Thật là khó để cho tôi viết về những thất bại của nghề nghiệp tôi nhưng những thất bại này có những hậu quả tiêu cực cho tất cả chúng ta. Hãy đơn giản nhìn sự kiện có quá nhiều bác sĩ bi quan nhiều về chuyện người ta có thể khỏe khoắn hơn, và họ trao đổi sự bi quan của họ đến những bệnh nhân và gia đình. Nhiều bệnh nhân đến gặp tôi đã được nhiều bác sĩ nói đến sự bi quan đó, dù bằng cách này hay cách khác, rằng họ sẽ được học để sống với những vấn đề của họ hay kỳ vọng sẽ chết từ chúng, rằng nền y khoa không còn gì để cung ứng cho họ nữa.
Tôi gặp những bệnh nhân khắp nơi trên nước Mỹ cũng như từ những quốc gia khác, phần đông họ là người chạy trốn môn y khoa thông thường hiện đại (conventional medicine). Chừng mười phần trăm của họ là tốt đẹp - họ không có những vấn đề khẩn cấp và muốn được cố vấn về những chuyện phòng ngừa trong đời sống. Tôi ước mong rằng nhiều người sẽ đến với tôi trước khi họ đau, vì tôi có một lượng thông tin lớn lao về những cách làm sao để giảm những nguy hiểm của bệnh tim, ung thư, tai biến mạch máu não (stroke), và nhiều bệnh khác vốn giết hại và làm chúng ta tàn phế trước thời hạn. Tôi cũng biết những cách để bảo vệ và tăng tiến hệ thống lành lặn của cơ thể, vốn được triển khai vào phần hai của cuốn sách này. Những lời chỉ dẫn của tôi liên quan đến chế độ ăn uống, những mẫu hoạt động và nghỉ ngơi, và những cách để đối phó với sự căng thẳng, cùng với những cách dùng thông minh về vitamin, chất phụ trội (supplement), dược thảo (herbs), và những thực hành lợi dụng trên sự giao tiếp của tâm trí/thân thể.
Phần còn lại chín mươi phần trăm bệnh nhân của tôi, chừng một nửa là có sự than phiền thường xuyên: dị ứng (allergies), đau đầu, mất ngủ, căng thẳng thần kinh, trục trặc đường hô hấp (sinus trouble), thấp khớp ( arthritis), đau lưng, v. . v. Đối với những người này tôi đưa ra những cách chữa ngoại khoa thật sự để thay vào lối chữa của y khoa hiện đại. Từ những chuyến du hành học hỏi nhiều hệ thống trị bệnh khác nhau, tôi gom lại thành một sự thu thập lớn những phương pháp và những cách chữa trị mà tôi tìm thấy an toàn hơn, hiệu quả hơn, và chắc chắn là có giá cả nhẹ nhàng hơn thuốc tây và giải phẫu được cung ứng bởi những người chính yếu đang thực hành cách chữa Y khoa hiện đại. Để điều trị những bệnh thông thường hàng ngày, những phương pháp trị bệnh thông thường hiện đại (conventional methods) được coi như những phương thức trị bệnh quá tay- những thuốc men nặng nề đáng ra chỉ được dùng như là một phương sách cuối cùng, sau những phương pháp đơn giản và an toàn hơn đã thất bại. Vấn đề là những bác sĩ không được huấn luyện để dùng những phương pháp đơn giản vốn lợi dụng khả năng tự lành lặn của thân thể.
Nhóm cuối cùng là nhóm có những bệnh trầm trọng, và triển vọng được chữa lành yếu hơn. Tôi đã nhìn thấy nhiều người có bệnh ung thư, nhiều người khác có những bệnh thoái hóa kinh niên (chronic degenerative diseases). Thường thường những người này nói với tôi là họ coi tôi là hy vọng cuối cùng của họ, vì họ đã thử hết những phương thức chữa trị Y khoa khác. Trong những trường hợp như vậy tôi hành xử như một người cố vấn, giống bệnh nhân cân nhắc lợi hại những lựa chọn để có những quyết định khôn ngoan về cách dùng phương tiện Y khoa thông thường hiện đại (conventional medicine) một cách chọn lọc và làm thế nào để phối hợp nó với phương pháp ngoại khoa (altematives). Chẳng hạn, nhiều bệnh nhân ung thư quyết đi theo phương pháp giải phẫu và hóa học (chemotherapy) hay điều trị theo lối rọi quang tuyến (radia- non therapy), nhưng họ muốn biết những gì khác mà họ có thể làm để ngăn cản sự trở lại của bệnh (recurrences). Điển hình như bác sĩ về ung thư nói với họ là họ không cần gì khác khi mà họ đã được chữa trị. Những bệnh nhân biết nhiều hơn thế. Họ muốn biết thêm về thực phẩm chống ung thư (anticancer foods) và thức ăn phụ trội (supplements), những cách dùng tâm trí để nâng cao sức đề kháng của hệ thống miễn nhiễm (immune defenses) và những thứ khác nữa. Công việc của tôi là cung cấp những thông tin ấy.
