Dặm Xanh

Chương 30

Docsach24.com
gười phụ nữ trong phòng, đầu dựa vào vách giường và trân trối nhìn gã khổng lồ bước vào tầm nhìn lẫn lộn, không giống chút vào với Melly Moores, người tôi đã quen biết trong hai mươi năm; thậm chí nhìn bà không giống Melly Moores mà Janice và tôi đã thăm viếng không lâu trước khi xử tử Delacroix. Người phụ nữ trên chiếc giường đó có dáng vẻ của một đứa trẻ bệnh hoạn, thức dậy thành mụ phù thủy Halloween. Làn da thâm tím lõng bõng nhão nhoẹt, đầy nếp nhăn, dúm dó quanh mắt về bên phải, như thể bà đang cố nháy mắt. Khóe miệng phải của bà cũng trễ xuống; một cái răng vàng khè cũ kỹ thòi ra trên chiếc môi dưới của người đau gan. Tóc bà là một đám sương mù mỏng tanh, rối nùi quang sọ. Căn phòng sặc mùi tanh tưởi của thứ mà chúng ta bài tiết ra với vẻ lịch thiệp khi mọi việc đều suôn sẻ. Cái bô để bên giường đầy một nửa chất vàng nhớp nháp ghê người. Lòng hoảng hốt, tôi nghĩ nói gì thì chúng tôi cũng đã đến quá trễ. Chỉ còn là vấn đề thời gian kể từ khi còn nhận ra bà ấy - bệnh hoạn những vẫn là chính bà. Kể từ lúc ấy, cái vật trong đầu bà hẳn đã di chuyển với vận tốc khủng khiếp để củng cố vị thế của nó. Tôi nghĩ bây giờ ngay cả John Coffey cũng không cứu nổi bà ấy.

 

Nét mặt biểu lộ của bà khi Coffey bước vào là một nét sợ hãi và kinh hoàng - như thể thứ gì đó bên trong cơ thể bà đã nhận ra vị bác sĩ có khả năng tìm ra và rốt cuộc sẽ trị tội nó... rắc muối lên nó theo cách ta làm với một con đỉa để buộc nó nhả ra. Hãy cẩn thận nghe tôi nói: tôi không nói rằng Melly Moores bị ma ám và tôi biết rằng khi bị kích động, tất cả những nhận thức về cái đêm ấy rất đáng ngờ. Nhưng tôi cũng chưa bao giờ coi nhẹ khả năng bị ma ám. Có một vẻ gì đó trong mắt bà ấy, nói bạn nghe, điều gì đó nhìn giống như sự sợ hãi. Về điều này bạn có thể tin tôi; đó là một cảm xúc mà tôi đã thấy quá nhiều, không thể lầm lẫn.

Dù là gì thì nó đã nhanh chóng biến mất, nhường chỗ cho một vẻ quan tâm sống động không hợp lý. Cái miệng không nói nổi thành lởi run rẩy trong cái có lẽ là một nụ cười.

- Ồ, to lớn quá! - Bà kêu lên. Giọng bà nghe như của một bé gái vừa qua khỏi cơn viêm họng nặng. Bà rút đôi bàn tay - cũng trắng bệch như gương mặt - ra khỏi khăn trải giường, vỗ vào nhau. - Tuột quần xuống! Ta đã nghe nói về cái của nỡm da đen nhưng chưa bao giờ thấy!

Sau lưng tôi, Moores khẽ rên lên một tiếng đầy tuyệt vọng.

John Coffey không để ý đến bất cứ sự kiện nào. Sau khi đứng yên một lúc như để quan sát bà ấy từ một khoảng cách, gã tiến đến cạnh chiếc giường, vốn được chiếu sáng bằng một ngọn đèn ngủ. Ngọn đèn ném ra một vòng ánh sáng trên tấm vải trải giường màu trắng kéo đến tận ngực áo ngủ của bà. Phía bên kia giường, trong bóng tối, tôi nhìn thấy chiếc ghế dài thuộc về phòng khách. Một mẫu thêu mà Melly đã tự tay thêu vào những ngày hạnh phúc nửa nằm trên ghế, nửa trên sàn nhà. Trên chiếc ghế đó Hal đã ngủ - ít nhất là thiếp ngủ - khi chúng tôi đến.

