Dặm Xanh

Chương 33

Docsach24.com
ôi kể tất cả cho Jan nghe vào khoảng mười một giờ sáng hôm ấy

 

Sáng hôm sau, tôi suýt viết như thế, nhưng dĩ nhiên là cùng ngày. Ngày dài nhất trong đời tôi, không nghi ngờ gì nữa. Tôi kể lại cũng khá đầy đủ như đang có ở đây, kết thúc bằng chi tiết William Wharton hết đời, nằm chết trên sạp ngủ, người lỗ chỗ đạn bắn ra từ khẩu súng của Percy.

Không, như thế không đúng. Chi tiết mà tôi thực sự kết thúc là thứ tuôn ra khỏi người Percy, những con bọ hoặc là bất cứ thứ gì. Một điều khó nói, thậm chí với cả vợ tôi, nhưng tôi đã nói.

Trong khi tôi kể, nàng đem cho tôi nửa tách cà phê - thoạt đầu tay tôi quá run, không thể cầm một tách đầy mà không làm đổ. Khi kể xong, cơn run đã dịu xuống một chút, thậm chí tôi cảm thấy thèm ăn - có lẽ một quả trứng, hoặc một ít súp.

- Điều đã cứu thoát bọn anh là bất cứ người nào trong bọn anh cũng không cần phải nói dối.

- Bỏ qua một vài chi tiết đi. - Nàng nói và gật đầu. - Chủ yếu những chi tiết nhỏ, thí dụ như làm sao anh đưa một tử tù ra khỏi trại giam, gã chữa lành một phụ nữ đang chết dần như thế nào và gã khiến Percy Wetmore hóa điên bằng cách - cái gì? - Khạc một khối u não nát nhừ vào cổ họng hắn?

- Jan, anh không biết. - Tôi trả lời. - Anh chỉ biết rằng nếu em cứ tiếp tục nói như thế, em sẽ kết thúc bằng cách tự ăn món súp kia, hoặc đổ cho chó ăn.

- Em xin lỗi. Nhưng em nói đúng, phải không?

- Phải. - Tôi đáp. - Ngoại trừ việc bọn anh thoát nạn trong cuộc. - Cuộc gì nhỉ? Em không thể gọi là cuộc đào tẩu, nghỉ phép cũng không đúng nốt. – Chuyến đi thực địa. Kể cả Percy cũng không thể khai báo nếu hắn có hồi tỉnh lại.

- Nếu hắn hồi tỉnh. - Nàng lặp lại. - Điều đó có khả năng đến mức nào?

Tôi lắc đầu để tỏ ra không biết. Nhưng thật ra tôi có biết; tôi nghĩ gã sẽ không hồi tỉnh, dù vào năm 1932, hoặc 1942, cả 1952 cũng không, về điều đó thì tôi đúng. Percy Wetmore ở lại Briar Ridge đến khi nó bị cháy rụi vào năm 1944. Mười bảy bệnh nhân nội trú chết trong đám cháy nhưng không có Percy trong số đó. Vẫn câm nín và vô hồn trong mọi khía cạnh - từ ngữ để mô tả tình trạng này là giảm trương lực - hắn được một bảo vệ đưa ra ngoài trước khi lửa lan đến khu hắn ở. Hắn chuyển đến một bệnh viện tâm thần khác - tôi không nhớ tên, dù sao tôi cho là không quan trọng - rồi chết năm 1965. Theo như tôi biết, lần cuối cùng hắn nói là lúc hắn bảo chúng tôi có thể bấm giờ ra cho hắn khi về... trừ khi chúng tôi muốn giải thích tại sao hắn bỏ về sớm.

Điều mỉa mai là chúng tôi không bao giờ phải giải thích nhiều. Percy đã hóa điên và bắn chết William Wharton. Chúng tôi khai báo như thế và theo như diễn tiến thì từng chữ một đều là sự thật. Khi Anderson hỏi Brutal thái độ của Percy ra sao trước khi nổ súng và Brutal trả lời bằng một từ - “Yên lặng” - tôi đã kinh hoàng trong một thoáng vì cảm thấy sắp bật cười. Bởi vì điều đó cũng đúng. Percy đã yên lặng, vì trong hầu hết thời gian ca trực hắn bị mẩu băng dính dán miệng, điều tốt nhất hắn có thể làm là...

