Nhưng thậm chí gánh xiếc sôi động nhất, gánh xiếc với những tên quái vật đáng sợ nhất, những chú hề vui nhộn nhất và động vật hoang dã nhất, cuối cùng thì cũng phải rời khỏi thị trấn. Gánh xiếc này ra đi sau Hội đồng Thẩm tra, nghe tên tuổi khá đặc biệt và đáng sợ, nhưng hóa ra khá thuần hóa và chiếu lệ. Trong những hoàn cảnh khác, ngài Thống đốc hẳn sẽ đòi bêu đầu kẻ nào đó trên một cái khay nhưng lần này thì không. Gã cháu vợ - họ hàng duy nhất của vợ ông ta - đã nổi điên và giết người. Đã giết chết một kẻ giết người - ít nhất là thế, cảm ơn Chúa - nhưng Percy vẫn là bắn người khi nạn nhân đang ngủ trong xà lim, là điều không được cao thượng lắm. Khi bổ sung vào sự kiện rằng chàng trai trẻ đối tượng điều tra tiếp tục điên như loài thỏ rừng tháng ba, bạn có thể hiểu tại sao Thống đốc chỉ muốn gánh xiếc ra đi, càng nhanh càng tốt.
Chuyến đi của chúng tôi đến nhà Giám thị Moores trên xe tải của Ilarry không bao giờ bị khám phá. Sự kiện Percy bị mặc áo đai và nhốt trong phòng kỉ luật trong suốt thời gian chúng tôi vắng mặt không bao giờ bị khám phá. Sự kiện William Wharton bị cho uống thuốc ngủ say như chết khi bị Percy bắn cũng không bao giờ bị khám phá. Tại sao phải khám phá? Chính quyền không có lí do để nghi ngờ bất cứ điều gì trong hệ thống cơ thể của Wharton, ngoại trừ nửa tá đạn. Bác sĩ pháp y gắp những viên đạn này ra, nhả đòn đặt gã vào một cái hộp bằng gỗ thông và đấy là kết thúc của con người có ảnh Billy the Kid xăm trên bắp tay trái. Bạn sẽ nói là sự loại bỏ tốt đẹp một thứ rác rưởi xấu xa.
Tóm lại, chuyện ầm ĩ kéo dài khoảng hai tuần lễ. Trong thời gian đó, tôi không dám lơ là, nói gì đến nghỉ một ngày để thực hiện ý tưởng đã hình thành tại bàn ăn trong bếp nhà tôi vào buổi sáng sau tất cả những chuyện ồn ào. Tôi biết chắc gánh xiếc đã rời khỏi thị trấn khi đi làm vào một ngày miễn cưỡng giữa tháng mười một - ngày mười hai, tôi nghĩ thế, nhưng đừng bắt bẻ tôi về thời gian. Đấy là ngày tôi thấy một tờ giấy mà tôi vốn khiếp sợ nằm giữa bàn giấy: lệnh thi hành án tử hình đối với John Coffey. Curtis Anderson đã kí lệnh thay vì Moores, nhưng tất nhiên công hợp pháp, và tất nhiên nó cũng phải qua tay Hal để đến tay tôi. Tôi có thể tưởng tượng Hal đang ngồi tại bàn làm việc của mình trong phòng Quản Trị, với tờ giấy đó trên tay, ngồi đó và nghĩ về vợ, người đã trở thành phép màu nhiệm chín ngày đối với các bác sĩ ở Bệnh viện Đa khoa Indianola. Melly nhận được giấy thi hành án tử do các bác sĩ đó trao, nhưng Melly đã xé nát chúng. Nhưng bây giờ, đến lượt Coffey bước Dặm Đường Xanh và ai trong số chúng ta có thể ngăn chặn điều đó? Ai trong số chúng ta sẽ ngăn chặn điều đó?
Thời hạn trên bản án tử hình là ngày hai mươi tháng mười một.
Ba ngày sau khi nhận được nó - tôi nghĩ là ngày mười lăm - tôi nhờ Janice gọi đến sở báo bệnh. Sau một tách cà phê tôi lái lên hướng Bắc trên chiếc xe Ford tồi tàn nhưng mặt khác, lại đáng tin cậy. Janice đã hôn tôi và chúc may mắn; tôi cảm ơn nàng nhưng không còn ý tưởng rõ ràng sẽ là thứ may mắn nào - tìm cái tôi đang tìm, hay không tìm. Tất cả những gì tôi biết chắc là không cảm thấy muốn hát trong lúc lái xe. Ngày hôm ấy thì không.
Ba giờ chiều hôm ấy tôi đã lên đến xứ sở đầy núi non. Tôi đến Tòa án hạt Purdom ngay trước khi nó đóng cửa, xem xét một số hồ sơ rồi được Cảnh sát trưởng ghé thăm, người đã được thư kí Tòa báo cáo có một gã lạ mặt đang tò mò xía vào chuyện bí mật của địa phương. Cảnh sát trưởng Catlett muốn biết tôi nghĩ tôi đang làm gì. Catlett suy nghĩ kĩ càng rồi nói tôi nghe một chi tiết đáng quan tâm. Anh ta bảo sẽ chối nếu tôi tiết lộ lung tung. Chi tiết đó dù chưa phải là yếu tố quyết định nhưng vẫn là một điều gì đó, được rồi. Chắc chắn là một điều gì đó. Tôi suy nghĩ về nó suốt con đường về nhà, rồi đêm đó có rất nhiều suy nghĩ và giấc ngủ quý báu ít ỏi trên phần giường của tôi.
