- Gì thế? - Tôi hỏi. - Một phương hướng sao? - Trong tâm trí tôi, vấn đề có thể là điều đó hoặc bất cứ điều gì; từng bộ phận của đầu máy và thanh chuyền động của chiếc Farmall nghe như ở trên bờ vực của sai lầm chết người hoặc hoàn toàn đầu hàng con ma.
- Không. - Harry trả lời, giọng nghe như biết lỗi. - Tôi phải đi xả, vậy thôi. Mắc tè quá.
Hóa ra tất cả chúng tôi đều làm thế, trừ John. Khi Brutal hỏi gã muốn xuống xe giúp chúng tôi tưới cây không, gã chỉ lắc đầu mà không ngước nhìn. Gã đang dựa vào thành xe, đắp một tấm chăn quân đội lên vai như loại khăn choàng của dân Mễ. Tôi không đọc được gì trên nước da của gã nhưng có thể nghe tiếng thở - khô khốc và thô nhám, giống như gió thổi qua đụn rơm. Tôi không thích điều đó.
Tôi chui vào một bụi liễu, cởi nút quần và để mặc. Tôi vẫn còn đủ gần gũi với chứng nhiễm trùng đường tiểu để hội chứng lãng quên chưa hoàn toàn làm chủ và đơn giản là tôi khoan khoái được tè mà không cần phải gào thét. Tôi đứng đó, xả sạch nước thải và nhìn lên mặt trăng; hầu như không nhận ra Brutal đang đứng bên cạnh và cũng làm việc như tôi, cho đến khi anh ta khẽ nói:
- Gã sẽ không bao giờ ngồi vào già Sparky.
Tôi nhìn Brutal, ngạc nhiên và hơi sợ giọng nói khẳng định khẽ khàng của anh ta.
- Ý cậu là gì?
- Ý tôi nói vì lí do nào đó, gã đã nuốt thứ sâu bọ kia thay vì nhả ra ngoài như đã làm trước kia. Có thể mất một tuần - gã quá sức to lớn và mạnh mẽ - nhưng tôi cá là nhanh hơn. Một trong số chúng ta đi tuần và sẽ thấy gã nằm chết cứng như đá trên sạp ngủ thôi.
Tôi nghĩ mình đã tè xong nhưng khi nghe câu nói đó, một chút rùng mình nẩy lên trong lưng tôi, một chút khác thì phun ra ngoài. Trong khi gài lại nút quần, tôi nghĩ điều Brutal nói quả có ý nghĩa hoàn hảo. Xét cho cùng, tôi hi vọng anh ta nói đúng. John Coffey không đáng chết, nếu tôi lí luận đúng về vụ các bé gái nhà Detterick, nhưng nếu gã phải chết, tôi không muốn do bàn tay tôi. Tôi không biết có đủ can đảm nhấc tay lên thi hành không, nếu sự việc diễn tiến đến mức đó.
- Đi nào. - Harry lẩm bẩm từ trong bóng tối. - Muộn rồi. Giải quyết chuyện này cho xong đi.
Khi trở lại xe, tôi nhận ra chúng tôi đã bỏ John ở lại hoàn toàn một mình - mức độ ngu dốt ngang với Percy Wetmore. Tôi nghĩ rằng gã đã bỏ trốn, rằng gã đã nhổ đám sâu bọ ra ngay khi thấy mình không bị canh chừng, rồi chỉ việc chuồn đến các lãnh thổ; như Huck và Jim trên chuyến tàu Big Muddy. Tất cả những gì chúng tôi sẽ tìm thấy là tấm chăn mà gã đã khoác quanh vai.
Nhưng gã còn đó, vẫn ngồi bó gối, dựa lưng vào thành xe. Gã ngước nhìn lên khi tiếng chân chúng tôi đến gần và cố nở nụ cười với chúng tôi. Nụ cười lơ lửng một thoáng trên gương mặt hốc hác rồi trôi đi.
