Dặm Xanh

Chương 25

Docsach24.com
hà văn H.G.Wells đã có lần viết truyện về một người sáng chế ra cỗ máy thời gian, và tôi phát hiện rằng, khi viết tập hồi kí này, tôi đã sáng chế ra cỗ máy thời gian của riêng mình. Không giống như của Wells, nó chỉ có thể đi ngược về quá khứ - thực tế là trở về năm 1932, khi tôi là đội trưởng đội lính gác Khu E ở Trại Giam Tiểu Bang Cold Mountain - nhưng hiệu quả một cách kì lạ. Tuy thế, cỗ máy thời gian này gợi tôi nhớ đến chiếc xe Ford cũ kĩ của mình vào thời đó: bạn biết chắc rốt cuộc nó sẽ khởi động, nhưng không bao giờ biết một vòng quay chìa khóa có đủ để kích hoạt động cơ chưa, hoặc bạn phải ra khỏi xe và quay maniven cho đến khi tay bạn thực sự rã rời.

 

Tôi có nhiều khởi đầu dễ dàng khi kể lại câu chuyện về John Coffey, nhưng hôm qua đã phải quay maniven. Tôi nghĩ vì mình đã quá đắm chìm trong vụ xử tử Delacroix, và một phần tâm hồn tôi không muốn hồi tưởng lại sự kiện đó. Một cái chết tồi tệ, một cái chết khủng khiếp, và nó đã xảy ra theo cách của nó, bởi vì Percy Wetmore, một thanh niên trẻ thích chải đầu nhưng không chịu nổi sự chế nhạo - kể cả sự chế nhạo của gã người Pháp nhỏ bé hói nửa đầu, kẻ sẽ không bao giờ nhìn thấy lễ Giáng Sinh nữa.

Tuy nhiên, cũng như hầu hết những công việc bẩn thỉu, phần khó khăn nhất là lúc bắt đầu. Một cỗ máy không quan tâm bạn dùng chìa khóa công tắc hay quay maniven, một khi bạn đã khởi động được, thường thường nó sẽ chạy tốt, theo cách này hoặc cách kia. Ngày hôm qua, công việc đã tiến hành với tôi như thế. Lúc đầu, chữ nghĩa xuất hiện thành những cụm từ chưa hoàn chỉnh, rồi thành câu, sau đó là một dòng thác. Tôi phát hiện viết là một dạng hồi tưởng đặc biệt là đáng kinh hãi - nó có một tổng thể gần giống như sự hiếp dâm. Có lẽ tôi chỉ có cảm giác như vậy vì đã trở thành một lão già, nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi tin rằng sự kết hợp giữa bút chì và kí ức tạo ra một loại pháp thuật kì diệu, đầy thiết thực; mà pháp thuật thì nguy hiểm. Là người biết John Coffey và nhìn thấy điều gã có thể làm - cho chuột và cho người - tôi cảm thấy mình đủ tư cách để nói như thế.

Pháp thuật là nguy hiểm.

Dù thế nào thì tôi đã viết suốt ngày hôm qua, từ ngữ cứ đơn giản tuôn trào ra khỏi tâm trí tôi, ngôi nhà kính của trại dưỡng lão vinh quang này biến mất, thay vào đó là căn nhà kho ở cuối Dặm Đường Xanh, nơi quá nhiều những đứa trẻ có vấn đề của tôi ngồi xuống lần cuối cùng và chân cầu thang dẫn xuống đường hầm bên dưới đường đi. Đấy là nơi Dean, Harry, Brutal và tôi chạm trán với Percy Wetmore vì cái xác bốc khói của Eduard Delacroix, và buộc Percy nhắc lại lời hứa nộp đơn xin thuyên chuyển đến bệnh viện tâm thần tiểu bang ở Briar Ridge.

Trong nhà kính luôn luôn có hoa tươi, nhưng trưa hôm qua tôi chỉ ngửi thấy mùi thịt nướng độc hại của người đã chết. Tiếng máy cắt cỏ trên bãi cỏ dưới kia đã bị thay thế bằng tiếng nước nhỏ giọt trống rỗng, chậm rãi rỉ qua mái vòm đường hầm. Chuyến đi tiếp tục. Tôi đã du hành ngược về năm 1932, trong linh hồn và tâm trí, nếu không là trong thể xác.