Ngày hôm sau tôi thức dậy trong lúc mặt trời còn là tin đồn ở hướng Đông, lái xe xuống dưới tiểu bang, đến Hạt Trapingus. Tránh mặt Homer Cribus, cái bị đựng ruột và nước to xác, thay vào đó, tôi nói chuyện với cảnh sát phó Rob McGee. McGee không muốn nghe những gì tôi đang nói với anh ta. Kịch liệt không muốn nghe. Đến một lúc tôi chắc anh ta sẽ cho tôi một đấm vào miệng để khỏi phải nghe, nhưng rốt cuộc anh ta đồng ý đi hỏi Klaus Detterick vài câu. Phần lớn, tôi nghĩ, là để biết chắc tôi sẽ không tự đi hỏi han.
- Hắn mới ba mươi chín tuổi nhưng lúc này trông như một ông già. - McGee nói. - Và hắn không cần một tên lính gác tù láu cá, kẻ tưởng mình là thám tử đến khuấy động hắn ngay khi những nỗi phiền muộn bắt đầu nguôi ngoai. Anh ở lại đây, ngay trong thị trấn. Tôi không muốn anh lảng vảng trong khu vực trang trại nhà Detterick, nhưng tôi muốn có thề tìm được anh khi nói chuyện với Klaus xong. Nếu anh cảm thấy bồn chồn, hãy xơi một mẩu bánh có nhân ở quán ăn dưới kia. Nó sẽ làm anh sụt cân. - Tôi kết thúc hai mẩu bánh và quả đã khá nặng cân.
Khi McGee bước vào quán ăn, ngồi xuống quầy bên cạnh tôi, tôi cố đọc ý tưởng trên mặt anh ta nhưng thất bại.
- Sao? - Tôi hỏi.
-Theo tôi về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện. - Anh ta trả lời.
- Chỗ này hơi quá xô bồ không hợp với tôi.
Chúng tôi mở hội nghị trên hiên nhà Rob McGee. Cả hai đều co ro và lạnh cóng nhưng Bà McGee không cho phép hút thuốc tại bất kì nơi nào trong nhà. Bà ấy là một phụ nữ đi trước thời dại. McGee nói chuyện một lúc. Anh ta nói chuyện như một người không thích thú chút nào về điều anh ta đang nghe do chính miệng mình thốt ra.
- Không chứng tỏ điều gì, anh biết vậy, phải không? - Anh ta hỏi sau khi nói xong. Giọng điệu gây hấn, chỉ điếu thuốc lá quấn tay vào tôi với vẻ hung hăng trong khi nói nhưng gương mặt anh ta lại bệnh hoạn. Không phải tất cả chứng cớ là những gì bạn thấy và nghe tại Tòa, cả hai chúng tôi biết điều đó. Tôi nghĩ đấy là lần duy nhất trong đời cảnh sát phó McGee ước gì anh ta là một tay nhà quê ngốc nghếch như sếp của anh ta.
- Tôi biết. - Tôi trả lời.
- Nếu tính chuyện xét xử lại dựa trên tình tiết này, anh nên suy nghĩ lần nữa. John Coffey là da đen và ở hạt
Trapingus, chúng tôi hết sức đặc biệt trong việc xét xử lại những tên da đen.
- Tôi cũng biết điều đó.
- Vậy anh định làm gì?
Tôi ném điếu thuốc lá qua hiên nhà rơi xuống đường. Sau đó tôi đứng lên. Chuyến về sẽ lâu dài, lạnh lẽo, và càng đi sớm chừng nào, tôi càng sớm kết thúc cuộc hành trình.
- Điều đó thì ước gì tôi biết, sếp McGee ạ. - Tôi trả lời. - Nhưng tôi không biết. Mẩu bánh ngọt thứ hai là một sai lầm, đấy là điều duy nhất tối nay tôi biết sự thật.
- Chàng láu cá này, nói anh nghe một điều. - Anh ta nói, vẫn bằng cái giọng gây hấn trống rỗng. - Tôi nghĩ tốt nhất anh không nên mở cái hộp Pandora làm gì.
- Không phải tôi mở. - Tôi trả lời, sau đó lái xe về nhà.
Tôi về trễ - sau nửa đêm - nhưng vợ tôi vẫn còn đợi. Tôi đã nghi ngại nàng sẽ đợi nhưng lòng tôi ấm áp khi nhìn thấy nàng, được nàng vòng tay ôm lấy cổ, thân thể đáng yêu và rắn rỏi áp sát vào tôi.
- Chào kẻ xa lạ. - Nàng lên tiếng, rồi chạm vào phần dưới của tôi. - Anh chàng này không sao chứ? vẫn khỏe khoắn như xưa.
- Vâng, thưa bà. - Tôi nói rồi bế nàng lên. Tôi đưa nàng vào phòng ngủ và chúng tôi ân ái với nhau, ngọt ngào như đường; khi đạt đến cực điểm, cái cảm giác tuôn trào và buông thả đó, tôi nghĩ đến đôi mắt trào lệ vô tận của John. Và nghĩ đến câu nói của Melinda Moores - tôi mơ thấy anh lang thang trong bóng tối và tôi cũng vậy.
Vẫn còn nằm trên mình vợ, vòng tay nàng ôm cổ tôi và thân xác quấn lấy nhau, tôi bật khóc.
- Paul! - Nàng lên tiếng, sửng sốt và sợ hãi. Tôi không nghĩ nàng đã thấy tôi khóc hơn nửa chục lần trước kia trong toàn bộ thời gian chung sống. Trong diễn tiến bình thường của sự việc, tôi chưa bao giờ là người mau nước mắt. - Paul, chuyện gì thế?