Cho dù họ tương đối khỏe mạnh hay tương đối hơi đau, những bệnh nhân tới văn phòng của tôi đều được động viên nhiều để nhận lấy trách nhiệm về sức khỏe của chính họ. Làm việc với những bệnh nhân sốt sắng hăng hái quả là một điều thú vị. Họ tìm kiếm thông tin và họ sẽ hành động ngay khi họ thâu lượm được nó. Những bệnh nhân này thường là những người thông minh và có học vấn khá, do đó phù hợp với những điều tìm thấy trong những cuộc thăm dò tại đây và một số lớn những người khác đi khám theo kiểu ngoại khoa. Cuối cùng nhiều người trong bọn họ đã bị đau đớn về thể xác, tinh thần, hay bị hao tổn tài chánh lúc phải đi chữa bệnh theo lối thông thường. Sau đây là những lời than phiền mà tôi thường nghe:
"Bác sĩ không có thì giờ để nghe bạn hay trả lời những câu hỏi của bạn. "
"Tất cả những gì họ có thể làm là cho bạn thuốc; Tôi không muốn uống thêm thuốc nữa".
"Họ nói rằng họ không thể làm gì thêm cho tôi khác nữa. "
"Họ nói với tôi rằng nó chỉ tệ hại hơn thôi. "
"Họ nói với tôi là tôi rán mà sống với nó. "
"Họ nói với tôi là tôi sẽ chết trong vòng sáu tháng. "
Bốn câu cuối cùng nghe thật là kỳ cục, chói tai, bởi vì chúng phản ảnh một sự bi quan sâu đậm về khả năng của con người trong chuyện làm lành lặn. Nói một cách rốt ráo, thái độ này đóng góp vào một loại Y khoa "ma quái "mà tôi cho là vô lý, không hợp với lẽ phải. Những nhà nhân chủng học và tâm lý gia đã nghiên cứu về vấn đề quỷ quái trong Y khoa (medical hexing) trong những nền văn hóa shaman (shamanistic cultures), nơi mà trong một hoàn cảnh nào đó, một ông thầy pháp trị bệnh sẽ nguyền rủa người nào (thường là làm theo chỉ thị của kẻ thù người đó), và nạn nhân của lời nguyền rồi sẽ xa lánh khỏi xã hội, bạn bè, và gia đình, ngừng ăn, và yếu dần đi. Nền văn chương Y khoa bao gồm những bản tường trình về những chứng bệnh kinh niên và cái chết do hậu quả từ quá trình này, với những lời suy đoán về những cơ cấu thể chất có thể có trách nhiệm về chuyện đó, chẳng hạn như sự rối loạn của hệ thống thần kinh không tùy ý (involuntary nervous system). Cái gọi là chết vì tà thuật (voodoo) là thí dụ cơ bản chủ yếu của sự đáp ứng tiêu cực của thuốc giả (negative placebo response). Dù dễ dàng để nhận diện hiện tượng ma quái này trong những nền văn hóa kỳ lạ, chúng ta khó mà nhận thấy rằng có cái gì đó rất tương tự xảy ra mỗi ngày trong nền văn hóa của chính chúng ta, trong những bệnh viện, những dưỡng đường, và những phòng mạch bác sĩ.
Hai năm trước đây một người đàn ông vào lứa tuổi trên ba mươi đến gặp tôi để hỏi ý kiến tôi như là một ý kiến thứ hai (second opinion) về cơn bệnh của ông ta. Sau những tháng bị tiêu chảy nặng và đau bụng dưới, bác sĩ gia đình của ông gửi ông đến một bác sĩ đường ruột (gastroenterologist), ông bác sĩ này định bệnh viêm ruột (ulcerative colitis) và cho bệnh nhân này uống ngay loại thuốc trụ sinh tiêu chuẩn nhằm khống chế bệnh (standard suppressive drug) nhưng không cho ông những hiểu biết để cải trên lối sống của ông. Người đàn ông không thích những phản ứng phụ (side effects) của thuốc và không nghĩ rằng nó kiểm soát tốt đẹp được những triệu chứng của bệnh. Ông cũng nghi ngờ rằng vấn đề của ông có liên quan đến chuyện căng thẳng thần kinh. Ông than phiền về chuyện thuốc điều trị và cứ nằn nì hỏi bác sĩ đường ruột về những cách chữa trị khác nếu có thể, nhưng không thành công. Ông nói với tôi, “Ông có biết bác sĩ nói gì với tôi trong lần tôi khám bệnh cuối cùng không? ông ấy nói, ' Nghe đây, tôi không còn gì để có thể cung ứng chữa trị cho anh, và dù sao đi nữa thì cuối cùng anh cũng sẽ phát triển bệnh ung thư ruột (colon cancer). '
Theo thống kê, những người mắc bệnh viêm ruột dễ bị ung thư ruột hơn những người thường, điều đó đúng, có lẽ bởi vì sự viêm và sự phá hủy đường ruột sẽ dẫn tới sự tăng trưởng tế bào và với Sự tăng trưởng tế bào sẽ dẫn đến nguy cơ một sự chuyển hóa độc hại; nhưng triển vọng bị ung thư ruột ở bất kỳ cá nhân nào có bệnh viêm ruột cũng thấp, đặc biệt nếu cơn bệnh được kiểm soát, và trong trường hợp này thì nhẹ lắm. Ngoài ra, ngay cả những trường hợp bị viêm ruột không nhẹ cũng có thể đáp ứng mạnh mẽ đến những thay đổi trong lối sống và nhân sinh quan. Tôi còn nhớ một người đàn bà tuổi trên bốn mươi, đã bị một bệnh hành hạ khốn khổ trong nhiều năm, bà rán chịu đựng bằng cách dùng liều lượng prednisone và những thuốc đàn áp khác (suppressive drugs) khá cao, bà được cho biết rằng chỉ có cách cắt bỏ toàn bộ ruột là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Bà ta bắt đầu ăn uống theo lối vĩ mô ( macrobiotic diệt), và bệnh của bà biến mất nhanh chóng. Mười lăm năm sau bà đến hỏi ý kiến tôi về một vấn đề khác không liên hệ đến bệnh cũ, và bệnh cũ cũng chưa hề trở lại.