Curtis giữ Percy ở lại đến tám giờ, Percy câm nín như biểu tượng của cửa hàng thuốc hút nhưng quái dị hơn nhiều. Lúc ấy Hal đã đến, vẻ trầm trọng nhưng đầy năng lực, sẵn sàng leo trở lên yên ngựa. Curtis Anderson để cho ông ấy nắm lấy trách nhiệm với một tiếng thở phào mà chúng tôi gần như nghe rõ. Con người già nua ngơ ngác đã tan biến; đích thân viên Giám thị sải bước đến chỗ Percy, đôi bàn tay to lớn nắm lấy vai hắn, lắc mạnh.

- Con trai! - Ông ấy thét vào bộ mặt vô hồn của Percy - một bộ mặt đã bắt đầu mềm nhũn như sáp, tôi nghĩ thế. - Con trai! Cậu nghe tôi nói không? Nếu nghe thì nói đi! Tôi muôn biết chuyện gì đã xảy ra!

Không có gì từ phía Percy, tất nhiên. Anderson muốn kéo Giám thị sang một bên, thảo luận về cách họ sẽ đối phó - vụ này là một scandal chính trị sôi bỏng, nếu đã từng có một vụ như thế - nhưng Moores gạt đi, ít nhất là trong giai đoạn trước mắt, và lôi tôi xuống Dặm Đường Xanh. John Coffey đang nằm trên sạp, quay mặt vào tường, đôi chân đong đưa kì quặc như thường lệ. Có vẻ gã đang ngủ và có lẽ thế... nhưng bản chất gã không phải luôn luôn đúng như vẻ bề ngoài, như chúng tôi đã phát hiện.

- Sự kiện xảy ra ở nhà tôi có liên can gì đến điều xảy ra ở đây khi anh trở về không? - Moores khẽ giọng hỏi. - Tôi sẽ bao che cho anh tối đa trong quyền hạn, thậm chí nếu có nghĩa là hi sinh cả việc làm của tôi, nhưng tôi cần phải biết.

Tôi lắc đầu. Khi nói, tôi cũng giữ giọng thấp. Lúc này có gần một tá lính gác quanh quẩn ở đầu lối đi. Một lính gác khác đang chụp ảnh Wharton trong xà lim. Curtis Anderson đã quay lại để chứng kiến và trước mắt chỉ có Brutal đang nhìn chúng tôi.

- Không, thưa sếp. Chúng tôi đưa John về xà lim như ông thấy đấy, rồi thả Percy ra khỏi phòng kỉ luật, nơi chúng tôi nhốt hắn vì sự an toàn. Tôi tưởng hắn sẽ đùng đùng nổi giận nhưng không phải. Hắn chỉ đòi lại súng và dùi cui. Hắn không nói gì khác, chỉ bỏ đi lên hành lang. Thế rồi khi đến cửa xà lim của Wharton, hắn rút súng ra bắn.

- Anh nghĩ chuyện bị nhốt trong phòng kỉ luật... ảnh hưởng đến tâm trí hắn không?

- Không, thưa sếp.

- Anh có nhốt hắn vào áo đai không?

- Không, thưa sếp. Không cần.

- Hắn im lặng? Không vùng vẫy?

- Không vùng vẫy.

- Kể cả khi hắn thấy anh có ý nhốt hắn vào phòng kỉ luật, hắn vẫn im lặng và không vùng vẫy.

- Đúng vậy. - Tôi cảm thấy ao ước muốn thêu dệt câu chuyện - cho Percy ít nhất một hoặc hai dòng - rồi chinh phục nó. Đơn giản hơn thì tốt hơn, tôi biết. - Không có ồn ào. Hắn lẳng lặng bước đến góc phòng rồi ngồi xuống.

- Lúc ấy hắn không nói gì đến Wharton?

- Không, thưa sếp.

- Cũng không nói gì về Coffey?

Tôi lắc đầu.

- Có thể nào Percy đã để bụng rình Wharton? Hắn có thù hằn gì với thằng nhóc không?