- Thế nào, John Bự? - Brutal hỏi, leo vào sau xe tải và lấy lại chăn của anh ta.
- Khỏe, sếp ạ. - John bơ phờ trả lời. - Tôi khỏe.
Brutal vỗ đầu gối gã.
- Chúng ta sẽ sớm trở về. Và khi xong việc, anh biết gì không? Tôi sẽ lo cho anh một li cà phê nóng thật to. Cả đường và kem nữa.
Hẳn rồi, tôi vừa nghĩ vừa đi vòng qua xe, đến chỗ ghế dành cho hành khách, leo vào. Nếu bản thân chúng ta không bị bắt vào tù trước đã.
Nhưng ý nghĩ này vốn đeo đẳng tôi từ lúc tống Percy vào phòng kỉ luật và nó không khiến tôi đủ lo lắng để phải tỉnh táo. Tôi ngủ thiếp đi và mơ thấy Đồi Cavalry. Sấm sét vang lên ở hướng Tây, một thứ mùi có thể là mùi quả bách xù. Brutal, Harry, Dean và tôi đứng vòng quanh, mặc áo thụng và đội nón cao như trong một bộ phim của Cecil B. DeMille. Chúng tôi là những sĩ quan, tôi đoán thế. Có ba cây thánh giá - Percy Wetmore và Delacroix nằm bên cạnh John Coffey. Tôi nhìn xuống bàn tay và thấy mình đang cầm một cái búa dính đầy máu.
- Chúng ta phải lôi gã từ chỗ đó xuống, Paul! - Brutal hét lên. - Chúng ta phải lôi gã xuống!
Có điều chúng tôi không làm được. Người ta đã lấy thang đi. Tôi sắp nói cho Brutal biết thì xe nẩy một cú rất mạnh khiến tôi tỉnh giấc. Chúng tôi đã trở lại nơi Harry dấu xe vào sáng sớm cái ngày dường như trải dài ngược về thời hồng hoang.
Hai chúng tôi ra khỏi xe và đi vòng ra sau. Brutal nhảy ngay xuống đất nhưng đầu gối John Coffey sụm xuống, suýt ngã. Cả ba chúng tôi phải đỡ lấy gã, gã chỉ vừa đứng vững đã phát ho rũ rượi trở lại, lần này là lần tệ hại nhất. Gã gập người, tiếng ho nghèn nghẹt vì gã lấy cườm tay chặn lên miệng.
Khi cơn ho dịu xuống, chúng tôi lại che đậy bằng các cành thông rồi đi bộ ngược về lối chúng tôi đã đến. Phần tồi tệ nhất của chuyến nghỉ phép siêu thực này - ít nhất đối với tôi - là hai trăm yard cuối cùng khi chúng tôi hối hả ngược về hướng Nam dọc theo rìa xa lộ. Tôi thấy ánh sáng mờ nhạt đầu tiên trên bầu trời phía Đông và cảm nhận chắc chắn có một nông dân nào đó dậy sớm, ra đồng thu hoạch bí ngô hoặc đào những luống khoai mài cuối cùng, sẽ đến và bắt gặp chúng tôi. Thậm chí nếu điều đó không xảy ra, chúng tôi sẽ nghe thấy ai đó la lớn (trong trí tưởng tượng của tôi nghe như giọng của Curtis Anderson) “Dừng lại đó!” trong lúc tôi sử dụng chìa khóa Aladdin để mở hàng rào bao quanh vách ngăn dẫn vào đường hầm. Rồi hai tá lính gác trang bị súng carbine sẽ bước ra khỏi rừng và cuộc phiêu lưu nho nhỏ của chúng tôi sẽ kết thúc.
Khi thực sự đến bên hàng rào, tim tôi đập mạnh đến mức chỉ nhìn thấy những chấm trắng nhỏ xíu bùng nổ trước mắt theo từng nhịp đập. Tay tôi lạnh ngắt, tê dại và xa vắng và trong khoảng thời gian dài nhất tôi đã không đút nổi chìa khóa vào ổ.