Những lời nói kết án của bác si đường ruột đã ảnh hưởng như thế nào đến bệnh nhân của tôi ở trên. Ông cho biết, "Tôi không thể ngủ trong vòng ba đêm. Tất cả tôi có thể suy nghĩ được là, ' tôi sẽ bị bệnh ung thư ruột, và nói thật là ý nghĩ đó ám ảnh tôi thật nhiều." Tôi đưa cho ông ta một chương trình để theo, bao gồm chuyện phải đến một chuyên viên thôi miên (hypnotherapist) để giúp giải tỏa sự ám ảnh ma quái về Y khoa và dạy ông làm cách nào dùng tâm trí để tăng tiến tình trạng của ông. Phải chăng nếu có thể được thì tôi đã để ông ta liên hệ với người đàn bà hết bị viêm ruột kể ở trên. Đó quả là ý kiến thứ hai (second opinion) mà ông ta thật sự cần nghe thấy.
Đây lại là một câu chuyện để làm bài học. Năm năm trước đây một người đàn ông năm mươi ba tuổi từ Canada sang thăm tôi. Thật ra bà vợ của ông đến gặp tôi. Ông ta ngồi ngoài xe đậu ỡ đường đi, vì theo lời vợ ông nói, ông ta quá hoảng sợ bác sĩ nên không thể vào nhìn một người bác sĩ nữa. Tôi hỏi han nguyên do tường tận từ bà vợ, rồi tôi ra xe và thuyết phục ông vào. Ông bị bệnh hoạn về đường tiểu nhiều năm mà ông không để ý lắm. Cuối cùng khi ông đến gặp một bác sĩ đường tiểu (urologist), bệnh mới lòi ra là bị ung thư nhiếp hộ tuyến (prostate cancer) đã vượt qua tuyến (glands) mà đi vào tận xương của vùng xương chậu, làm cho sự chẩn đoán càng thêm mù mờ. Ông đi đến một bệnh viện của một trường đại học, nơi đó chỉ có một phương cách điều trị duy nhất là tiêm chất hóc-môn của đàn bà (female hormones) vào để chống lại sự lớn mạnh của khối u.
Điểm chính yếu mà tôi nhận được ở người đàn ông này là hình ảnh của một người đang bị nỗi sợ trấn áp. Ông ấy vồ chụp lấy môn chữa trị theo lối tưởng tượng (visualization therapy) mà ông cho là tốt nhất và ông kể cho tôi nghe mỗi ngày ông bỏ ra hai giờ để tập trung tư tưởng, rán mà hình dung ra chuyện những tế bào miễn nhiễm của ông sẽ nuốt đi những tế bào ung thư. Nhưng ông không có cố gắng nào để thay đổi cách sống theo một phương thức để có thể cải tiến sức khỏe và hệ thống miễn nhiễm của ông nói chung; chẳng hạn như ông tiếp tục hút thuốc theo mức độ hai gói mỗi ngày. Lúc tôi hỏi về chuyện hút thuốc, ông nói: "Ba tháng trước đây, tôi nằm ở bệnh viện của trường đại học, trong văn phòng của vị trưởng phân khoa tiết niệu (chief urologist). Ông ấy giải thích phương pháp trị liệu bằng hóc-môn (hormone therapy) cho tôi nghe và nói kiếm thêm những phương pháp điều trị khác là chuyện không đáng. Tôi hỏi ông, 'Tôi có nên ngưng hút thuốc không. ' và ông trả lời, "ở giai đoạn này thì đừng bận tâm suy nghĩ chuyện đó làm gì.' "
Phải chi tôi được hỏi vị bác sĩ đường tiểu kia về câu trả lời của ông- cứ giả định như ông nhớ lời ông nói- ông ấy sẽ có thể nói rằng ông đang ban cho bệnh nhân một đặc ân bằng cách tránh cho bệnh nhân thêm nhiều rắc rối. Tuy nhiên, những gì người bệnh nhân nghe là, "Bạn sẽ chết sớm đó. " Một người thầy tu của nền khoa học Y khoa, được tấn phong trong ngôi đền của ông ta, đã phát ra những lời tương tự như lời nguyền của quỷ, vì bác sĩ trong nền văn hóa của chúng ta đã được đầu tư bởi một thứ quyền lực giống như những người khác bơm vào ma quỷ và thầy tu. Những lời ấy là nguồn gốc của sự hoảng sợ của người bệnh nhân, một nỗi sợ làm tê liệt anh ta và ngăn cản anh có những nỗ lực xây dựng cho sự sống còn và phúc lợi của anh. Vâng, bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến di căn (metastatic prostate cancer) có dấu hiệu xấu, nhưng bệnh nhân này vẫn còn ở trong tình trạng sức khỏe tương đối tốt, và thật không khó để tìm thấy trường hợp những người có bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến di căn vẫn giữ được sức khỏe tương đối khỏe mạnh trong vòng nhiều năm. Tại sao lại ác ý khi nói đến kết quả của bệnh như thế?