Tôi bỏ qua bữa trưa, viết đến khoảng bốn giờ gì đó, và sau cùng khi buông bút xuống, tay tôi trở nên đau nhức. Tôi chậm chạp bước đến cuối hành lang tầng hai. Ở đấy có cửa sổ nhìn ra bãi để xe của nhân viên. Gã hộ lí Brad Dolan, kẻ làm tôi nhớ đến Percy - và là kẻ quá sức tò mò, muốn biết tôi đi đâu và làm gì trong những lần đi dạo - lái một chiếc xe Chevrolet cũ, trên cản dán hàng chữ: tôi đã gặp Chúa và tên ông ấy là Newt. Xe gã không còn, ca trực của Brad đã kết thúc và gã tự đưa mình đến bất cứ mảnh vườn nào gã gọi là nhà. Tôi hình dung ra một căn nhà di động Airstream, có trang báo Hustler dán bằng băng keo Scotch lên tường và những lon bia Dixie vứt trong góc.

Tôi đi ra ngoài qua nhà bếp, nơi bữa tối đang bắt đầu.

- Ông có gì trong giỏ vậy, ông Edgecombe? - Norton hỏi tôi.

- Một cái chai không. - Tôi trả lời. - Tôi khám phá ra dòng suối Thanh Xuân trong rừng dưới kia. Mỗi chiều khoảng giờ này, tôi xuống dưới đấy lấy một ít. Tôi uống vào lúc đi ngủ. Có thể nói với anh là thứ tốt đấy.

- Có thể giữ cho ông được trẻ trung. - George, một đầu bếp khác, nói. - Nhưng nó chẳng giúp đếch gì được cho bề ngoài của ông.

Tất cả chúng tôi bật cười vì câu nói, rồi tôi bước ra ngoài. Tôi thấy mình nhìn quanh tìm Dolan, thậm chí cả khi xe gã đã đi khỏi, tự mắng mình là kẻ ngốc nghếch vì đã để gã quá ám ảnh tâm trí, rồi băng qua sân chơi bóng croquet. Bên kia là một mảng cỏ xanh nhỏ, xơ xác, trông đẹp hơn trong ảnh tờ bướm quảng cáo Georgia Pines hơn bao giờ hết, và bên kia nó là con đường mòn uốn lượn vào khu rừng phía đông nhà dưỡng lão. Có hai chái nhà cũ dọc theo con đường, những ngày này sát bức tường đá cao giữa ranh giới Georgia Pines và Xa lộ 47 Georgia, tôi bước vào và ở lại một lúc.

Đêm ấy tôi ăn một bữa tối ngon miệng, xem TV một chút rồi đi ngủ sớm. Nhiều đêm tôi thức dậy sớm và rón rén xuống phòng TV, ở đấy tôi xem những bộ phim xưa trên kênh Phim Mỹ. Thế nhưng đêm qua thì không; đêm qua tôi ngủ say như chết, không hề bị một trong những giấc mơ vốn ám ảnh tôi, kể từ khi bắt đầu phiêu lưu vào nghiệp văn chương. Toàn bộ chuyện viết lách hẳn đã làm tôi mòn mỏi, tôi không còn trẻ như trước nữa, bạn biết đấy.

Khi tỉnh giấc và nhìn thấy vệt nắng, vốn thường lệ rải trên sàn nhà vào sáu giờ sáng, đã bò suốt đến chân giường, tôi vội vã chồm dậy, quá hoảng hốt không để ý đến cơn đau khớp bộc phát ở hông, đầu gối và mắt cá chân. Tôi mặc quần áo hết sức nhanh, rồi gấp gáp đi xuống hành lang, đến cửa sổ nhìn ra khu để xe nhân viên, hi vọng nơi Dolan để chiếc xe Chervrolet cũ của gã vẫn còn trống. Đôi lúc gã đi làm trễ đến nửa giờ...