- Điều đó có thể. - Tôi trả lời, hạ thấp giọng hơn nữa. - Percy đi đứng bất cẩn, Hal ạ. Có một lần Wharton thò tay ra, lôi hắn vào các chấn song, vò đầu hắn. - Tôi ngừng lại. - Cảm nhận hắn, ông có thể nói như vậy.

- Không có gì trầm trọng hơn sao? Chỉ... vò đầu hắn... thế thôi?

- Vâng, nhưng với Percy vẫn là trầm trọng. Wharton nói gì đó về chuyện thà ngủ với Percy hơn là với chị hắn.

- Hừm. - Moores tiếp tục liếc sang bên về phía John Coffey, như thể ông ấy cần được trấn an không ngừng rằng Coffey là con người thật, hiện hữu thật trên quả đất. - Điều đó không giải thích được chuyện đã xảy ra cho hắn, nhưng là chi tiết giá trị để hướng về giải thích tại sao hắn say mê Wharton, không phải Coffey hay một người trong số các anh. Nói về người của anh, Paul này, liệu tất cả bọn họ sẽ kể lại cùng một câu chuyện không?

- Vâng, thưa sếp. - Tôi trả lời ông ấy. - Họ sẽ làm thế. - Tôi nói với Jan và bắt đầu ãn món súp nàng dọn ra bàn. - Tôi sẽ lo việc đó.

- Anh quả có nói dối. - Nàng bảo. - Anh nói dối Hal.

A, đúng là một người vợ dành cho bạn, phải không? Luôn luôn soi mói tìm lỗ nhậy cắn bộ đồ vía đẹp nhất của bạn và thường không khi nào mà không tìm ra một lỗ.

- Anh cho là vậy, nếu em muốn nhìn nhận theo hướng đó. Tuy nhiên, anh không nói với ông ấy điều gì khiến cả hai không thể sống với nó. Anh nghĩ Hal vô tội. Xét cho cùng, ông ấy không có mặt ở đó. Ông ấy ở nhà chăm sóc vợ cho đến khi Curtis gọi điện thoại.

- Ông ấy có nói sức khỏe Melinda thế nào không?

- Lúc ấy thì không, không có thì giờ, nhưng bọn anh lại nói chuyện với nhau ngay khi Brutal và anh ra về. Melly không nhớ được nhiều nhưng khỏe. Đứng dậy và đi lại. Nói về những bồn hoa năm sau.

Vợ tôi ngồi nhìn tôi ăn một lúc. Sau đó nàng hỏi:

- Hal biết đấy là phép lạ không, Paul? Ông ấy hiểu điều đó chứ?

- Hiểu. Tất cả bọn anh đều hiểu, tất cả đều đã có mặt ở đấy.

- Một phần trong em ước gì em cũng có mặt. - Nàng nói. - Nhưng em nghĩ phần lớn sẽ vui mừng vì em đã không đến. Nếu nhìn thấy những chiếc vảy rơi xuống từ mắt của Saul trên đường đến Damascus, có lẽ em sẽ chết vì lên cơn đau tim.

- Không đâu. - Tôi đáp, nghiêng cái tô để múc muỗng súp cuối cùng. - Có lẽ sẽ nấu cho anh ta một ít súp. Ngon quá, cưng à.

- Tốt. - Nhưng nàng không thật sự suy tư về món súp hoặc hành vi cải đạo của Saul trên đường đến Damascus. Nàng đang nhìn ra những đỉnh núi qua cửa sổ, tựa cằm vào lòng bàn tay, mắt mơ màng như những đỉnh núi kia vào các buổi sáng mùa hè, khi thời tiết chuyển nóng. Những buổi sáng mùa hè như buổi sáng phát hiện ra hai bé gái nhà Detterick - tôi liên tưởng mà không vì lí do nào. Tôi tự hỏi tại sao chúng không kêu. Kẻ giết người đã gây đau đớn cho chúng; có vết máu trên hiên, trên bậc thềm. Vậy tại sao chúng không kêu?

- Anh nghĩ John Coffey thật sự giết gã Wharton kia, phải không? - Janice hỏi, sau cùng từ cửa sổ nhìn lại. - Không phải là tai nạn, hay thứ gì như thế; anh nghĩ gã sử dụng Wetmore giết Wharton như thể một khẩu súng.

