular biologist) biến thành người làm vườn trong thời đại mới (New Age gardener), ông là một sự tổng hợp của trí thông minh đáng nể và kiến thức rộng lớn của những diễn tiến của đời sống với một sự nhạy cảm sâu xa và sự trân quý dành cho thế giới tự nhiên. Al là người đồng sáng lập và giám đốc của hội Hạt giống Hòa Bình (Peace Seed) ở Corvallis, Oregon, đây là một cơ sở thương mại do gia đình quản lý, đặc biệt chuyên lo về sự bảo quản, truyền giống, và phân phối những loại hoa và cây trái. Ông cũng là giám đốc công ty Những hạt giống thay đổi (Seeds of Change), một công ty hạt giống hữu cơ có tầm mức quốc gia. Al làm việc cực nhọc, yêu quí cây cỏ của ông, thu thập và đóng gói hàng ngàn hột giống bằng tay, và Al nguyện đi theo đường hướng bất bạo động như một nguyên tắc chung.
Al Kapuler tốt nghiệp tối ưu môn Thực vật học (Biology) tại đại học Yale năm 1962 lúc ông chỉ mới mười chín tuổi. Ông tính đi vào một trường thuốc và nhớ lại chuyện ông được phỏng vấn để vào học trường đại học New York, ông được hỏi tại sao ông muốn trở thành một bác sĩ. Ông trả lời, "Tôi muốn chữa trị bệnh ung thư." Thay vào đó ông học môn Ung Thư tại đại học Rockefeller trong vòng sáu năm, cuối cùng lấy được bằng tiến sĩ (Ph. D) về môn khoa học đời sống. Phần lớn những kinh nghiệm nghiên cứu của ông chú tâm vào chuyện phát triển những nguyên tố hóa học (chemotherapy agents) và hiểu thấu những cơ cấu hành động trên DNA.
Sau khi hoàn thành học vấn không lâu, Al nhảy ra khỏi cái mà ông gọi là "hệ thống vật chất toàn diện". Ông dọn nhà về miền quê, trở nên người hầu như ăn chay, và bắt đầu trồng trọt. Từ đó, ông sống đơn giản và làm việc với đất đai. Vào năm 1987, ông cùng với vợ con đến lập nghiệp tại Corvallis, nơi ông thiết lập Hạt Giống Hòa Bình để tìm kiếm lợi tức. Ông nhớ lại, "Lúc bấy giờ tôi làm việc thật cật lực, tôi sản xuất hai mươi lăm ngàn bao giống, trồng và làm sạch hàng trăm vụ mùa, cố gắng giải quyết vấn đề 'sống làm sao cho đúng,' và tôi làm tất cả những chuyện này với sự giúp đỡ bán thời gian từ bên ngoài; tôi cảm thấy bị căng thẳng khá nhiều."
Bạn sẽ nghĩ rằng với một quá khứ học vấn về ngành sinh y như vậy (biomedical), có lẽ ông ấy sẽ được báo động bởi sự xuất hiện của một vài mụt nhỏ sưng ở chỗ chỗ tiếp xúc giữa bắp đùi và bao tử vào tháng sáu năm 1989, nhưng những vết sưng này không đau, và Al nghĩ rằng chúng sẽ tan đi. Nhưng chúng không đi. Ông cố gắng bơm sức ép nóng và lạnh vào nó nhưng không thành công và đành tiếp tục công việc trồng trọt mệt mỏi. Ông nói với tôi, "Tôi không biết nó là loại sưng gì. Những vết sưng lớn nằm ở hai bên, và có kích thước bằng đồng 25 cents của Mỹ (quarters). Cuối cùng ông đi tìm lời chỉ bảo của một người bạn y sĩ mà ông quen biết từ ngày tốt nghiệp. Người bạn đề nghị ông nên đi rọi CT cho toàn cơ thể (CT scan); rọi xong thì mới biết là có chừng hai mươi lăm đến ba mươi vết sưng bất thường từ cổ đến chỗ mông, hai vết sưng được cắt mẫu đi làm thí nghiệm. Kết quả là có tế bào bạch huyết bị ung thư. Ông nói thêm, "Họ nói với tôi rằng tôi có hy vọng sống thêm bảy năm nữa, có lẽ chừng hai hay ba năm nữa trước khi bệnh trở nên tệ hại, và tôi phải đi trị bệnh bằng phương pháp hóa học (chemotherapy)”.