Không có may mắn như thế. Chiếc xe ở đó, lấp lánh một cách cáu kỉnh dưới ánh nắng sáng. Bởi vì những ngày này Ông Brad Dolan có điều gì đó để đi làm đúng giờ, phải không? Phải. Lão Paulie Edgecombe đi đâu đó vào mỗi buổi sáng sớm, lão Paulie Edgecombe âm mưu gì đó, và Ông Brad Dolan có ý định tìm hiểu là chuyện gì. Ông làm gì dưới đó, Paulie? Nói tôi nghe. Rất có thể gã đang rình mò tôi. Ở lại nơi tôi đang ở sẽ là điều khôn ngoan... có điều tôi không thể.

- Paul?

Tôi quay lại nhanh đến mức suýt ngã. Đấy là bà bạn Elaine Connelly của tôi. Mắt bà mở to và bà đưa tay ra, như thể đỡ lấy tôi. May mắn cho bà vì tôi lấy được thăng bằng, chứng đau khớp của Elaine rất trầm trọng và có lẽ tôi sẽ khiến bà gãy làm đôi nếu ngã vào vòng tay bà. Sự lãng mạn không chết khi bạn bước vào vùng đất xa lạ trải dài bên kia mức tám tuổi, nhưng bạn nên quên chuyện Cuốn Theo Chiều Gió vớ vẩn đi.

- Xin lỗi. - Bà ấy nói. - Em không có ý làm anh giật mình.

- Không sao. - Tôi đáp yếu ớt mỉm cười với bà. - Tỉnh giấc như thế tốt hơn là bị dội nước lạnh vào mặt. Tôi nên thuê cô làm việc đó mỗi buổi sáng.

- Anh đang tìm xe của gã, phải không? Xe của Doaln.

Thật không phải nếu nói dối bà ấy, do đó tôi gật đầu.

- Tôi hi vọng biết chắc gã đang ở cánh nhà phía Tây. Tôi muốn chuồn ra ngoài một chút, nhưng tôi không muốn thấy gã thấy tôi.

Elaine mỉm cười, một nụ cười tiểu yêu tinh quái mà bà ấy hẳn đã có khi còn thanh xuân.

- Thằng con hoang tò mò, phải không?

- Phải.

- Gã cũng không có ở nhà phía Tây. Em đã xuống ăn sáng, anh bạn buồn ngủ ạ và có thể nói anh biết gã ở đâu, vì em đã nhìn trộm. Gã đang ở trong nhà bếp.

Tôi nhìn bà ấy, mất tinh thần. Tôi đã biết Dolan có tính tò mò, nhưng không biết tò mò đến mức nào.

- Anh có thể hoãn lại chuyền đi dạo buổi sáng không? - Elaine hỏi.

Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó.

- Tôi cho là có thể, nhưng...

- Anh không nên.

- Không. Tôi không nên.

Bây giờ, tôi nghĩ, bà ấy sẽ hỏi mình đi đâu, tôi phải làm gì dưới khi rừng kia mà quan trọng đến thế.

Nhưng bà không hỏi. Thay vào đó, bà lại tặng tôi nụ cười tiểu yêu lần nữa. Nụ cười có vẻ kì lạ và hoàn toàn tuyệt vời trên khuôn mặt quá hốc hác, bị cơn đau đeo đẳng.

- Anh biết ông Howland không?

- Biết chứ. - Tôi trả lời, mặc dù không gặp nhiều, ông ta sống ở cánh nhà phía Tây, nơi tại Georgia Pines gần như một quốc gia lân cận. - Tại sao?

- Anh biết ông ấy có gì đặc biệt không?

Tôi lắc đầu.

- Ông Howland. - Elaine nói, rộng miệng cười hơn bao giờ hết. Là một trong năm người nội trú duy nhất còn lại ở Georgia Pines được phép hút thuốc là. Bởi vì ông ấy đã mất ở đây trước khi nội quy thay đổi.

Một điều khoản hậu đãi, tôi nghĩ. Còn nơi nào thích hợp cho một con người hơn là nhà dưỡng lão?

Bà ấy thò tay vào túi chiếc áo xanh sọc trắng của mình và rút hé ra một hai món: một điếu thuốc và một hộp diêm.