Có một sự khác biệt đáng ghi chú ở đây giữa sự ma quái trong trường hợp này và trong trường hợp trước. Ở đây người bác sĩ đường tiểu tiết lộ sự bi quan của ông trong một cách nói không thể tưởng tượng, dù không có ý định làm buồn lòng bệnh nhân. Người bác sĩ đường ruột tiên đoán bệnh ung thư ruột cho người đàn ông bị viêm ruột có thể bị bực bội bởi một bệnh nhân tra vấn cách chữa trị của ông và cứ bị hỏi đi hỏi lại hoài về những kiến thức mà ông không thể cung cấp. Kinh nghiệm của tôi là chuyện ma quái Y khoa thiếu ý thức còn thông thường hơn sự cố tình làm ma quái, dù nó không kém nguy hại.
Một số những câu chuyện tôi nghe thấy rất là quái đản đến nỗi tôi chỉ còn cười mà thôi; lúc mà tôi làm cho bệnh nhân cười luôn, thì coi như lời nguyền được xua tan. Có người đàn bà từ Helsinki vào lứa tuổi trên bốn mươi đến gặp tôi vào một ngày tháng hai. Bà bị bệnh xơ cứng nhiều chỗ (multiple sclerosis) gây cho bắp thịt ở đùi của bà bị yếu ở một chân. Tôi chú ý nhiều hơn về tình trạng xúc cảm của bà. Bà trông có vẻ căng thẳng thần kinh và đờ đẫn trong khi kể câu chuyện của bà, mà bà nói giống như nó xảy ra cho một người khác. Không cần làm nhiều thứ để làm cho bà cảm thấy thoải mái hơn; du hành từ Helsinki tới Tulson vào tháng hai là một chuyện lành mạnh, bổ ích. Bởi vì bà có thể ở lại trong một thời gian, tôi cho bà gặp nhiều người trị bệnh làm việc với bà trong những vấn đề thể xác, tâm trí và lối sống. Sau một tháng, bà ấy rạng rỡ hẳn lên và đã hình thành một nhân sinh quan hy vọng nhiều hơn.
Bà thú nhận với tôi, "ông không thể nào tin được những gì những bác sĩ ở Phần Lan nói với tôi, " Tôi hỏi thêm về chi tiết, bà tiếp lời" Họ mất thật nhiều thì giờ để làm những cuộc chẩn đoán và thử nghiệm. Rồi cuối cùng viên bác sĩ thần kinh trưởng nhóm kêu tôi vào phòng và nói cho tôi biết tôi bị bệnh sưng nhiều chỗ. Ông để cho tôi thấm thía với cái tin trên rồi ông bước ra khỏi phòng rồi trở lại với chiếc xe lăn. Ông nói tôi ngồi lên ghế đó. Tôi nói, ' Tại sao tôi lại phải ngồi lên xe lăn của ông. ' ông nói tôi phải mua một chiếc xe lăn để rồi ngồi trên nó mỗi ngày một giờ để "thực tập" chu khi tôi hoàn toàn bị tê liệt. Ông có thể tưởng tượng được không. " Bà kể lại chuyện này với nụ cười sảng khoái và tôi cũng mạnh mẽ khuyến khích bà làm như thế. Thật đúng là thực tập xe lăn!