- Phải.

- Tại sao?

- Anh không biết.

- Kể lại em nghe chuyện xảy ra khi anh đưa Coffey ra khỏi Dặm Đường Xanh, được chứ? Chỉ phần đó thôi.

Thế là tôi kể. Tôi kể nàng nghe chuyện cánh tay ốm o thọc ra ngoài qua chấn song, chụp vào bắp tay của John như thế nào, gợi tôi nhớ đến loài rắn - một loài rắn hổ nước mà tất cả chúng ta đều sợ khi còn là những thằng nhóc đi bơi dưới sông - và Coffey đã mắng Wharton là kẻ xấu xa như thế nào. Gần như là thầm thì.

- Và Wharton nói...? - Vợ tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ nhưng lắng nghe, thế đấy.

Wharton nói:

- Đúng vậy, mọi đen, xấu xa như ý mày muốn.

- Và chỉ có thế.

- Phải. Anh có cảm giác điều gì đó sắp xảy ra ngay sau đó nhưng không có. Brutal gỡ tay Wharton rồi ra lệnh cho nó nằm xuống, Wharton làm theo. Thằng nhóc bật dậy để bắt đầu. Nó nói điều gì đó về bọn mọi đen phải có ghế điện riêng, thế thôi. Bọn anh đi làm việc của mình.

- John Coffey gọi gã là kẻ xấu xa.

- Ừ. Có một lần gã cũng nói như thế về Percy. Có lẽ nhiều hơn một lần. Anh không nhớ chính xác khi nào, nhưng anh biết gã đã nói.

- Nhưng cá nhân Wharton chưa hề đụng chạm đến John Coíĩey, đúng không? Ý em nói, như đã đụng chạm với Percy.

- Không. Theo vị trí xà lim - Wharton phía trên gần bàn trực về một bên, John phía dưới bên kia - thì hai gã khó lòng nhìn thấy nhau.

- Kể lại em nghe vẻ Coffey như thế nào khi Wharton chụp tay gã.

- Janice, chuyện này không đi đến đâu cả.

- Có thể là không, mà cũng có thể là có. Kể lại em nghe nhìn gã như thế nào.

Tôi thở dài.

- Anh đoán em sẽ nói là bị sốc. Gã nghẹn thở. Giống như em bị sốc khi đang tắm nắng trên bãi biển và anh lẻn đến gần, nhỏ một ít nước lạnh xuống lưng em. Hoặc giống như gã bị tát tai.

- Phải, chắc thế. - Nàng đáp. - Bị vồ từ chốn hư vô như thế tất làm cho gã hoảng hốt, thức tỉnh gã trong một thoáng.

- Phải. - Tôi nói. Và rồi... - Không phải.

- A, cái nào? Phải hay là không phải?

- Không phải. Không phải là hoảng hốt. Dáng vẻ đó giông như lúc gã muốn anh vào trong xà lim để gã chữa bệnh nhiễm trùng của anh. Hoặc là lúc gã muốn anh đưa con chuột cho gã. Đấy là vẻ ngạc nhiên, nhưng không phải là bị đụng chạm... dù sao cũng không hẳn... lạy Chúa, Jan, anh không biết.

- Được rồi, chúng ta bỏ qua. - Nàng nói. - Em không thể hình dung lí do tại sao John làm điều đó, thế thôi. Gã không phải là kẻ tàn bạo trong bản chất. Paul, điều đó dẫn đến một câu hỏi khác: làm sao anh có thể xử tử gã nếu anh nói đúng về những cô bé đó? Làm sao anh có thể đưa gã lên ghế điện nếu kẻ nào khác...

Tôi co giật trên ghế ngồi. Khuỷu tay tôi đụng vào tô súp, lật nó rơi xuống sàn, vỡ nát. Một ý tưởng chợt đến trong tâm trí, mang tính trực giác nhiều hơn tính logic, nhưng có một vẻ thanh lịch da đen nào đó.

- Paul? - Janice hỏi, vẻ lo lắng. - Có chuyện gì?

- Anh không biết. - Tôi trả lời. - Anh không biết chắc điều gì, nhưng sẽ tìm ra nếu có thể.