- Anh đã biết tất cả những gì cần biết. - Tôi nói qua làn nước mắt. - Anh biết quá nhiều chuyện khốn kiếp, nếu em muốn biết sự thật. Anh có nhiệm vụ xử tử John Coffey trong không đầy một tuần nữa, nhưng William Wharton mới là kẻ đã giết hai bé gái nhà Detterick. Chính là Wild Bill.
Ngày hôm sau, cũng nhóm lính gác đã ăn trưa trong nhà bếp gia đình tôi sau vụ xử tử vụng về Delacroix lại ăn trưa ở đây một lần nữa. Lần này có một thành viên thứ năm trong hội đồng chiến tranh của chúng tôi: vợ tôi. Chính Jan đã thuyết phục tôi kể lại với những người kia; phản ứng đầu tiên của tôi là không nói. Chúng ta biết, tôi hỏi nàng, như thế chưa đủ tồi tệ sao?
- Anh suy nghĩ chưa tỉnh táo. - Nàng trả lời. - Có lẽ vì anh vẫn còn hoang mang. Họ đã biết điều tệ hại nhất, rằng John bị vướng vào một tội ác mà anh ta không gây ra. Có gì thì việc này chỉ làm cho nó tốt hơn thôi.
Tôi không chắc như thế nhưng chiều theo sự phán đoán của nàng. Tôi chờ đợi một cuộc huyên náo khi kể cho Brutal, Dean và Harry điều tôi biết (tôi không thể chứng minh nhưng tôi biết, vậy đó), nhưng thoạt đầu chỉ có sự im lặng đầy suy tư. Rồi Dean cất tiếng, lấy thêm một chiếc bánh do Janice nướng và bắt đầu trét lên nó một lượng bơ quá mức:
- Anh nghĩ John đã thấy nó, phải không? Gã bắt gặp Wharton vứt bỏ mấy đứa bé gái, thậm chí đã hãm hiếp chúng?
- Tôi nghĩ nếu gã thấy, ắt hẳn gã đã tìm cách ngăn cản. - Tôi trả lời. - Về việc nhìn thấy Wharton, có thể là trong lúc gã bỏ đi. Tôi cho là có thể gã bỏ đi. Nếu có chuyện đó thì về sau gã quên mất.
- Chắc chắn. - Dean nói. - Gã tuy đặc biệt nhưng không có nghĩa là thông minh. Gã chỉ nhận ra thủ phạm là Wharton khi Wharton thò tay qua chấn song xà lim, chạm vào người gã.
Brutal gật đầu.
- Đó là lí do tại sao John có vẻ quá ngạc nhiên... quá sửng sốt. Còn nhớ cách gã mở mắt không?
Tôi gật đầu.
- Gã sử dụng Percy như một khẩu súng để giết Wharton, Janice nói như vậy, và đó là điều tôi vẫn suy nghĩ. Tại sao John Coffey muốn giết Wild Bill? Percy thì có thể - Percy đạp con chuột của Delacroix ngay trước mặt gã, Percy thiêu sống Delacroix và John biết - nhưng còn Wharton? Wharton quậy phá hầu hết chúng ta theo cách này hoặc cách khác nhưng nó không lôi thôi gì với John, theo như tôi biết - chỉ trao đổi vài chục từ với gã trong suốt thời gian họ ở Dặm Đường Xanh, một nửa số từ đó là vào đêm cuối cùng. Tại sao gã muốn giết? Gã từ Hạt Purdom đến và theo chừng mực mà đàn ông da trắng trên ấy quan tâm, thì thậm chí không thấy một tên da đen, trừ khi hắn tình cờ đi cùng đường với bạn. Vậy tại sao gã làm điều đó? Khi bị Wharton đụng vào, gã đã thấy hoặc cảm nhận điều gì tệ hại đến mức gã giữ lại chất độc hút ra khỏi Melly?
- Và suýt nữa tự giết chết mình. - Brutal nói.
Hơn ba phần tư. Và hai bé gái song sinh nhà Detterick là tất cả những gì tôi nghĩ đủ tệ hại để giải thích điều gã đã làm. Tôi tự bảo một ý tưởng như thế quả là vớ vẩn, quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên, không thể được. Thế rồi tôi nhớ điều gì đó Curtis Anderson đã viết trong bản ghi nhớ đầu tiên nhận được về Wharton - rằng Wharton hung bạo điên cuồng, rằng thằng nhóc đã lang thang khắp tiểu bang trước khi nó giết người trong vụ cướp giật đó. Lang thang khắp tiểu bang. Chi tiết đó khiến tôi lưu ý. Rồi cách nó xiết cổ Dean khi nhập trại. Sự kiện làm tôi nghĩ đến...
- Con chó. - Dean nói. Anh ta xoa cổ, nơi Wharton đã quàng sợi xích. Tôi nghĩ thậm chí anh ta cũng không biết mình đang xoa cổ. - Cổ con chó bị bẻ gẫy.
- Dù sao tôi cũng đến Hạt Purdom để xem hồ sơ Tòa án về Wharton - tất cả hồ sơ chúng ta có ở đây là những báo cáo về vụ giết người khiến gã phải đến Dặm Đường Xanh. Nói cách khác là hồi kết thúc sự nghiệp của gã. Tôi muốn hồi bắt đầu kia.
- Nhiều điều tồi tệ, phải không?