- Ôi, lạy Chúa, đèn xe! - Harry rên lên.
Tôi nhìn lên và thấy những quầng sáng trên đường. Vòng chìa khóa suýt rơi khỏi tay, tôi cố chụp lại được vào giây cuối cùng.
- Đưa cho tôi. - Brutal nói. - Tôi làm cho.
- Không, tôi chụp được rồi. - Tôi đáp. Sau cùng chìa khóa cũng lọt vào ổ, xoay một vòng. Một thoáng sau chúng tôi đã vào trong. Chúng tôi nấp sau tấm vách ngăn, quan sát một chiếc xe tải chở bánh mì hiệu Sunshine lang thang chạy qua trại giam. Tôi nghe được hơi thở bị hành hạ của John Coffey ở bên cạnh. Nghe gã như một cỗ máy gần cạn dầu. Gã đã giở tấm vách ngăn lên mà không tốn chút sức lực trên đường ra, nhưng lần này thậm chí chúng tôi không yêu cầu gã giúp đỡ; không thể được. Brutal và tôi nâng cánh cửa lên, Harry dẫn John leo xuống các bậc thang. Gã to xác bước khập khễnh nhưng xuống được. Brutal và tôi theo sau hết sức nhanh, hạ tấm ván xuống và khóa lại.
- Lạy Chúa, tôi nghĩ chúng ta sẽ... - Brutal dợm nói nhưng tôi cắt lời anh ta bằng một cú thúc khuỷu tay vào sườn.
- Đừng nói. - Tôi can. - Thậm chí đừng nghĩ đến, trước khi gã an toàn trong xà lim.
- Vả lại còn có Percy để tính đến nữa. - Harry bổ sung. Giọng chúng tôi nhạt nhẽo, vang vọng trong đường hầm bằng gạch. - Buổi tối vẫn chưa kết thúc chừng nào chúng ta còn phải đấu đá với hắn.
Hóa ra buổi tối của chúng tôi còn lâu mới kết thúc.
Tôi ngồi trong phòng sưởi nắng của Georgia Pines, cây bút của bố tôi trong tay và mất ý niệm thời gian khi nhớ lại cái đêm mà Harry, Brutal và tôi đưa Coffey ra ngoài Dặm Đường Xanh, đến với Melinda Moores trong một nỗ lực cứu sống bà ấy. Tôi viết về chuyện đầu độc William Wharton, kẻ tưởng tượng mình là Billy the Kid tái thế; tôi viết về cách thức chúng tôi nhét Percy vào áo đai và bỏ tù hắn trong phòng kỉ luật ở cuối Dặm Đường Xanh; tôi viết về chuyến du hành đêm kì lạ - vừa kinh hoàng vừa vui thích - và phép lạ trời ban vào cuối câu chuyện. Chúng tôi nhìn thấy Coffey kéo một phụ nữ ra khỏi cõi chết, không chỉ từ trên miệng, mà theo những gì chúng tôi thấy, còn là từ đáy huyệt mộ.
Tôi viết và nhận thức rất lờ mờ về phiên bản cuộc sống Georgia Pines đang diễn ra quanh tôi. Người già xuống nhà dưới dùng bữa rồi lũ lượt đến Trung tâm Giải trí (vâng, bạn - được phép tặc lưỡi một cái) để uống liều thuốc kịch tình huống truyền hình buổi tối. Tôi nhớ dường như bà bạn Elaine của tôi có đem cho một chiếc bánh sandwich, nói lời cảm ơn và ăn bánh, nhưng không thể kể bạn nghe bà ấy đem bánh đến lúc mấy giờ, hoặc trong đó có gì. Phần lớn cái tôi đã quay về năm 1932, khi những khoanh sandwich của chúng tôi thường được mua từ chiếc xe đẩy bán quà vặt, đậy bằng những trang kinh thánh của lão Toot Toot, thịt heo nguội giá năm xu, thịt bò mười xu.