Trong lúc John đến gần, nét biểu lộ của bà chịu một thay đổi thứ ba. Đột nhiên tôi nhìn thấy Melly, mà lòng tử tế đã rất ý nghĩa với tôi qua nhiều năm, thậm chí dành nhiều hơn nữa cho Janice sau khi con cái bay khỏi tổ ấm, bỏ lại mẹ chúng cô đơn, vô dụng và buồn bã. Melly vẫn quan tâm nhưng lần nảy tỏ vẻ lành mạnh và hiểu biết.

- Anh là ai? - Bà hỏi bằng một giọng trong trẻo, hợp lý. - Tại sao có quá nhiều sẹo trên tay anh? Ai đã gây thương tích nặng nề cho anh như thế?

- Thưa bà, tôi khó lòng nhớ chúng từ đâu mà ra. - John Coffey khiêm tốn trả lời và ngồi lên giường bên cạnh bà.

Melinda mỉm cười hết sức có thể, khóe miệng nhạo báng bên phải run rẩy nhưng không nhếch lên nhiều được. Bà sờ vào một vết sẹo trắng trên mu bàn tay trái của gã, cong như thanh mã tấu.

- Quả là một phúc lành! Anh hiểu tại sao không?

- Tôi thấy rằng nếu không biết ai gây thương tổn hoặc đè nén mình thì chúng ta sẽ không mất ngủ. - John Coffey nói bằng giọng gần như người miền Nam của mình.

Bà bật cười trước câu nói đó, giọng thuần khiết như bạc trong căn phòng bệnh hôi hám. Hal đang ở bên cạnh tôi, thở gấp nhưng không tìm cách can thiệp. Khi Melly cười, hơi thở gấp của ông ấy ngừng lại một thoáng, một bàn tay to lớn bóp chặt lấy vai tôi. Ông bóp mạnh đủ để lại một vết thâm tím - hôm sau tôi nhìn thấy nó - nhưng ngay lúc ấy hầu như tôi không có cảm giác gì.

- Anh tên gì? - Bà hỏi.

- John Coffey, thưa bà.

- Coffey như thứ nước uống.

- Vâng, thưa bà, có điều viết chính tả thì khác.

Bà tựa trở lại vào gối, nhổm người lên nhưng không ngồi hẳn và nhìn gã. Gã ngồi bên cạnh bà, nhìn trả lại, vầng sáng phát ra từ ngọn đèn quây lấy họ như những diễn viên trên sân khấu - gã da đen đồ sộ trong bộ quần áo tù và người phụ nữ da trắng nhỏ nhắn đang chết dần. Bà nhìn trân trối vào mắt John, vẻ mê hoặc sáng rỡ.

- Thưa bà?

- Vâng, John Coffey? - Những lời lẽ thì thầm, khó đến tai chúng tôi trong làn không khí hôi hám. Tôi cảm thấy cơ bắp tứ chi và lưng co cụm lại. Ở nơi nào đó rất xa, tôi cảm nhận viên Giám thị đang bóp chặt tay tôi, phía bên tầm nhìn của tôi là Har và Brutal vòng tay ôm nhau, giống những đứa trẻ lạc đường trong đêm tối. Một sự kiện gì đó sắp xảy ra. Một sự kiện lớn lao. Từng người chúng tôi cảm nhận được nó theo cách riêng của mình.

John Coffey cúi xuống gần bà ấy hơn. Lò xo giường kêu cót két, vải trải giường sột soạt, ánh trăng mỉm cười lạnh lẽo tỏa vào trong qua ô kính trên cửa sổ phòng ngủ. Đôi mắt vằn máu của Coffey thăm dò gương mặt hốc hác ngửa lên của bà.

- Ta thấy nó rồi. - Gã lên tiếng. Không phải nói với bà ấy - dù gì tôi cũng nghĩ thế - nhưng lại với chính gã. - Ta thấy nó và ta có thể giúp. Nằm yên... nằm thật yên...

Gã cúi gần hơn, gần hơn nữa. Trong thoáng chốc, khuôn mặt to tướng của gã dừng lại cách mặt bà không đầy 2 inch. Gã giơ một bàn tay sang bên, ngón tay xòe ra như thể bảo cái gì đó hãy chờ... cứ chờ... rồi gã lại cúi mặt xuống. Đôi môi rộng, trơn tru của gã ép sát vào môi bà, buộc chúng mở ra. Trong khoảnh khắc, tôi thấy một con mắt của bà nhìn trừng trừng qua Coffey, đầy ắp một biểu hiện của cái dường như là nỗi ngạc nhiên. Rồi cái đầu trơn bóng của gã động đậy và điều đó cũng biến mất.