- Phải. Thói phá hoại, ăn cắp vặt, đốt đụn rơm, thậm chí ăn cắp chất nổ - nó và một thằng bạn đã thuổng một khối chất nổ rồi đem đốt bên một con lạch. Nó đã bụi đời từ khi lên mười nhưng điều tôi muốn không tìm được. Sau đó, khi Cảnh sát trưởng đến xem tôi là ai và đang làm gì, tôi đã thật sự gặp may. Tôi bịp anh ta, bảo là trong khi khám xét xà lim đã phát hiện một xấp ảnh giấu dưới nệm của Wharton - các bé gái không mặc quần áo. Tôi nói muốn xem Wharton có tiền sử đồng tính luyến ái không, bởi có nghe một vài vụ không tìm ra thủ phạm ở Tennessee. Tôi thận trọng không nhắc đến hai bé gái song sinh nhà Detterick. Tôi cũng không nghĩ anh ta sẽ chợt nhớ đến.
- Dĩ nhiên là không. - Harry có ý kiến. - Tại sao họ phải nhớ? Xét cho cùng, vụ án đó đã khép lại.
- Tôi nghĩ đeo đuổi ý tưởng đó thật vô nghĩa, vì trong hồ sơ của Wharton chẳng có gì. Tôi muốn nói, có đủ thứ trong hồ sơ nhưng không có chi tiết nào liên quan. Thế rồi, Cảnh sát trưởng - anh ta tên Catlett - bật cười và nói không phải tất cả những gì do một quả táo thôi như Bill Wharton gây ra đều nằm trong hồ sơ Tòa Án, vả lại có đáng gì? Chẳng phải nó đã chết sao?
- Tôi trả lời làm thế chỉ để thỏa mãn tính tò mò cá nhân, không có mục đích nào khác và anh ta tỏ ra an tâm. Anh ta đưa tôi trở về văn phòng, mời tôi ngồi, đưa tôi một tách cà phê và một cái bánh rán, rồi bảo tôi rằng mười sáu tháng trước, khi Wharton gần tròn mười tám tuổi, một người đàn ông trong Hạt bắt gặp thằng nhóc trong vựa cỏ với con gái ông ta. Nói chính xác thì không phải hãm hiếp; ông ta mô tả vụ việc như là “không nhiều hơn một ngón tay bẩn thỉu” cho Catlett nghe. Xin lỗi em.
- Không sao. - Janice đáp nhưng mặt nàng tái xanh.
- Bé gái đó bao nhiêu tuổi? - Brutal hỏi.
- Chín tuổi. - Tôi trả lời.
Anh ta nhăn mặt.
- Lẽ ra chính ông ta đã săn đuổi thằng Wharton nếu có vài ông anh hoặc anh em họ giúp đỡ, nhưng ông ta không có. Vì thế ông ta đến gặp Catlett, nhưng nói rõ ông ta chỉ muốn cảnh cáo Wharton. Không ai muốn một vụ việc đồi bại như thế phơi bày trước công chúng, nếu có thể ém nhẹm. Tuy nhiên, Cảnh sát trưởng C đã một thời đối phó với những trò tai quái của Wharton - đã từng trị nó trong trường cải tạo trên ấy trong tám tháng gì đó; khi Wharton mười lăm tuổi - và anh ta thấy như vậy là quá đủ. Anh ta đem theo ba cảnh sát viên, họ đến nhà Wharton, gạt Bà Wharton sang một bên khi bà ta bắt đầu khóc lóc than vãn, rồi cảnh cáo Ô. William “Billy the Kid” Wharton về điều sẽ xảy ra cho bọn vô tích sự mặt đầy mụn nhọt khi chúng chui vào vựa cỏ khô với những bé gái chưa đủ lớn để nghe nói chuyện hành kinh của đàn bà, nói gì đến bắt đầu chu kì. “Chúng tôi cảnh cáo đích đáng thằng du côn rác rưởi đó”, Catlett nói với tôi. “Cảnh cáo cho đến lúc nó tóe máu đầu, trật khớp xương vai, mông thì gần nát bét”.
Brutal bật cười ngoài ý muốn.
- Nghe đúng là kiểu cách Hạt Purdom, được lắm. - Anh ta nói. - Cũng như không.
- Ba tháng sau, muốn hay không, tên Wharton đó vượt ngục và bắt đầu cuộc đời giang hồ cho đến khi kết thúc bằng vụ cướp giật. - Tôi nói. - Vụ đó và những vụ giết người đã dẫn nó đến chỗ chúng ta.
- Vậy nó đã có lần làm bậy với bé gái vị thành niên. - Harry kết luận. Anh ta tháo kính, hà hơi lên và lau bóng. - Kiểu vị thành niên. Một lần chưa hẳn là tính cách, phải không?
- Một con người có hành vi như vậy thì không chỉ một lần.
- Vợ tôi lên tiếng, môi mím chặt, chặt đến nỗi gần như không có môi.
Sau đó tôi kể họ nghe về chuyến đi đến Hạt Trapingus. Tôi đã nói thẳng thắn nhiều hơn với Rob McGee - thật sự tôi không có lựa chọn. Đến ngày hôm nay, tôi vẫn không biết anh ta đã thêu dệt chuyện gì về O. Detterick, nhưng con người McGee ngồi cạnh tôi trong quán ăn dường như già đi bảy tuổi.