Tôi nhớ lại khu dưỡng lão lắng xuống khi những di tích sống ở đấy chuẩn bị cho một đêm nữa với một giấc ngủ mỏng manh, đầy bất an; tôi nghe thấy Mickey - có thể không phải là hộ lí giỏi nhất nhưng chắc chắn là người tốt bụng nhất - đang hát “Red River Valley” bằng giọng kim hay ho trong lúc anh ta đi lòng vòng phát cử thuốc tối: “Trong thung lủng người ta đồn em sẽ ra đi... chúng tôi sẽ nhớ tiếc đôi mắt sáng và nụ cười ngọt ngào...” Bài hát làm tôi lại nghĩ đến Melinda và điều bà ấy đã nói với John sau khi phép lạ xảy ra. Tôi mơ thấy anh. Tôi mơ thấy anh lang thang trong bóng tối và tôi cũng thế. Chúng ta đã gặp nhau.
Georgia Pines trở nên yên lặng, nửa đêm đến rồi đi và tôi vẫn còn viết. Tôi viết đến chi tiết Harry nhắc nhở chúng tôi rằng, mặc dù đã đưa được John quay về trại giam mà không bị phát hiện, vẫn còn Percy đang chờ chúng tôi. “Buổi tối chưa kết thúc chừng nào còn phải đấu đá với hắn” dù ít dù nhiều, là những gì Harry đã nói.
Chi tiết đó là nơi mà cả một ngày dài lái cây bút của bố tôi, sau cùng đã bắt kịp tôi. Tôi đặt bút xuống - chỉ vài giây thôi, tôi nghĩ, để có thể co giãn ngón tay lấy lại sức sống - rồi tựa trán vào tay, nhắm mắt lại, thư giãn. Khi mở mắt ra và ngẩng đầu lên, nắng sáng đã trừng trừng nhìn tôi qua cửa sổ. Tôi nhìn đồng hồ thấy đã hơn tám giờ. Tôi đã ngủ, đầu gục lên cánh tay như một lão già say rượu, trong cái hẳn là sáu tiếng đồng hồ. Tôi đứng lên, nhăn mặt, gắng gượng vươn người lấy sức. Tôi nghĩ đến việc xuống nhà bếp, lấy một khoanh bánh mì nướng và đi dạo, nhưng rồi tôi nhìn xuống mớ trang giấy nguệch ngoạc, vương vãi khắp mặt bàn. Đột nhiên tôi quyết định hoãn cuộc đi dạo. Tôi có việc vặt phải làm, vâng, nhưng nó có thể đợi, và sáng hôm ấy tôi không thích thú chơi trò trốn-tìm với Brad Dolan.
Thay vì đi dạo, tôi sẽ hoàn tất tập truyện. Đôi khi thúc đẩy cho xong việc vẫn tốt hơn, dù tâm trí và thể xác của bạn có phản đối. Đôi khi đấy là cách duy nhất để vượt qua, Và điều tôi nhớ đến nhất vào sáng hôm ấy, là tôi thèm muốn thoát khỏi bóng ma đeo đẳng John Coffey biết bao.
- Được rồi. - Tôi nói. - Một dặm nữa. Nhưng trước hết...
Tôi đi đến phòng vệ sinh ở cuối hành lang tầng hai. Trong lúc đứng tè ở đấy, tôi vô tình nhìn lên máy dò khói gắn trên trần. Nó làm tôi nghĩ đến Elaine và cách bà ấy đã đánh lạc hướng Dolan, để tôi có thể đi dạo và làm việc vặt của mình vào ngày hôm kia. Tôi hoàn tất công việc bài viết của mình với một nụ cười trên gương mặt.