Tôi có thể tiếp tục kể những câu chuyện quái gỡ về Y khoa, dù cố tình hay không cố ý, khôi hài hay buồn bã- nhưng tôi tin rằng tôi đã nhận ra vấn đề. Tôi có nhiều đề tài hứng khởi hơn để viết. Tôi không thể chịu nổi cái cảm giác áy náy vì nghề nghiệp của tôi khi tôi nghe vô số cách trong đó những bác sĩ truyền sự bi quan của họ sang cho bệnh nhân. Tôi muốn thay đổi cái lề lối này và tôi đang vận động để đòi hỏi chỉ thị trong trường Y khoa về sức mạnh của những chữ và nhu cầu mà những bác sĩ phải hết sức cẩn thận để lựa lời mà nói với bệnh nhân. Một đề tài rộng lớn hơn là vấn đề làm cho bác sĩ ý thức hơn về cái sức mạnh đẩy vào cho họ bởi bệnh nhân và tiềm năng phản ảnh cái sức mạnh ấy về lại trong những phương cách làm ảnh hưởng đến sức khỏe tốt hơn thay vì tệ hại, kích thích hơn là để cho lành lặn tự nhiên một cách chậm chạp. Như tôi đã nói trước đây, chúng ta đã đẩy những bác sĩ Y khoa vào những vai trò vốn phục vụ bởi những phù thủy ma quỉ và những tu sĩ trong nhiều nền văn hóa có tính chất truyền thống nhiều hơn, nhưng những bác sĩ được huấn luyện một cách quá yếu để đảm nhiệm những vai trò này một cách có tính cách xây dựng. Những vị phù thủy mà tôi gặp trên đường tôi du lịch là những người trị liệu tinh thần giỏi giang vốn biết từ sự cảm nhận và từ sự huấn luyện cách thức nào để tạo nên niềm tin có dự liệu Và đưa nó về cho bệnh nhân trong lúc làm công tác chữa trị lành lặn.
Trong những trường hợp hiếm, một phù thủy Y khoa có thể động viên một bệnh nhân ngoại hạng nào đó nhằm chứng minh rằng bác sĩ sai bằng cách trở nên lành bệnh. Tôi còn nhớ một người đàn bà già đã sống sót qua bệnh ung thư tử cung (uterine cancer) nhiều năm trước đây, bà tâm sự với nụ cười hết răng, "ông bác sĩ ấy nói với tôi là tôi chỉ còn không đầy một năm để sống, thế mà giờ đây ông ấy chết rồi và tôi vẫn còn sống nhăn đây." Không may mắn thay đây là điều ngoại lệ. Hiệu năng thông thường của một phù thủy Y khoa là sự tuyệt vọng, và tôi không tin rằng sự tuyệt vọng có những kết quả bổ ích trên hệ thống cơ thể con người. Thật là một ý nghĩ không tốt để tiếp tục điều trị với một bác sĩ có ý nghĩ rằng bạn sẽ không khỏe khoắn tốt đẹp hơn.
Dường như điều kỳ lạ nhất là những người thực hành cái gọi là nghệ thuật lành lặn có rất ít niềm tin lúc lành lặn. Vậy thì cái gì là nguồn cội của sự bi quan trong Y khoa? Có một điểm tôi nhận thấy đó là bản chất không cân xứng (lopsided nature) của nền giáo dục Y khoa, vốn chỉ tập trung chủ yếu đến bệnh tật và sự điều trị của nó hơn là chú ý đến sức khỏe và sự duy trì của nó. Phần đầu của chương trình giảng dạy Y khoa quá nặng nề với những thông tin có tính chi tiết về những tiến trình của bệnh. Chữ "lành lặn" thấy rất hiếm dùng ở đây; Từ ngữ " hệ thống lành lặn" hoàn toàn không thấy. Như tôi sẽ giải thích trong chương kế tiếp, chúng ta đã biết một số cơ cấu của sự lành lặn, nhưng nếu không có một khái niệm về một hệ thống lành lặn, chúng ta không thể đem thứ kiến thức này để dùng vào trong những chuyện xây dựng hữu ích được.
Cái mẫu Sinh Y khoa (biomedical) mà từ đó lý thuyết y khoa thông thường (conventional medical theory) và sự thực hành sinh ra làm cho nó rất khó để trình bày quan điểm của một hệ thống lành lặn đến những bác sĩ đang được đào tạo. Hình thức vật chất của nó dẫn đến sự nhấn mạnh vào hình thái (form) hơn là nhiệm vụ (function). Hệ thống lành lặn là một hệ thống nhiệm vụ, chứ không phải là sự tập hợp của những cấu trúc được vẽ thành hình vẽ gọn gàng như hệ thống tiêu hóa hay hệ thống lưu thông của máu. Một lần nữa, thuốc men Đông phương có lợi thế hơn thuốc của Tây phương. Thuốc men truyền thống của Trung Quốc nhấn mạnh đến nhiệm vụ nhiều hơn sự cấu trúc và kết quả là nó có thể hiểu rằng cơ cấu con người có một phạm vi đề kháng của nhiệm vụ vốn có thể kích thích, rất lâu trước khi những bác sĩ Tây phương ý thức được những cơ quan "không nhiệm vụ của cơ thể như - Hạch hạnh nhân (tonsils), vòm họng (adenoids), tuyến giáp trạng (thymus) và ruột thừa (appendix)- là những thành phần của hệ thống miễn nhiễm. Tệ hơn nữa, mẫu Sinh Y khoa lược bỏ hay xóa bỏ toàn bộ sự quan trọng của tâm trí, thay vào đó chỉ nhìn vào những nguyên nhân thể chất thuần túy của những thay đổi trong sức khỏe và bệnh hoạn. Kinh nghiệm cùng sự quan sát của tôi về sự lành lặn cho tôi muốn đề nghị rằng địa hạt của tâm trí thường thường là địa điểm chính của nguyên nhân. Dù quần chúng ngày càng tỏ ra thích thú vào sự tương quan giữa tâm trí và thể xác, sự chú ý của giới Y khoa về chuyện này vẫn ở mức độ thấp.