Nhạc mẫu của Al là một người hỗ trợ chuyện dùng thức ăn thiên nhiên nên gửi cho anh ta một cuốn sách chữa bệnh ung thư thế nào cho lành lặn với một chế độ ăn uống vĩ mô (macrobiotic diet). Ông đọc cuốn sách này cùng với những sách khác về cách ăn uống chống ung thư. Ông tìm thấy những sách về cách ăn uống vĩ mô (macrobiotic) là có ý nghĩa nhiều nhất. Ông nói, "Những sách này dùng ít tài liệu khoa học giả hiệu (pseudoscience) hơn những sách khác. Sách chỉ nói những cấu trúc nào đó của cách ăn uống gây ra bệnh ung thư, và sách chỉ những cách để bạn đảo lộn lại nó. Tôi cứ nghĩ rằng tôi có một chế độ ăn uống lành mạnh nhưng thật ra chúng tôi tiêu thụ quá nhiều chất đường dưới dạng mật ong và nước trái cây, và tôi lại hút thuốc nữa. Tôi cũng uống cà phê - hai tách cappuccinos với mật ong. Nhìn từ quan điểm của chế độ ăn uống theo kiểu vĩ mô, tất cả những điều trên quá sức là ghê gớm. Tôi ý thức được là tôi phải cắt bỏ mọi thứ không lành mạnh từ cuộc đời của tôi. "Vào tháng mười một năm 1989, ông bắt đầu áp dụng chế độ ăn uống vĩ mô một cách khắt khe: gạo nâu (brown rice), súp, đậu, rau nấu chín, và rau biển (sea vegeatables), và nói theo lời ông, "ăn uống theo kiểu thầy tu Đông Phương". Chế độ ăn uống này không cho phép có cây trái hay xà lách, không có dầu, không bánh mì, không có chất ăn uống phụ trội (dietary suplements), và dĩ nhiên không có sản phẩm của thịt hay sữa, không đường, không rượu.
“Ông có lúc nào nghĩ đến chuyện dùng phương pháp hóa học để trị bệnh hay không?” (chemotherapy). Tôi hỏi.
"Anh đùa với tôi à. Tôi là là nhà thực vật học phân tử. Tôi biết cái trò hóa học này làm hại con người ra sao. Và tôi biết chuyện làm độc con người tôi sẽ không làm nên chuyện gì cả. Ngoài ra, tôi còn nhớ tôi nói với người phỏng vấn tôi vào trường đại học Y khoa nhiều năm trước đây là tôi muốn chữa lành bệnh ung thư. Tôi tự nghĩ, "Chà, giờ đây thì mình có cơ hội để làm chuyện đó rồi!"