Có một tiếng huýt gió khẽ khàng khi gã hít luồng không khí nằm sâu trong phổi bà. Điều dó diễn ra trong một, hai giây, thế rồi sàn nhà chuyển động dưới chân chúng tôi và toàn bộ ngôi nhà quay tròn quanh chúng tôi. Không phải tôi tưởng tượng, tất cả họ đều cảm nhận sự kiện, tất cả đều xác nhận điều đó sau này. Đấy là một thứ âm thanh rầm rì. Có tiếng rơi vỡ khi một vật gì đó rất nặng ngã đổ trong phòng khách - hóa ra là chiếc đồng hồ cổ. Hal cố gắng cho sửa chữa nhưng nó không bao giờ chạy được quá mười lăm phút nữa.

Ở vị trí gần hơn là một tiếng nứt, theo sau là tiếng lanh canh của ô kính cửa sổ mà mặt trăng đã nhìn trộm vào phòng bị vỡ. Một bức tranh trên tường - một chiếc tàu thủy cao tốc chu du trên một trong bảy đại dương - rơi khỏi móc treo, đập xuống sàn nhà, mặt kính vỡ nát.

Tôi ngửi được mùi gì đó nóng rẫy và nhìn thấy khói bốc lên từ bên dưới tấm trải giường màu trắng bà đang đắp. Một phần tấm trải đang hóa màu đen ở khối u cục cựa vốn là chân phải của bà. Có cảm giác như người đang nằm mơ, tôi giật tay Moores ra và bước đến bàn ngủ. Trên đấy là một li nước, chung quanh có ba hoặc bốn chai thuốc viên đã lật nhào trong cơn chấn động. Tôi nhặt li nước lên, dội vào chỗ đang bốc khói. Có một tiếng xèo xèo.

John Coffey tiếp tục hôn bà ấy một cách sâu lắng và thân mật, một bàn tay vẫn chìa ra, bàn tay kia đặt trên giường, chống đỡ sức nặng bao la của gã. Những ngón tay xòe ra, tôi thấy giống như một con sao biển màu nâu.

Đột nhiên lưng bà ấy ưỡn lên. Một trong hai bàn tay của bà quật vào không khí, các ngón tay quặp vào, duỗi ra trong một cơn co thắt. Chân bà đạp mạnh lên giường. Rồi một thứ gì đó gào lên. Một lần nữa, không chỉ mình tôi, những người khác cũng nghe được. Đối với Brutal, âm thanh đó nghe như tiếng chó sói hoặc sói đồng cỏ bị mắc chân vào bẫy. Đối với tôi thì nghe như tiếng chim đại bàng, theo cách thỉnh thoảng bạn nghe được chúng vào những buổi sáng êm ả thời đó, khi chúng đang tung cánh bổ nhào qua những mỏm núi đầy sương.

Bên ngoài gió nổi cơn đủ mạnh để lay động ngôi nhà một lần thứ hai - một điều kỳ lạ vì, bạn biết đấy, cho đến lúc ấy vẫn chưa có chút gió nào để nói đến.

John Coffey dứt ra khỏi bà ấy và tôi thấy gương mặt bà đã mịn màng. Khóe miệng bên phải không còn trễ xuống nữa. Mắt bà đã lấy lại hình dạng bình thường, nhìn trẻ ra mười tuổi. Gã say đắm nhìn bà trong một thoáng rồi gã bắt đầu ho. Gã quay đầu sang một bên để không ho vào mặt bà, mất thăng bằng (điều này không nặng nề; to xác như gã mà đã ngồi nửa mông thò ra khỏi cạnh giường) và ngã vật xuống sàn nhà. Gã đủ nặng để làm rung chuyển ngôi nhà lần thứ ba. Gã quỳ trên đầu gối, đầu thò ra, ho rũ rượi như người mắc bệnh lao phổi thời kỳ cuối.

Tôi nghĩ, bây giờ đến lượt những con bọ đây. Gã sẽ ho bật chúng ra, lần nảy là cả một bầy nhung nhúc.