Tôi bước trở về phòng sưởi nắng, cảm thấy khỏe khoắn hơn. Người nào đó, Elaine, không nghi ngờ gì nữa, đã đặt một bình trà bên những trang viết của tôi. Tôi tham lam uống một tách, rồi một tách nữa, thậm chí chưa kịp ngồi xuống. Rồi khôi phục lại chỗ ngồi, rút nắp bút ra và một lần nữa bắt đầu viết.
Tôi chỉ vừa đắm mình vào trong câu chuyện của mình thì một bóng đen trùm lấy tôi. Tôi ngước lên và cảm thấy dạ dày hụt hẫng. Gã Dolan đang đứng giữa tôi và cửa sổ. Gã toét miệng cười.
- Không thấy ông di dạo buổi sáng, Paulie à. - Gã lên tiếng. - Vì vậy tôi nghĩ mình sẽ đến xem ông làm gì. Để biết chắc ông không bệnh, ông biết mà.
- Anh rộng lượng quá đấy. - Tôi nói. Giọng tôi nói nghe bình thường - tuy xa vắng - nhưng tim tôi đập mạnh. Tôi sợ gã và tôi nghĩ nhận thức đó không hoàn toàn mới. Gã khiến tôi nhớ lại Percy Wetmore, gã này thì tôi chưa bao giờ sợ... nhưng khi biết Percy tôi còn trẻ.
Nụ cười của Brad nở toác ra nhưng không kém phần khó chịu.
- Paulie, người ta bảo ông đã ở đây suốt đêm để viết báo cáo. Nào, điều đó là không tốt. Bọn già các ông cần nghỉ ngơi để giữ sắc đẹp.
- Percy... tôi dợm nói nhưng nhìn thấy một nét nhăn nhó lấn át nụ cười và chợt nhận ra sai lầm. Tôi hít một hơi dài, bắt đầu nói lại. - Brad, anh có điều gì chống lại tôi?
Gã có vẻ bối rối trong một thoáng, có lẽ hơi do dự. Rồi nụ cười lại xuất hiện
- Lão làng ạ. - Gã nói. - Có thể tôi không ưa bộ mặt của ông. Dù sao thì ông viết gì vậy? Di chúc ư?
Gã bước tới trước, vươn cổ ra. Tôi chặn tay lên trang giấy đang viết, tay kia gom góp phần còn lại. Trong lúc vội vã nhét vào dưới cánh tay và tờ bìa, tôi đã làm nhàu một số trang.
- Nào... - Gã nói như thể với một đứa trẻ. - Làm vậy không ăn thua gì đâu, lão già cưng ơi. Nếu Brad này muốn xem thì Brad này sẽ xem. Và lão có thể đem nó đến bờ sông chết tiệt.
Bàn tay gã, trẻ trung và mạnh mẽ đáng sợ, quặp lấy cổ tay tôi và bóp mạnh. Cơn đau tràn vào tay tôi như đau răng khiến tôi rên lên.
- Bỏ tay tôi ra. - Tôi cố gắng lên tiếng.
- Chỉ khi nào lão cho tôi xem. - Gã đáp lại, không cười nữa. Thế nhưng bộ mặt gã lại vui vẻ, thứ vui vẻ mà bạn chỉ thấy được trên bộ mặt những kẻ thích sự độc ác. - Đưa tôi xem, Paulie. Tôi muốn biết lão viết gì. - Bàn tay tôi bắt đầu rời khỏi trang giấy đầu. Từ chuyên về của chúng tôi với John qua đường hầm dưới mặt lộ. - Tôi muốn biết có liên can gì đến nơi lão…
- Để cho ông ấy yên.
Giọng nói như tiếng roi quất đanh gọn vào một ngày khô ráo, nóng bức... và với kiểu cách nhảy dựng lẽn của Brad Dolan, bạn sẽ nghi cái mông gã chính là mực tiêu của ngọn roi. Gã buông tay tôi rơi phịch xuống tập giấy viết và cả hai cùng nhìn ra cửa.