"Thật sự, tôi trở nên yêu thích gạo nâu và rau trái, và trong chương trình này, tôi có thể có nhiều thứ tôi muốn. Tôi phải nhai thực phẩm của tôi thật kỹ. Chế độ ăn uống hợp với tôi. Tôi trở nên người ăn uống theo chế độ vĩ mô kể từ dạo ấy, chế độ này trở nên khắt khe hay dễ dãi tùy theo những sự thay đổi ở sức khỏe tôi cho phép. "
Trong vòng mười một tháng theo chế độ ăn uống này, Al không thấy mắt sưng của ông thay đổi gì: Không có mụt u mọc thêm nhưng cũng không thấy tiến bộ gì cả. Trong thời gian này ông thăm viếng một bác sĩ chuyên trị ung thư (oncologist) tại Eugene, Oregon. Vị bác sĩ này thử nghiệm máu hai tháng một lần để coi xem số lượng của bạch huyết cầu bất bình thường trong lượng máu luân lưu trong cơ thể của Al. Số lượng lên xuống bất thường và bác sĩ này áp lực ông Al nên bắt đầu chữa trị bằng phương pháp hóa học (chemo). Al kể lại, “Ông ấy nói với tôi là ông ấy chỉ cho tôi một 'liều lượng nhẹ thôi'. Nhưng tôi nhìn quanh văn phòng của ông, và mọi người trong phòng lúc nào cũng đều ăn kẹo. Có những hộp kẹo chất nơi quày phòng mạch nơi bệnh nhân gặp nhân viên điều hành và y tá. Nhân viên điều hành, y tá, và bệnh nhân cùng ăn kẹo, và rồi bạn thấy những bệnh nhân đi vào phòng chữa hóa học. Tôi nói với ông, 'Đừng bận tâm; chế độ ăn uống sẽ chăm sóc tôi.' "
Vào tháng chín năm 1990, vào khoảng thời gian sinh nhật thứ bốn mươi tám tuổi của ông, Al nhận thấy những mụt u nơi vùng xương chậu của ông có vẻ rúng động. Vào khoảng cuối tháng mười thì chúng mất tiêu, và vùng xương chậu của ông trở lại bình thường hoàn toàn. Máu của ông trở về bình thường luôn và người bác sĩ ung thư hết sức kinh ngạc. Al nhắc lại, "Và một người bác sĩ ung thư nổi tiếng khác nói với tôi rằng tôi là người bệnh nhân duy nhất mà ông biết với triệu chứng ung thư đã được giảo nghiệm, thế mà đã hoàn toàn khỏi bệnh nhờ kết quả ăn uống mà thôi. "
Không có dấu hiệu nào bất thường trong hệ thống bạch huyết cầu của Al cho đến đầu năm 1993, khi ông bắt đầu lại phải chịu nhiều áp lực nặng nề do kết quả công việc. Lợi tức ông bị xuống, và ông rán cố gắng làm việc với một tổ chức khác, và ông cảm thấy ông đang đứng ở ngã ba đường trong nghề nghiệp của ông, với một tương lai bất định. Để đối lại với sự căng thẳng này, ông bỏ đi chế độ ăn uống khắt khe và bắt đầu dùng chất ngọt. Sau đó không lâu ông bắt đầu bị chứng nhiễm trùng lợi (gum infection) vào phía bên phải của miệng. Theo sau đó là nhiễm trùng tai trái. Lúc bệnh nhiễm trùng tai hoành hành thì vết sưng bạch huyết cầu vào phía cổ trái của ông sưng lên. Chúng là những phản ứng nhẹ nhàng, dẫn tới nhiễm trùng hơn là một quá trình độc hại; nhưng khi chuyện nhiễm trùng được giải quyết, những vết sưng bạch huyết cầu vẫn cứ lớn lên. Giờ đây Al có sáu vết sưng bất thường ở cổ ông. Ông cũng phát triển vết lở trên ba ngón tay của bàn tay phải; nó đi theo những chu kỳ, bắt đầu là ngứa và phát triển thành mụn mủ sưng đầy lên để rồi cuối cùng đóng vảy cứng và mất đi. Chuyện làm việc trồng trọt phải thọc tay dưới đất làm cho bệnh càng tệ hại thêm. Al quyết định ông phải làm thêm hành động mới.
"Chế độ ăn uống của tôi trở nên dễ dãi hơn từ mấy năm trước khi tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe khoắn. Tôi quyết định trở lại theo chế độ ăn uống khắt khe. Tôi cũng thấy một cuốn phim tài liệu mà một người bạn của tôi làm về phương pháp chữa bệnh ung thư theo phương pháp Hoxsey, và một người bạn khác làm nghề châm cứu, nói với tôi là anh ta đã thấy một bệnh nhân được chữa khỏi bằng phương pháp châm cứu của anh ta. Tôi quyết định đi đến một y viện nằm ở tỉnh Tijuana, Mễ tây cơ để kiểm chứng mọi chuyện. "
Phương pháp trị bệnh Hoxsey là phương pháp trị bệnh bằng chất bổ, bao gồm có bảy dược thảo cùng chất potassium iodide và một chế độ ăn uống. Chế độ ăn uống này ngăn cấm dùng thịt heo, cà chua, và dấm, và những thứ khác thì kém khắt khe hơn chế độ ăn uống vĩ mô của Al là chế độ ăn uống mà ông đang tiếp tục. Ý tưởng về một một loại dược thảo bổ dưởng đã làm cho Al liên tưởng một cách có cảm tình đến cây cỏ thực vật, đặc biệt vì nhiều loại cây cỏ trong công thức Hoxsey có chứa đựng nhiều chất chống ung thư (anticancer properties).