Nhưng gã đã không làm thế. Gã tiếp tục ho thành những tiếng sủa nôn mửa sâu, gần như không ngưng nghỉ giữa những đợt ho để hít vào làn khí trời tiếp theo. Làn da đen nâu chocolate hóa xám ngoét. Thấy có nguy biến, Brutal đến bên gã, quỳ một gối bên cạnh và choàng tay qua tấm lưng rộng đang co quắp. Như thể bừng tỉnh khỏi cơn mê muội vì hành động của Brutal, Moores bước đến bên giường vợ, ngồi xuống nơi Coffey đã ngồi. Dường như ông ấy không hề nhận thấy sự hiện diện của gã khổng lồ đang ho hen, nghẹn thở. Mặc dù Coffey đang quỳ sát bên chân mình, Moores chỉ để tâm trí vào vợ, người đang nhìn ông với vẻ sững sờ. Nhìn bà ấy giống như nhìn vào một tấm gương bẩn đã được lau sạch.

- John! - Brutal la to. - Nôn ra! Nôn ra như anh đã làm lần trước!

John tiếp tục sủa ra những tiếng ho tắc nghẹn. Mắt gã ướt, không phải vì nước mắt mà vì quá sức. Nước dãi bắn ra khỏi miệng gã thành một chùm tia mịn nhưng không có gì khác được nhả ra.

Brutal đập mạnh vào lưng gã vài lần rồi nhìn quanh quất tìm tôi.

- Gã nghẹn thở! Gã đang nghẹn thở vì bất cứ thứ gì đã hút ra khỏi người bà ấy!

Tôi tiến lên phía trước. Trước khi tôi kịp đi được hai bước, John lết bằng đầu gối tránh khỏi tôi, lết vào góc phòng, vẫn ho rũ rượi và hít mạnh từng hơi. Gã tựa trán vào giấy dán tường - những đóa hồng dại màu đỏ tràn ngập một bức tường trong vườn và phát ra một tiếng chặt mạnh ghê rợn, như thể gã đang cố nôn ra lớp vải lót ngực của chính gã. Tôi nhớ đã nghĩ rằng như thế sẽ nôn ra những con bọ nhưng không có dấu hiệu nào của chúng. Tuy thế cơn ho của gã có vẻ dịu xuống một chút.

- Tôi không sao, sếp. - Gã lên tiếng, vẫn tựa trán vào những đóa hồng dại màu đỏ. Mắt gã tiếp tục nhắm. Tôi không biết chắc tại sao gã biết tôi có đó, nhưng rõ ràng gã biết. - Thật tình tôi không sao. Hãy lo cho quý bà.

Tôi ngờ vực nhìn gã rồi quay về phía giường. Hal đang vuốt lông mày của Melly và tôi thấy một điều kỳ diệu bên trên đó: một số tóc của bà ấy - không nhiều, nhưng một số - đã đen trở lại.

- Chuyện gì xảy ra? - Bà hỏi chồng. Trong lúc tôi quan sát, sắc hồng đã ửng trên gò má bà ấy. Dường như bà đã lấy cắp hai đóa hồng ra khỏi tờ giấy dán tường. - Sao em lại ở đây? Chúng ta đang trên đường đến bệnh viện ở Indianola, phải không? Bác sĩ sẽ bắn tia X vào đầu em và chụp ảnh não bộ của em mà.

- Suỵt. - Hal trả lời. - Suỵt, em yêu, chuyện đó bây giờ không cần nữa.

- Nhưng em không hiểu! - Bà gần như van nài. - Chúng ta dừng lại tại một quầy hàng bên đường... anh đã mua cho em một bó hoa giá mười xu... thế rồi... em ở đây. Tối quá! Anh ăn tối chưa, Hal? Tại sao em lại ở trong phòng dành cho khách? Em đã chụp X-quang chưa? - Ánh mắt bà lướt qua Har gần như không thấy anh ta - tôi cho là do cơn sốc - và gắn chặt vào tôi. - Paul? Tôi chụp X-quang chưa?

- Rồi. - Tôi đáp. - Trong sáng.

- Họ không tìm thấy khối u?

- Không. - Tôi nói. - Họ nói những cơn nhức đầu có lẽ sẽ chấm dứt.

Bên cạnh bà, Hal bật khóc.

Bà ngồi chồm ra trước, hôn thái dương chồng. Rồi ánh mắt bà hướng về góc nhà.

- Người da đen đó là ai? Tại sao anh ta lại chui vào góc nhà?