Elaine Connelly đang đứng ở đấy, dáng vẻ tươi mát và mạnh mẽ hơn bao giờ. Bà ấy mặc quần jean làm nổi bật cặp hông thon và đôi chân dài, tóc buộc dải xanh. Bà bưng một cái khay trên đôi bàn tay bị viêm khớp - nước quả, trứng, bánh mì nướng, nước trà. Mắt bà tóe lửa.
- Bà nghĩ bà đang làm gì vậy? - Brad hỏi. - Ông ta không được ăn uống ở đây.
- Ông ấy có thể và ông ấy sẽ ăn. - Bà trả lời cũng với âm sắc khô khan đầy uy quyền. Tôi chưa bao giờ nghe như thế nhưng giờ đây tôi rất hoan nghênh. Tôi tìm kiếm sự sợ hãi trong mắt bà và không mảy may thấy - chỉ có cơn phẫn nộ. - Và điều cậu sẽ làm là ra khỏi đây trước khi mức độ gây phiền hà của một con gián như cậu vượt lên mức của một thứ kí sinh hơi to hơn - Rattus Americanus chẳng hạn.
Gã tiến về phía bà một bước, nhìn cả hai chúng tôi, vẻ mất tự tin và hoàn toàn giận dữ. Tôi nghĩ đấy là một sự kết hợp đầy nguy hiểm nhưng Elaine không nao núng một li khi gã đến gần.
Chắc chắn tôi biết kẻ nào đã kích hoạt máy dò khói. - Dolan dọa. - Có thể là một con chó cái già có móng vuốt thay cho bàn tay. Bây giờ bà cút ra khỏi đây. Tôi và Paulie nói chuyện chưa xong.
- Tên ông ấy là ông Edgecombe. - Bà nói. - Và nếu còn nghe cậu gọi ông ấy là Paulie nữa, tôi nghĩ có thể hứa với cậu là những ngày làm việc ở Georgia Pines này sẽ chấm dứt, cậu Dolan ạ.
- Bà nghĩ bà là ai? - Gã hỏi Elaine. Gã đang áp đảo bà, gắng gượng cười nhưng cười không nổi.
- Tôi nghĩ... Bà bình thản trả lời. - Tôi là bà nội của người là Phát ngôn viên Hạ viện Georgia. Một con người biết yêu thương những người họ hàng, cậu Dolan ạ. Đặc biệt là những họ hàng cao tuổi.
Nụ cười gượng rơi tuột khỏi bộ mặt gã theo cách chữ viết rơi ra khỏi tấm bảng đen vì một miếng giẻ ướt. Tôi thấy vẻ do dự, khả năng gã bị bịp, nỗi sợ gã không mắc bẫy, và một giả thiết hợp lí hình thành: bà ấy phải biết rằng việc kiểm chứng lời hù dọa rất dễ dàng, vậy có nghĩa bà ấy đang nói sự thật.
Đột nhiên tôi bật cười và mặc dù tiếng cười bị khàn nhưng đúng lúc. Tôi đang nhớ lại bao nhiêu lần Percy Wetmore đã hù dọa chúng tôi bằng thế lực của hắn, vào những ngày xa xưa. Bây giờ, lần đầu tiên trong cuộc đời dài, dài lê thê của tôi, một lời hù dọa như thế lại được tung ra, nhưng lần này là để bênh vực tôi.
Brad Dolan nhìn tôi, trừng mắt, rồi nhìn lại bà.
- Tôi nói thật đấy. - Elaine bảo gã. - Lúc đầu tôi nghĩ sẽ bỏ qua cho cậu - tôi già rồi, như thế có vẻ dễ dàng nhất. Nhưng khi bạn bè tôi bị đe dọa và ngược đãi, tôi không bỏ qua. Giờ thì cậu ra khỏi đây ngay. Và chớ nói thêm lời nào nữa.