"Tôi đến Tijuana vào mùa xuân năm 1993, và tôi phải nói rằng tôi được chữa trị tốt tại y viện đó nhiều hơn là những y viện tại Mỹ. Nhân viên điều hành rất nhân từ và săn sóc nhiệt tình. Bạn phải nhớ rằng cha tôi là một bác sĩ, và tôi có nhiều phương pháp chữa trị thông thường. Tôi bị bệnh tê liệt (polio) từ nhỏ- trong trận dịch năm 1949 - và phải nghỉ nhà không đi học trong vòng sáu tháng. Rồi tôi bị viêm hạnh nhân triền miên (chronic tonsillitis) và phải điều trị bằng trụ sinh theo những chu kỳ bất tận trong vòng nhiều năm. Cho nên tôi rất quen thuộc với loại hình thức Y khoa chữa bệnh này, và tôi thích lòng tốt cùng sự kiên nhẫn của những bác sĩ tại tỉnh Tljuana này nhiều. Họ rất thích thú với chế độ ăn uống của tôi đến nỗi họ nói với tôi là tôi đáp ứng rất nhanh với phương pháp trị bệnh bằng dược thảo. "
Al trở về nhà với một lô những lô thuốc của công thức Hoxsey và dùng một ít thuốc này sau mỗi bửa ăn. Trong vòng hai tháng những vết sưng trên cổ hạ xuống và ông ta không có vấn đề gì cả kể từ dạo ấy. Ông nói, "Thật ra, bây giờ tôi còn khỏe khoắn hơn năm năm trước đây. Tôi có nhiều năng lực vô cùng. " Mới đây vừa ghé thăm ông, tôi có thể xác nhận điều đó. Al đã tỏ lộ ra ngoài là ông ta có một sức khỏe tuyệt hảo.
“Ông đã học hỏi được những gì từ những điều này?" Tôi hỏi ông
“Ồ, nhiều lắm, nhiều lắm chứ, " ông đáp lời, "Đầu tiên, bệnh ung thư là một món quà quý hóa, thật sự là một điều tốt nhất đã xảy đến cho tôi. Kết quả nhờ nó mà tôi hiểu nhiều về chuyện cơ thể làm việc như thế nào. Chẳng hạn tôi trở nên nhạy cảm về những kết quả của thực phẩm trên thân thể. Thêm vào đó, tôi khám phá ra những điều thích thú về tiến trình lành lặn về bệnh ung thư. Đây không phải là chuyện một bước đơn giản nhất thời. Tôi nghĩ có sự liên hệ giữa vết lở trên những móng tay của tôi và những vết sưng trên cổ. Có cái gì đó được thải ra dưới da, giống như những hình thái bên trong của bệnh di chuyển dưới da và rồi đi ra khỏi cơ thể. Không một bác sĩ thông thường nào thấy được mối quan hệ đó, nhưng tôi chắc là nó có xảy ra. Giờ đây tôi không có gì trên da tôi cả; nó hoàn toàn trong sạch.
"Tóm lại, tôi chứng nghiệm một điều: mình là y sĩ của chính mình và phải làm mình lành lặn. Điều khôn ngoan mánh lới là phải bỏ cái tôi qua một bên, dẹp những khái niệm ra chỗ khác và để cho thân thể tự làm lành chính nó. Nó biết làm thế nào để làm chuyện đó?