Vào giữa tháng năm, khoảng một tháng trước vự cướp giật và những vụ giết người đã kết thúc sự nghiệp sống ngoài vòng pháp luật của Wharton, Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ của ông ta (và ngẫu nhiên, sau đó là chiếc cũi chó của con Bowser). Ông ta không muốn con trai mò mẫm trên giàn giáo, vả lại cậu bé bận đi học nên ông ta đã thuê người làm. Một gã khá tốt. Rất ít nói. Công việc tiến hành trong ba ngày. Không, gã không ngủ trong nhà. Detterick không điên rồ đến mức tin rằng tốt bụng và ít nói có nghĩa là an toàn, đặc biệt vào thời đó, khi có quá nhiều bọn vô lại lang thang ngoài đường phố. Một người đàn ông cùng gia đình anh ta phải thận trọng. Dù thế nào thì gã thanh niên cũng không cần nơi ở; gã bảo Detterick gấ đã thuê phòng trong thị trấn, tại nhà trọ Eva’s Price. Quả có một bà tên Eva Price ở Tefton và bà ta thật sự cho thuê phòng, nhưng không có khách trọ nào vào tháng năm khớp với nhân dạng của gã làm thuê cho Detterick. Chỉ là những người bình thường mặc áo kẻ carô, đội nón quả dưa, kéo những vali hàng mẫu - những người chào hàng, nói một cách khác. McGee kể cho tôi nghe được vì anh ta đã đến nhà Bà Price và kiểm chứng trên đường từ nông trại của Detterick trở về - anh ta bồn chồn là vì thế.
- Thậm chí nếu có - Anh ta nói thêm - Cũng không có luật chống người ngủ trong rừng, ông Edgecombe ạ. Bản thân tôi đã ngủ như thế một, hai lần.
Gã làm thuê không ngủ ở nhà Detterick nhưng ăn tối với họ hai lần. Hẳn gã đã gặp mặt Howard. Hẳn gã đã gặp mặt hai bé gái, Cora và Kathe. Hẳn gã đã nghe chúng ríu rít, một phần câu chuyện có lẽ nói về sự mong đợi mùa hè sắp đến, bởi nếu chúng ngoan ngoãn và thời tiết tốt, má sẽ thỉnh thoảng cho phép chúng ngủ ngoài hiên, ở đó chúng có thể tưởng tượng mình là vợ của những di dân đầu tiên đang vượt qua vùng Great Plains trên những chiếc xe ngựa Conestoga.
Tôi hình dung anh ta đang ngồi tại bàn, ăn gà rôti và bánh mì lúa mạch đen do bà Detterick nướng, lắng nghe, che dấu đôi mắt chó sói của anh ta, gật đầu, mỉm cười một chút, ghi nhận mọi tình tiết.
- Paul, chi tiết này nghé không giống gã thanh niên hung bạo anh kể cho em nghe khi gã đến Dặm Đường Xanh lần đầu. - Janice nghi hoặc nói. - Không giống chút nào.
- Thưa bà, bà đã không thấy nó tại Bệnh viện Indianola. - Harry nói. - Đứng ì ra đó, miệng há hốc và mông phơi ra sau quần. Mặc kệ cho chúng tôi thay quần áo cho nó. Chúng tôi tưởng nó say thuốc hoặc khùng. Phải vậy không, Dean?
Dean gật đầu.
- Hôm sau ngày gã thanh niên sơn xong vựa cỏ và ra đi, có một kẻ bịt mặt bằng tấm khăn rằn đánh cướp văn phòng hãng vận tải Hampey ở Jarvis. - Tôi kể cho họ nghe. - Tẩu thoát cùng với 70 đôla. Kẻ đó cũng cướp di đồng đô la bạc phát hành năm 1892 mà viên đại lí hãng mang trên người để cầu may. Đồng đôla bằng bạc đó được phát hiện trên người Wharton khi nó bị bắt, mà Jarvis chỉ cách Tefton có ba mươi dặm.
- Vậy tên cướp đó... gã hung bạo đó... anh nghĩ gã dừng lại ba ngày để giúp Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ. - Vợ tôi nói. - Ản tối với họ, nói làm ơn đưa hộ đĩa đậu như mọi người bình thường.
- Điều đáng sợ nhất ở những kẻ như gã là không thể đoán trước. - Brutal đáp. - Có thể gã đã vạch kế hoạch thủ tiêu gia đình Detterick và cướp của, rồi thay đổi ý đồ vì một đám mây kéo đến che khuất ánh mặt trời vào lúc không thích hợp, hoặc điều gì đó tương tự. Nhưng có khả năng hơn cả là gã để ý hai bé gái và mưu đồ quay lại. Anh nghĩ thế không, Paul?
Tôi gật đầu. Tất nhiên tôi đã nghĩ đến tình huống đó.
- Và còn cái tên gã khai với Detterick.
- Tên gì? - Jan hỏi.
- Will Bonney.
- Bonney? Em không...
- Tên thật của Billy the Kid.
- Ồ. - Rồi mắt nàng mở to. - Ồ! Vậy là anh có thể gỡ tội cho John Coffey! Cảm ơn Chúa! Anh chỉ cần cho ông Detterick xem ảnh của William Whartoa, ảnh trong hồ sơ cảnh sát là đủ.
Brutal và tôi trao đổi ánh mắt bốì rối. Dean có vẻ hi vọng một chút nhưng Harry lại nhìn xuống bàn tay, như thể đột nhiên hết sức quan tâm đến những móng tay.
- Có chuyện gì? - Janice “hỏi. - Tại sao các anh nhìn nhau như vậy? Chắc chắn ông McGee sẽ phải...
- Rob McGee gây ấn tượng cho anh là người tốt, anh nghĩ anh ta là một nhân viên công lực tuyệt vời. - Tôi trả lời. - Nhưng anh ta không có kí lô nào ở Hạt Trapingus. Quyền lực ở đấy nằm trong tay Cảnh sát trưởng Cribus, cái ngày mà lão ta mở lại hồ sơ vụ án Detterick dựa trên những gì anh phát hiện sẽ là ngày tuyết rơi dưới địa ngục.
- Nhưng... nếu Wharton đã ở đó... nếu Detterick có thể nhận diện ảnh chụp nó và họ biết nó đã ở đó...