Tôi quay lại thấy John đang cố gắng đứng dậy. Brutal giúp gã và John đứng lên được trong cú tấn công cuối cùng. Tuy nhiên gã đứng quay mặt vào tường như một đứa trẻ phạm lỗi bị phạt. Gã vẫn còn ho hen với những cơn co thắt nhưng chúng có vẻ đang dịu đi.

- John. - Tôi nói. - Quay lại đi, Bự Con, hãy nhìn quý bà này.

Gã chậm chạp quay lại. Gương mặt gã vẫn còn sắc xám tro, nhìn gã già đi mười tuổi, như thể một con người mạnh mẽ sau cùng đã thua một trận chiến lâu dài trước sự tàn phá. Mắt gã nhìn xuống đôi dép nhà tù, nhìn gã như đang mong có một chiếc nón để vặn vẹo.

- Anh là ai? - Bà ấy hỏi lần nữa. - Anh tên gì?

- John Coffey, thưa bà. - Gã nói và bà đáp lại ngay. - Nhưng không đánh vần giống như thứ nước uống.

Hal cựa quậy bên cạnh vợ. Bà cảm nhận, vỗ vào tay ông kinh ngạc. - Tôi mơ thấy anh lang thang trong bóng tối và tôi cũng thế. Chúng ta gặp nhau.

John Coffey không nói gì.

- Chúng ra gặp nhau trong bóng tối. - Bà nói. - Đứng dậy đi Hal. Anh dồn em kẹt cứng trong này.

Ông đứng lên và nhìn bà dở tấm vải đắp với vẻ nghi hoặc.

- Melly, em không thể...

- Đừng dở hơi. - Bà đáp lại và tung chân ra. - Dĩ nhiên em có thể. - Bà vuốt lại nếp áo ngủ, vươn vai rồi đứng dậy.

- Lạy Chúa. - Hal thì thào. - Chúa kính yêu trên Trời của con, nhìn bà ấy kìa.

Bà tiến đến John Coffey. Brutal đứng cách xa, nét kính sợ hiện trên mặt. Bà khập khiễng trong bước đi đầu tiên, không làm gì hơn ngoài sự ưu ái cho chân phải trong bước thứ hai, nhưng rồi điều đó cũng tan biến. Tôi nhớ lại Brutal đưa cái ống chỉ màu mè cho Delacroix và nói:

- Ném đi - tôi muốn xem nó chạy ra sao. - Lúc ấy ông Jingles đã khập khiễng nhưng vào đêm sau, đêm Delacroix bước trên Dặm Đường Xanh, con chuột hoàn toàn bình thường.

Melly vòng tay quanh người John, ôm chặt gã. Coffey đứng đó một lúc, để yên cho bà ôm, sau đó gã giơ một tay lên vuốt đỉnh đầu bà. Gã làm như thế với một vẻ dịu dàng vô tận. Khuôn mặt gã vẫn còn xám xịt. Tôi nghĩ nhìn gã thật bệnh hoạn khủng khiếp.

Bà ấy đứng lùi ra, ngửng lên trước mặt gã.

- Cảm ơn anh.

- Có gì đâu, thưa bà.

Bà quay về phía Hal và bước đến chỗ ông ấy. Ông quàng tay ôm bà.

- Paul. - Har gọi. Anh ta chìa cổ tay phải cho tôi nhìn, vỗ vào mặt đồng hồ. Sắp đến ba giờ. Trời sẽ bắt đầu sáng vào bốn giờ ba mươi phút. Nếu muốn đưa Coffey kịp trở lại Cold Mountain trước đó, chúng tôi phải đi sớm. Và tôi muốn đưa gã trở về. Một phần vì chuyện này còn kéo dài thì cơ hội thoát hiểm càng ít đi, vâng, tất nhiên. Nhưng tôi cũng muốn John ở nơi mà tôi có thể gọi bác sĩ khám bệnh cho gã một cách hợp pháp, nếu cần. Nhìn gã, tôi nghĩ có lẽ cần thật.

Vợ chồng Moores ngồi trên thành giường, vòng tay ôm nhau. Tôi định yêu cầu Hal ra phòng khách để nói riêng một lời, rồi nhận thấy có hỏi đến khi bò về chuồng ông ấy cũng không nhúc nhích khỏi chỗ của mình. Có thể ông ấy sẽ rời mắt khỏi bà ấy - ít nhất cũng trong vài giây - khi mặt trời lên nhưng giờ thì không.

- Hal. - Tôi nói. - Chúng tôi phải về.