Không những sự giảng dạy bị thiệt hại vì kết quả của những giới hạn này mà chuyện nghiên cứu cũng thế. Nghiên cứu thường cho ra những thông tin để đưa vào chương trình giảng dạy; không có nghiên cứu thì chỉ có bằng chứng vặt vãnh. Sự tập trung chú ý bệnh tật của sự thẩm tra Y khoa rất rõ ràng. Hãy nhìn vào Viện sức khỏe quốc gia (National Institutes of Health). Thật ra chúng là Viện Bệnh tật Quốc Gia (National Institute of Disease: Viện Ung Thư, Viện Dị ứng và Bệnh Truyền Nhiễm, Viện Tiểu Đường và Tiêu Hóa cùng Bệnh Thận, Viện Thần Kinh rối loạn và Đứt Mạch Máu Não (Strokes). Thế thì Viện Quốc Gia Sức Khỏe và Lành Lặn đâu nhỉ?
Có rất ít nghiên cứu về sự lành lặn, và những gì đã làm thật quá ít ỏi Những người điền tra đang chú ý đến một hiện tượng gây chấn động, đó là sự thuyên giảm tự nhiên (spontaneous remis- sum), nhưng thuyên giảm không đồng nghĩa với lành lặn. Chữ "thuyên giảm" bao hàm cái nghĩa làm dịu đi tạm thời của một tiến trình bệnh hoạn có thể tái xảy ra. Hơn thế nữa, sự thuyên giảm gắn bó mật thiết với ung thư, và bệnh ung thư, theo như quan điểm của tôi, là một trường hợp đặc biệt. Nếu chúng ta chỉ nhìn một hay phần lớn vào sự thuyên giảm tự nhiên của bệnh ung thư, chúng ta sẽ có một bức tranh méo mó về hệ thống lành lặn và nó không thể tiết lộ hết tất cả phạm vi của những hoạt động và những tiềm năng.
Sự tìm kiếm đầu tiên có thể lãnh hội được của văn bảny khoa cho những trường hợp được báo cáo về sự thuyên giảm tự nhiên được ấn hành năm 1993 dày như một cuốn thư mục có chú thích, chứa đựng hàng trăm những chỉ dẫn. Trọn bảy mươi bốn phần trăm của chúng đề cập đến ung thư, và những tác giả ghi chú rằng, "Một sự nhìn lại văn chương của sự thuyên giảm tiết lộ rằng, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, những trang về sự thuyên giảm đều đề cập đến bệnh ung thư”. Một cuộc hội nghị toàn cầu về sự thuyên giảm tự nhiên được tổ chức vào năm 1974 tại trường đại học Y khoa Johns Hopkins và cũng là hội nghị duy nhất. Nó chỉ bàn riêng về bệnh ung thư.
Sự lành lặn là một hiện tượng được nghiên cứu. Qua nhiều năm tôi đã từng hỏi những đồng nghiệp của tôi nghiên cứu về mụn cóc như là một thí dụ điển hình của sự đáp ứng lành lặn (healing response). Phương pháp chữa trị mụn cóc là những diễn tiến thông thường và ngoạn mục trong đó hệ thống lành lặn, được kích thích bởi niềm tin, lấy đi tế bào bị nhiễm trùng một cách chính xác và hiệu quả, làm cho những phương cách thông thường trị mụn cóc trong có vẻ vụng về và dã man. Dù sao toàn thể chủ để được coi như một sự tiêu khiển của những nhà khoa học Y khoa hơn là một cuộc tìm hiểu hệ trọng.
Khi những sinh viên Y khoa hoàn thành những môn học tiền Y khoa và đi vào những bệnh viện để thực tập, kiến thức không đầy đủ của họ sẽ được bổ túc bằng kinh nghiệm của họ khi tiếp xúc với bệnh. Sinh viên năm thứ ba, thứ tư, cùng với sinh viên nội trú tràn ngập đầy trong bệnh viện thuốc thang. Những bệnh nhân họ nhìn thấy không phải đại diện cho hình ảnh của bệnh tật mà những bệnh nhân này đóng góp vào một mẫu mô hình quá đau thương là họ quá đau yếu. Trong nhóm đau yếu này, sự đáp ứng lành lặn xảy ra không được thường xuyên như quần chúng bên ngoài. Nếu ta từ những người mới chớm bệnh bằng những phương thức dành cho những bệnh nguy hiểm chết người và những phương thức dành cho bệnh kinh niên đến giai đoạn cuối cùng, tự nhiên ta sẽ bi quan về kết quả xảy ra.