- Nó ở đó vào tháng năm không có nghĩa là nó đã quay lại và giết những bé gái vào tháng sáu. - Brutal giải thích. Anh ta nói bằng giọng thấp, dịu dàng, cách mà bạn dùng để nói với ai đó răng trong gia đình có tang. - Một mặt chúng ta có gã đã giúp Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ rồi bỏ đi. Hóa ra gã gây ra tội ác khắp nơi, nhưng không có chi tiết nào chống lại gã trong 3 ngày tháng năm, khi gã còn quanh quẩn ở Tefton. Mặt khác, ta có tên da đen to xác kia, tên da đen khổng lồ mà chúng ta phát hiện trên bờ sông, ôm hai bé gái đã chết không mảnh vải trên tay.
Anh ta lắc đầu.
- Paul nói đúng, Jan ạ. McGee có thể nghi ngờ, nhưng McGee không là gì. Cribus là người duy nhất có thể mở lại hồ sơ, nhưng Cribus không muốn lôi thôi với cái lão nghĩ là kết thúc có hậu - “thủ phạm là một thằng da đen”, lão nghĩ thế, ‘và không phải người da trắng phe ta. Đẹp lắm, ta sẽ lên tận Cold Mountain, tự thưởng một miếng beefsteak và một li bia hơi ở quán Ma’s, rồi xem gã bị nướng, thế là xong.
Janice lắng nghe đầy đủ với vẻ khủng khiếp rõ dần trên nét mặt, rồi quay sang tôi.
- Nhưng McGee tin vào chi tiết đó, phải không Paul? Em thấy điều đó trên nét mặt anh. Cảnh sát phó McGee biết anh ta đã bắt lầm người. Anh ta dám đứng lên chống lại cảnh sát trưởng không?
- Tất cả những gì anh ta có thể làm khi chống đối là mất việc làm. – Tôi trả lời. - Phải, anh nghĩ trong thâm tâm, anh ta biết thủ phạm là Wharton. Nhưng anh ta tự nhủ rằng, nếu anh ta kín miệng và diễn xuất cho đến ngày Cribus hoặc là nghỉ hưu, hoặc tham ăn mà chết, anh ta sẽ được thăng chức. Và lúc ấy mọi việc sẽ khác. Anh hình dung đấy là điều anh ta tự nhủ để có thể ngủ ngon. Và có lẽ anh ta cũng không khác hơn Homer ở một điểm. Anh ta sẽ tự nhủ: “Dù sao cũng chỉ là một thằng da đen. Dường như không có chuyện đốt người da trắng vì phạm tội đó”.
- Vậy anh phải tìm đến với họ. - Janice nói và tim tôi chết cóng trước giọng nói quả quyết, không còn gì để nghi ngờ nữa.
- Anh hãy đi báo cho họ biết những gì anh đã phát hiện.
- Làm sao chúng tôi có thể khai báo rằng chúng tôi đã tìm ra sự thật, Jan? - Brutal hỏi nàng, vẫn bằng giọng thấp. - Chúng tôi có nên khai báo Wharton đã vồ lấy John như thế nào trong khi chúng tôi đưa gã ra khỏi trại giam để ban phép lạ cho vợ của giám thị?
- Không... tất nhiên là không được, nhưng... - Nàng thấy lớp băng trước mặt quá mỏng bèn trượt sang hướng khác. - Vậy thì nói dối. - Nàng kết luận. Nàng nhìn Brutal, vẻ bướng bỉnh, rồi quay sang nhìn tôi. Ánh mắt nàng đủ nóng để đốt thủng một mười lăm trên tờ báo, hẳn bạn sẽ nói vậy.
- Nói dối. - Tôi lặp lại. - Nói dối về điều gì?
- Về điểm khiến anh phải lên đường, trước là đến hạt Purdom, rồi xuống đến Trapingus. Xuống dưới đó gặp lão Cảnh sát trưởng già nua, to béo và nói rằng Wharton kể cho anh nghe gã đã hãm hiếp rồi giết chết hai đứa bé gái. Rằng gã thú nhận. - Nàng chuyển ánh mắt nóng bỏng sang Brutal trong một thoáng. - Anh có thể hỗ trợ anh ấy, Brutus. Anh có thể khai anh đã có mặt khi thằng nhóc thú tội, anh cũng nghe được. Có lẽ Percy cũng nghe được, và có lẽ sự kiện đó làm hắn kích động. Hắn bắn Wharton vì hắn không chịu đựng nổi khi nghĩ đến tai họa mà Wharton đã gây ra cho hai bé gái. Vụ việc đã làm hắn phát điên. Chỉ là... cái gì? Nhân danh Chúa, bây giờ lại chuyện gì nữa đây ĩ
Không chỉ tồi và Brutal, Harry và Dean cũng đang nhìn nàng, vẻ kinh hãi.
- Chúng tôi chưa bao giờ báo cáo sự việc nào như thế, thưa bà. - Harry nói. Anh ta nói như thể với một đứa trẻ. - Trước hết người ta sẽ hỏi tại sao chúng tôi đã không báo cáo. Chúng tôi có bổn phận báo cáo bất cứ điều gì các bé cưng trong xà lim nói lộ ra về những tội ác đã gây ra trước kia. Tội của chúng hoặc của bất cứ ai khác.
- Mà chúng tôi cũng không tin nó. - Brutal xen vào. - Một thằng như Wild Bill Wharton hay dối trá bất cứ chuyện gì, Jan ạ. Tội ác nó đã gây ra, những tai to mặt lớn nó quen biết, những người phụ nữ ăn nằm với nó, ghi bàn thắng bóng đá ở trường Trung học, thậm chí cả thời tiết chết tiệt nữa.