Ông ấy gật đầu, không nhìn tôi. Ông đang mải quan sát sắc diện trên má, đường cong tự nhiên của môi và màu đen mới trên tóc vợ mình.

Tôi vỗ vai ông, đủ mạnh để lôi kéo sự chú ý, ít nhất là một lúc.

- Hal, chúng tôi chưa bao giờ đến đây.

- Cái gì?

- Chúng tôi chưa bao giờ đến đây. - Tôi trả lời. - Chúng ta sẽ nói chuyện sau, bây giờ ông chỉ cần biết như vậy. Chúng tôi chưa bao giờ đến đây.

- Vâng, được rồi... - Ông cố buộc bản thân tập trung vào tôi bằng một thứ rõ rệt là một nỗ lực. - Anh đã đem gã ra ngoài. Anh có thể đưa gã trở vào trong chứ?

- Tôi nghĩ được. Có thể. Nhưng chúng tôi phải đi.

- Sao anh biết gã làm được như thế này? - Rồi ông lắc đầu, như thể tự xác nhận rằng câu hỏi đặt ra chưa đúng lúc. - Paul... cảm ơn anh.

- Đừng cảm ơn tôi. - Tôi từ chối. - Hãy cảm ơn John.

Ông nhìn John Coffey rồi chìa tay ra giống như tôi đã làm vào ngày Har và Percy áp giải John đến Khu.

- Cảm ơn anh. Cảm ơn rất nhiều.

John nhìn bàn tay. Brutal thúc một cú-không-thể-tế-nhị-cho-lắm vào sườn gã. John giật mình, nắm lấy bàn tay Hal và lắc. Lên, xuống, trở lại giữa, buông ra.

- Có gì đâu. - Gã đáp lại, giọng khàn khàn. Tôi nghe giống như Melly khi bà ấy chắp tay lại và bảo John tụt quần xuống. - Có gì đâu. - Gã nói với người mà trong diễn biến bình thường của sự kiện, sẽ cầm lên một cây bút bằng bàn tay đó và kí lệnh xử tử John Coffey.

Har vỗ vào mặt đồng hồ lần nữa, lần này tỏ ra khẩn cấp hơn.

- Brute? - Tôi hỏi. - Sẵn sàng chưa?

- Chào Brutus. - Milinda vui vẻ cất tiếng, như thể nhận ra anh ta lần đầu. - Rất vui được gặp chú. Các vị thích uống trà không? Hal, anh thích không? Em có thể pha trà. - Bà lại đứng lên. - Em đã bị bệnh nhưng bây giờ em thấy khỏe. Khỏe hơn bao nhiêu năm trước.

- Cảm ơn, thưa bà Moores, nhưng chúng tôi phải đi. - Brutal đáp. - Đã quá giờ ngủ của John rồi. - Anh ta mỉm cười để tỏ ý nói đùa nhưng tôi cũng cảm thấy lo âu như ánh mắt anh ta nhìn John.

- À, nếu mọi người chắc chắn...

- Vâng, thưa bà. Đi thôi, John Coffey. - Anh ta giật tay John thúc giục và John bước đi.

- Đợi đã! - Melinda vùng ra khỏi tay Hal, nhanh nhẹn như một bé gái chạy đến chỗ John đang đứng. Bà quàng tay ôm lấy gã và xiết chặt một lần nữa. Sau đó bà đưa tay lên gáy, tháo sợi dây chuyền mịn ra khỏi áo lót. Ở đầu sợi dây là mặt mề đay bằng bạc. Bà đưa nó cho John, gã nhìn mà tỏ vẻ không hiểu.

- Thánh Christopher đấy. - Bà nói. - Tôi muốn anh lấy nó mà đeo, anh Coffey ạ. Ngài sẽ bảo vệ anh. Làm ơn đeo đi. Hãy vì tôi.

John nhìn tôi, bối rối và tôi nhìn Hal. Ông xòe tay ra, sau đó gật đầu.

John cầm lấy sợi dây chuyền, đeo quanh cái cổ to bè của gã, đút mặt mề đay có thánh Christopher vào ngực áo. Lúc này gã đã hoàn toàn ngừng ho nhưng có vẻ xám ngoét và bệnh hoạn hơn bao giờ hết.

- Cảm ơn bà. - Gã lên tiếng.

- Không. - Bà đáp lời. - Cảm ơn anh. Cảm ơn anh, John Coffey.