Đó là những thực tế cuộc đời của chuyện huấn luyện trong Y khoa- sự tập trung chú ý thiên lệch của nó tới bệnh tật hơn là tới sức khỏe, sự giới hạn của mô hình khái niệm, sự thiếu thốn nghiên cứu, và kinh nghiệm méo mó về bệnh tật của nó tới những điều có thể xảy ra tệ hại nhất- những chuyện đó đủ để tạo thành sự bi quan cho ngành Y khoa. Cho tới bây giờ nằm tiềm ẩn dưới những chuyện trên là những sự thúc đẩy sâu sắc hơn, nó không bao giờ được thảo luận và hiếm khi được xem xét, có dính líu đến chuyện tại sao người ta trở thành bác sĩ ngay từ đầu.
Khi tôi hỏi những sinh viên tại sao họ chẳng ngành Y khoa, câu trả lời thông thường tôi nhận được là họ muốn giúp người khác, thích sự thanh thế và quyền lực, có công việc bảo đảm sự an toàn về tài chánh. Tôi tin rằng có một lý do nữa kém rõ ràng hơn. Chuyện hành nghề Y khoa tạo ra một ảo tướng kiểm soát về chuyện sống và chết. Có một cách để đương đầu với những nỗi sợ của sống và chết là tìm kiếm sự thoải mái trong ảo tưởng ấy. Nhưng mỗi khi có một bệnh nhân không được khá hơn hay đặc biệt chết đi, những bác sĩ phải đối diện với sự thật là sự kiểm soát của họ chỉ là ảo tướng. sự tiên đoán về một kết quả tiêu cực tạo thành một sự thoải mái về tâm lý cho người Y sĩ: nếu người bệnh nhân khỏe hơn, người bác sĩ có thể ngạc nhiên một cách thích thú và nhận đó là công của mình; nếu bệnh nhân ngày càng yếu đi và chết, thì coi như người bác sĩ đã tiên đoán nó và vì thế cho nên có vẻ họ dường như vẫn còn kiểm soát được nó. Cho nên sự bi quan trong Y khoa có thể là một lối đề kháng tâm lý (psychological defense) đối với sự bất an, mà sự bất an này không thương tiếc hay giảm ảnh hưởng của nó trên bệnh nhân. Sự thật là chúng ta đang sống trong một vũ trụ bất an, và không quyền lực đối với chuyện sống và chết. Những gì mà chúng ta có là khả năng hiểu được cơ quan của con người có thể làm lành lặn chính nó, một đề tài thoải mái cố hữu và có lý do để cho cả bác sĩ và bệnh nhân cùng lạc quan.
Những Hình Thái Của Sự Lành Lặn: John
Điều duy nhất còn lại mà John Luja có từ bệnh tật của ông một vết thẹo dài hai ly (inch) ở phía chân dưới của ông ta, và ông nghĩ rằng vết thẹo này có thể không liên hệ gì đến vấn đề của ông trước đây. Giờ đây ở vào lứa tuổi bảy mươi lăm, John đang điều hành một dịch vụ cắt cỏ ngoài tỉnh Sĩ. Louis. Ông nói ông không đi bác sĩ và ông luôn dùng cây nhà lá vườn để trị bệnh (home remedies), có lẽ bởi vì ông lớn lên ở đất nước Lithuania trong một nền văn hóa vốn đặt nặng vào sự trông cậy vào cá nhân (seft-reliant) hơn chúng ta về vấn đề sức khỏe.
Vào năm 1980, John phát triển một vấn đề bất thường, da phía trước của cả hai đùi dưới của ông trở nên đỏ và ngứa. Sau bốn tuần thì nó trở nên "có màu vàng và trong giống như da chết," và ông đã đi khám bác sĩ, và bác sĩ nói vấn đề của ông giống như bệnh da cứng (scleroderma), đây có thể là một bệnh tự động miễn nhiễm nghiêm trọng. Bác sĩ cắt một mẫu da đi thí nghiệm để có thể biết chắc chần, và kết quả của mẫu thí nghiệm cho biết đúng là bệnh cứng da. Để có thể chắc chắn một cách tuyệt đối, bác sĩ này gửi John đến một chuyên gia khác, người này làm thêm một thí nghiệm khác từ mẫu da và xác nhận sự dự đoán trước đây là đúng. John kể lại, Họ nói với tôi là không có cách chữa nào thật sự. Họ nói tôi có thể dùng kem cortisone để kiểm soát chuyện ngứa ngáy, và họ nói tôi nên uống thuốc cortisone nữa, bởi vì nó sẽ bảo đảm cho tôi không rầy rà đến những cơ quan nội tại.
John nhận thấy kem thoa cortisone làm việc ngay để làm cho da ở chân của ông cảm thấy khá hơn. John nói, "Rồi sau hai tuần, nó không hiệu quả nữa; thật ra, nó làm cho mọi chuyện tệ hại hơn. Tôi nghĩ là tôi có thể bị dị ứng với thuốc. Tôi kiếm một thứ thuốc thoa cortisone có vẻ hiệu quả khá hơn". Ông cũng bắt đầu uống thuốc prednisone. Giờ đây da bắt đầu cứng hơn, và những vùng mới bị ảnh hường xuất hiện trên lưng, cánh tay và ngực. Anh nói thêm, "Bác sĩ nói với tôi bệnh cứng da có thể bắt đầu từ trong người tôi và tôi có thể chết vì nó."