- Nhưng... nhưng... - Gương mặt nàng hiện nét đau đớn. Tôi bước đến quàng tay ôm nàng nhưng nàng thô bạo đẩy tay tôi ra. - Nhưng nó đã ở đấy! Nó đã sơn cái vựa cỏ đáng nguyền rủa của họ! Nó đã ăn tối với họ!
- Càng thêm lí do khiến nó có thể bị nghi ngờ phạm tội.
- Brutal nói. - Xét cho cùng, có hại gì đâu? Tại sao không khoác lác? Rốt cuộc chúng ta không thể nướng chín hai lần một con người.
- Để tôi nói xem đúng không. Chúng ta ngồi tại bàn này biết rằng John Coffey không những không giết các bé gái, anh ta còn tìm cách cứu sống. Cảnh sát phó McGee không biết tất cả, dĩ nhiên, nhưng anh ta quả có ý nghĩ kẻ bị kết án tử vì giết người không phải là thủ phạm. Thế mà... vẫn... các anh vẫn không thể xin mở lại phiên tòa mới. Thậm chí không thể mở lại hồ sơ.
- Vâng. - Dean trả lời. Anh ta đang giận dữ chùi bóng cặp kính. - Khả năng là như thế.
Vợ tôi ngồi cúi đầu, suy nghĩ. Brutal dợm nói điều gì đó nhưng tôi giơ tay, ra hiệu im lặng. Tôi không tin Janice nghĩ ra cách giúp John thoát khỏi cái hộp giết người, nơi gã đang ở, nhưng tôi cũng không tin là không được. Nàng, vợ tôi, là một quý bà thông minh đáng sợ. Quả quyết đáng sợ nữa. Một sự kết hợp đôi khi có thể lấp biển dời non.
- Được rồi. - Sau cùng nàng nói. - Vậy thì các anh phải tự giải thoát cho anh ta.
- Thưa bà? - Harry sửng sốt. Hoảng sợ nữa.
- Các anh có thể làm được. Đã từng một lần rồi, phải không? Các anh có thể làm lại một lần nữa. Có điều lần này sẽ không đưa anh ta trở vào.
- Bà muốn là người giải thích cho con cái tôi hiểu lí do tôi ngồi tù không, thưa bà Edgecombe? - Dean hỏi. - Bị buộc tội tiếp tay cho một kẻ giết người vượt ngục?
- Sẽ không có chuyện đó, Dean ạ, chúng ta sẽ vạch ra kế hoạch. Ngụy trang như một cuộc vượt ngục thật sự.
- Bảo đảm kế hoạch sao cho một gã thậm chí không nhớ nổi cách buộc dây giày tiến hành thành công. - Harry lên tiếng. - Người ta sẽ phải tin như thế.
Nàng ngập ngừng nhìn họ.
- Không ăn thua gì. - Brutal nói. - Dù chúng ta có nghĩ ra cách nào đó cũng chẳng ăn thua gì.
- Tại sao không? - Nàng cãi lại, nghe như thể sắp khóc. - Khốn kiếp, tại sao lại không được?
- Vì gã là một tên da đen hói đầu, cao 6 feet 8 inch, không có trí khôn để tự nuôi sống. - Tôi trả lời. - Em nghĩ bao lâu sau thì gã sẽ bị bắt lại? hai giờ? sáu giờ?
- Trước kia anh ta đã hòa mình vào xã hội, không lôi kéo nhiều chú ý. - Nàng đáp.
Một giọt nước mắt nhỏ xuống má, bị nàng gạt đi bằng cườm tay.
Điều đó quả có thật. Tôi đã viết thư cho một vài người bạn và thân nhân ở miền Nam, hỏi họ có đọc được trên báo chi điều gì phù hợp với nhân dạng John Coffey không. Không có gì. Janice cũng làm như thế. Chúng tôi chỉ tìm được một chi tiết có thể, xảy ra tại thị trấn Muscle Shoals, tiểu bang Alabama. Một con lốc quét qua ngôi nhà thờ trong lúc dàn đồng ca đang luyện tập - sự kiện này xảy ra năm 1929 - và một người da đen to lớn đã lôi hai nạn nhân ra khỏi đống đổ nát. Thoạt đầu đám đông hiếu kì tưởng họ đã chết, nhưng hóa ra thậm chí không ai bị thương nặng. Giống như phép lạ là lời của một nhân chứng thuật lại. Người da đen đó, một gã lang thang được ông Mục sư thuê làm việc vặt trong ngày, đã biến mất trong lúc náo động.
- Chị nói đúng, gã đã hòa mình. - Brutal nói. - Nhưng chị nên nhớ gã hòa mình trước khi bị tuyên án hãm hiếp và giết hai bé gái.
Vợ tôi ngồi yên, không trả lời. Nàng ngồi như thế đến gần một phút, rồi làm một điều khiến tôi bị sốc mạnh, cũng như dòng nước mắt của tôi đã gây sốc cho nàng. Nàng vung tay ra, gạt văng tất cả mọi thứ trên bàn - đĩa ăn, li tách, dụng cụ bằng bạc, tô cải xoăn, tô bí ngô, đĩa ăn trên có khoanh thịt heo, sữa, bình trà lạnh. Tất cả văng ra khỏi bàn và rơi xuống đất, vỡ tan.
- Khiếp quá! - Dean la to, ngả người tránh ra sau mạnh đến mức gần ngã ngửa.
Janice làm ngơ. Nàng chỉ nhìn Brutal và tôi, nhất là tôi.
- Các anh cố ý giết anh ta phải không, đồ hèn? - Nàng hỏi.