Môi gã nhúc nhích như môi cá - ô, gã khao khát được nói thêm một lời nữa biết bao (có lẽ một từ vần với phù thủy). Thế nhưng gã không nói. Gã ném cho tôi một cú nhìn cuối cùng rồi sải chân bước qua bà ấy, ra ngoài hành lang.
Tôi thở ra một hơi dài, rời rạc khi Elaine đặt khay xuống trước mặt tôi, tự ngồi xuống đối diện.
- Cháu của cô thật sự là Phát ngôn viên Hạ viện chứ?
- Thật.
- Vậy cô làm gì ở đây?
- Phát ngôn viên Hạ viện khiến nó có đủ quyền lực để trị một con gián như Brad Dolan nhưng không làm cho nó giàu có, bà tươi cười nói. - Vả lại, tôi thích ở đây. Tôi thích có bạn bè.
- Tôi xem đấy là một lời khen. - Tôi thực lòng đáp lại.
- Paul, anh ổn không? Trông anh quá mệt mỏi. - Bà vươn tay qua bàn, gạt lọn tóc rũ xuống trán và lông mày. Những ngón tay của bà đã méo mó nhưng làn da thì tươi mát, tuyệt vời. Trong thoáng chốc tôi nhắm mắt lại. Khi mở ra, tôi đã có một quyết định.
- Tôi không sao. - Tôi nói. - Và hầu như sắp viết xong. Elaine, cô sẽ đọc chứ? - Tôi đưa cho bà những trang giấy mà tôi đã gom góp một cách vụng về. Chúng không còn theo đúng thứ tự - Dolan thật sự đã làm tôi sợ - nhưng đã được đánh số và bà nhanh chóng sắp lại cho đúng.
Elaine nhìn tôi cân nhắc, không cầm lấy vật tôi đưa. Bà nhìn tôi:
Anh mệt rồi?
- Cô sẽ mất thời gian đến tận buổi trưa để đọc những gì đã có. - Tôi nói. - Nghĩa là nếu cô có thể nhận ra mặt chữ.
Bây giờ bà mới thật sự cầm lấy những trang giấy và nhìn xuống.
- Chữ anh rất đẹp, mặc dù thấy rõ là tay anh đã mệt mỏi
- Bà nhận xét. - Em sẽ đọc không khó.
- Khi cô đọc xong thì tôi cùng sẽ viết xong. - Tôi nói. - Cô có thể đọc phần còn lại sau nửa giờ nữa. Sau đó... nếu cô còn sẵn lòng... tôi muốn cho cô xem một thứ.
- Có liên quan đến việc anh ra ngoài hầu hết các buổi sáng và chiều không?
Tôi gật đầu.
Bà ấy ngồi suy nghĩ trong một khoảng thời gian dài rồi gật đầu, đứng lên với những trang giấy trong tay.
- Em trở ra ngoài. - Bà nói. - Sáng nay có nắng ấm.
- Và con rồng đã bị khuất phục. - Tôi đùa. - Lần này bởi giai nhân xinh đẹp.
Bà mỉm cười, cúi xuống hôn tôi vào phía trên lông mày, nơi nhạy cảm vốn luôn luôn khiến tôi rùng mình.
- Chúng ta hi vọng thế. - Bà đáp lời. - Nhưng theo kinh nghiệm của em, những con rồng như Brad Dolan thật khó mà loại trừ. - Bà ngập ngừng. - Paul, chúc may mắn. Em hi vọng anh sẽ khuất phục được bất cứ điều gì đang gây ung nhọt trong anh.
- Tôi cũng hi vọng thế. - Tôi đáp và nghĩ đến John Coffey. Tôi không làm gì được, John đã nói. Tôi cố gắng nhưng đã quá muộn.
Tôi ăn món trứng bà mang đến cho tôi, uống nước quả, bỏ bánh mì nướng sang một bên để ăn sau. Rồi tôi cầm bút lên và bắt đầu viết lại cho điều mà tôi hi vọng sẽ là lần cuối cùng.
Một dặm đường cuối cùng.
Một dặm đường xanh.