Khi nghe tin này, con gái và con rẻ của John, lúc ấy đang sống ở Arizona, quyết định dọn về vùng Sĩ. Louis để gần gũi ông. Con rẻ của John tên Mike, nói về tình trạng da của John vào lúc đó như thế này, nhìn và cảm giác như chất plastic, giống như bề mặt của hình nộm (mannequin). Họ nói với ông là ông bị một bệnh nguy hiểm, và chúng tôi đành phải chấp nhận như thế.
Thật ra, John không bao giờ chấp nhận sự chẩn đoán của các bác sĩ. Ông có rất ít niềm tin về thuốc Prednisone và chấm dứt dùng nó sau sáu tuần lễ. Thay vào đó, ông quyết định ông sẽ tự mày mò tìm hiểu về bệnh của mình. Ông nói, "Tôi nghĩ những gì tôi bị giống như bệnh thấp khớp (arthritis), bởi vì tôi nhận xét là bệnh có phần tệ hại hơn trước khi trời mưa. Chừng ba hay bốn ngày trước khi trời mưa, tôi bị ngứa ngáy dữ dội. Tôi cũng nghĩ là nó có liên quan đến thần kinh, vì tôi có chuyện phiền não rắc rối với chuyện làm ăn và rất căng thẳng khi bệnh bắt đầu phát ra. Và tôi khám phá ra thêm là bệnh có dính dáng đến chuyện có quá nhiều chất calcium trong người của tôi."
Cho nên John bắt đầu đọc những phương cách chữa trị cây nhà lá vườn về bệnh thấp khớp và chuyện có quá nhiều chất calcium (excess calcium) trong cơ thể. Ông quyết định dùng dấm và chanh, ông dùng dấm để rửa chỗ da bị cứng và ăn chanh tươi. Tôi hỏi ông ăn chanh như thế nào, ông nói, "Tôi cứ ăn tươi chanh. Một thứ khác tôi có thử nữa là dùng nước lô hội (aloe vera iuice). Tôi muốn chúng tại tiệm thực phẩm sức khỏe (health food store) và bắt đầu uống nó mỗi ngày. Dần dà chuyện ngứa hết đi. Tôi không bao giờ dùng thuốc thoa cortisone nữa".
"Tôi vẫn thấy có cái gì không ổn trong hệ thống thân thể của tôi Tôi cảm thấy tôi cần phải lay động (shock) hệ thống cơ thể của tôi, và tôi tìm được cái ý tưởng từ một cuốn sách là dùng vitamine E với liều lượng cao để làm chuyện lay động đó. Tôi dùng 5000 đơn vị (units) vitamine E mỗi ngày trong vòng hai tuần. " Rõ ràng đây là một liều lượng cao về vitamine E, vì liều lượng được khuyến cáo cho phép là 30 đơn vi quốc tế (intemational units), và một liều lượng lớn, được hỗ trợ bởi những người của phương pháp chống oxy hóa (antioxidant therapy), là 800 đến 1000 đơn vị (units) một ngày".
John nói, "Tôi nghĩ điều đó đã thực sự khởi đầu một cái gì đó.”
Bệnh của ông hiện diện trong vòng sáu tháng. Hai tháng sau khi ông bắt đầu phương pháp cây nhà lá vườn của ông, bệnh không còn lan rộng. Rồi da cứng bắt đầu trở nên mềm. Ông nói tiếp, "Bác sĩ ngạc nhiên khi thấy sự thay đổi. Ông nói với tôi, 'Tôi không biết ông đang làm gì, nhưng dù gì đi nữa, hãy cứ tiếp tục làm đi!' Sau sáu tháng, tình trạng bệnh da bắt đầu biến mất trên tay và ngực của tôi. Sau hai năm bệnh đã ra đi và không bao giờ trở lại nữa."
Tôi hỏi John những gì ông đã làm về vấn đề thần kinh của bệnh ông ta. Ông đáp lời, "Tôi mới dàn xếp xong. Bất cứ khi nào thần kinh của bạn dính líu vào một cơn bệnh, bạn phải làm một sự thay đổi trong cuộc sống của bạn; bạn phải thay đổi lề lối suy nghĩ của bạn."
Mike nghĩ rằng lối suy nghĩ của ông bố vợ của anh đã ảnh hưởng nhiều đến kết quả. Anh nói, "Tôi nghĩ đó là đường hướng ông được nuôi dạy khi lớn lên, trong một nền văn hóa quý trọng cách thức trị bệnh cây nhà lá vườn(home remedies) hơn những phương thức trị bệnh chuyên nghiệp (professional treatment). Ông không bao giờ bí tư tưởng bi quan về Y khoa của những bác sĩ ảnh hưởng. Và ông thật sự đặt niềm tin vào nước Lô hội (Aloe vera). Ông lúc nào cũng có một chai nước Lô hội chừng bốn lít và uống nước này bằng cốc."
John Luja nói, " Ngày nay sức khỏe tôi rất tốt. Tôi vẫn dùng giấm nếu tôi bị ngứa ngáy. Đôi lúc tôi vẫn ăn chanh. Và tôi cố gắng không đi bác sĩ."