Các anh cố ý giết người đã cứu mạng Melinda Moores, người đã cố gắng cứu mạng hai bé gái chăng? A, ít nhất cũng bớt đi một gã da đen trên đời chứ gì? Các anh có thể tự an ủi bằng điều đó. Bớt đi một gã mọi đen.
Nàng đứng dậy, nhìn chiếc ghế của mình rồi đá nó văng vào tường. Chiếc ghế nảy ngược ra, rơi vào đống bí ngô bị đổ. Tôi nắm lấy cổ tay nàng nhưng vợ tôi giật ra.
- Đừng đụng vào tôi. - Nàng nói. - Vào giờ này tuần sau, anh sẽ là kẻ giết người, chẳng tốt đẹp gì hơn gã Wharton kia, vậy đừng đụng vào tôi.
Nàng bước ra hiên sau, kéo tạp dề lên che mặt rồi bắt đầu khóc nức nở. Cả bốn người chúng tôi nhìn nhau. Sau một khoảnh khắc, tôi đứng lên dọn dẹp. Brutal tham gia với tôi trước, rồi đến Harry và Dean. Họ ra về khi căn phòng ít nhiều đã có vẻ gọn gàng. Hai chúng tôi không nói với nhau một lời. Thật sự không còn gì để nói. Đêm ấy tôi nghỉ trực. Tôi ngồi trong căn phòng khách ngôi nhà bé nhỏ của chúng tôi, hút thuốc, lắng nghe radio và ngắm nhìn bóng đêm tỏa lên khỏi mặt đất, nuốt chửng bầu trời. Truyền hình cũng tốt, tôi không có gì phản đối, nhưng tôi không thích cách nó làm chúng ta quay lưng với thế giới còn lại, không hướng đến điều gì ngoài chính bản thân vô hồn của nó. Về mặt đó thì chí ít nghe radio vẫn tốt hơn.
Janice bước vào, quỳ xuống bên ghế và nắm tay tôi. Trong một thoáng, cả hai đều không nói gì, chỉ để yên như vậy, lắng nghe chương trình Kiến thức Âm nhạc của Kay Kyser và ngắm sao trời lấp lánh. Tôi cảm thấy yên ổn.
- Em rất hối tiếc đã gọi anh là đồ hèn. - Nàng lên tiếng. - Em cảm thấy tồi tệ về lời lẽ đó hơn bất cứ lời nào em đã nói với anh từ khi chúng mình lấy nhau.
- Kể cả khi chúng ta đi cắm trại và em gọi anh là lão Sam Già Hôi Thối chứ? - Tôi hỏi, rồi chúng tôi bật cười và hôn nhau, rồi tình cảm trở lại tốt đẹp giữa chúng tôi. Nàng quá đẹp, Janice của tôi, và tôi vẫn còn mơ thấy nàng. Già nua và mệt mỏi vì cuộc sông như tôi, tôi vẫn sẽ mơ thấy nàng bước vào phòng tôi ở chốn cô đơn bị lãng quên này, nơi các hành lang ngập mùi nước tiểu và cải bắp hâm lại, tôi mơ thấy nàng trẻ trung xinh đẹp với đôi mắt xanh; bộ ngực cao, mỹ miều mà tôi hầu như không rời nổi tay ra, và nàng nói, Anh yêu, em không bị tai nạn xe đó. Anh phạm sai lầm, thế thôi. Thậm chí bây giờ tôi vẫn mơ như vậy và đôi khi tỉnh giấc, biết rằng đấy chỉ là một giấc mơ, tôi đã khóc. Tôi, người không bao giờ khóc khi còn trẻ.
- Hal biết không? - Sau cùng nàng hỏi.
- Biết John vô tội? Anh không thấy ông ấy có cách nào biết được
- Ông ấy giúp được chứ? Ông ấy có ảnh hưởng nào đối với Cribus không?
- Không chút nào, em yêu.
Nàng gật đầu như đã biết trước sự thể.
- Vậy anh đừng nói cho ông ấy biết. Nếu ông ấy không giúp được, hãy vì Chúa mà đừng nói.
- Không nói
Nàng nhìn tôi với ánh mắt vững vàng.
- Và đêm ấy anh đừng xin nghỉ bệnh. Không ai trong các anh làm thế. Các anh không thể.
Không, bọn anh không thể nghỉ. Nếu có mặt ở đấy, ít nhất bọn anh cũng có thể kết thúc nhanh cho gã. Bọn anh có thể làm được nhiều. Sẽ không như trường hợp của Delacroix. - Trong một thoáng - ngắn ngủi thôi, tạ ơn Chúa, tôi nhìn thấy chiếc mặt nạ đen bằng lụa bừng cháy trên khuôn mặt Delacroix, để lộ ra hai hột mứt vốn là mắt của gã.
- Không có lối thoát cho anh, phải không? - Nàng cầm tay tôi, cạ nó vào làn da nhung mịt màng trên má. - Tội nghiệp Paul. Anh chàng tội nghiệp thân yêu.
Tôi không nói gì. Trước đó hoặc sau này trong đời, chưa bao giờ tôi lại thèm khát chạy trốn một sự thể nào như thế. Chỉ đem theo Janice thôi, cả hai chúng tôi với một túi vải hành lí ở giữa, chạy trốn đến bất cứ nơi nào.
- Anh chàng tội nghiệp của em. - Nàng nhắc lại, rồi nói thêm. - Hãy nói chuyện với anh ta.
- Ai? John ư?
- Vâng. Hãy trò chuyện với anh ta. Tìm hiểu anh ta muốn gì.
Tôi suy nghĩ, rồi gật đầu. Nàng nói đúng. Nàng thường nói đúng.