- Ăn trộm xanh, ăn trộm đỏ. - Bà hát bằng một giọng du dương, ngộ nghĩnh. - Bé Ellie sẽ tè ướt giường.

- Elaine, chuyện gì?

- Hãy đưa cô gái già xuống cầu thang nào. - Bà nói, nhét thuốc lá và diêm trở lại túi, rồi nắm lấy cánh tay tôi trong đôi bàn tay xương xẩu của mình. Chúng tôi bắt đầu bước trở thành hành lang. Khi làm thế, tôi đã quyết định chịu thua và giao phó số phận vào tay bà. Bà tuy già nua và dễ vỡ, nhưng không ngốc nghếch.

Trong khi bước đi với sự quan tâm thận trọng đến cái di tích vốn là chúng tôi hiện nay, Elaine nói:

- Hãy chờ ở chân cầu thang. Em sẽ đến cánh nhà phía Tây, đến phòng vệ sinh ở hành lang. Anh biết em muốn nói phòng nào chứ?

- Biết. - Tôi trả lời. - Cái phòng ngay bên ngoài phòng tắm hơi. Nhưng tại sao?

- Hơn mười lăm năm nay em không hút thuốc. - Bà nói. - Nhưng sáng nay em thèm một điếu. Em không biết phải rít bao nhiêu hơi để khởi động máy dò khói trong đấy, nhưng em có ý định tìm hiểu.

Tôi nhìn bà ấy với vẻ ngưỡng mộ bừng nở, thầm nghĩ bà gợi nhớ đến vợ tôi biết bao - có thể Jan cũng sẽ làm đúng như vậy. Elaine nhìn trả lại tôi, nở nụ cười tiểu yêu thanh nhã. Tôi khum bàn tay quanh phía sau chiếc cổ dài đáng yêu, kéo khuôn mặt bà lại gần mặt tôi, và hôn phớt lên môi bà.

- Tôi yêu cô, Eliie. - Tôi nói.

- Ôi, lời lẽ đao to búa lớn quá. - Bà đáp lại, nhưng tôi có thể nói là bà rất hài lòng.

- Chuck Howland thì sao? - Tôi hỏi. - Liệu ông ta sẽ gặp phiền hà không?

- Không, vì ông ta đang ở trong phòng TV, xem phim Good Morning America cùng với khoảng một chục người khác. Và em sẽ né tránh ngay khi máy dò khói báo động có cháy ở chái nhà phía Tây.

- Chớ té ngã và tự gây thương tích, cô gái ạ. Tôi sẽ không bao giờ tự tha thứ nếu...

- Ồ, đừng cuống lên thế. - Bà nói và lần này bà ấy hôn tôi. Tình yêu của những tàn tích. Có lẽ điều này nghe khôi hài đối với một số người và quái gở đối với số còn lại, nhưng cho tôi nói một điều, bạn ạ: tình yêu kì cục còn hơn không.

Tôi nhìn bà bước đi, di chuyển chậm chạp và cứng đơ (vì bà chỉ sử dụng gậy chống vài những ngày ẩm ướt và chỉ khi cơn đau lên tột độ, đấy là một trong những điều tự cao của bà), và chờ đợi. Năm phút trôi qua, rồi mười và đúng lúc tôi quyết định rằng bà ấy hoặc đã mất can đảm, hoặc phát hiện nguồn pin của máy dò khói trong phòng vệ sinh đã cạn, tiếng chuông báo cháy ở cánh nhà phía Đông vang ầm lên.

Ngay lập tức tôi tiến về phía nhà bếp, nhưng chậm rãi - không có lí do gì để vội cho đến khi biết chắc Dolan không cản đường tôi. Một nhóm những người già, phần lớn còn mặc áo ngủ, ra khỏi phòng TV (ở đây nó được gọi là Trung tâm Giải trí; quả là lố bịch) để xem chuyện gì xảy ra. Chuck Howland có mặt trong đám đông, tôi vui mừng được thấy ông ta.

- Edgecombe! - Kent Avery the thé, bám vào khung tập đi bằng một tay, tay kia giật mạnh đũng quần pyjama một cách ám ảnh. - Báo động thật hay lại báo động giả nữa? Anh nghĩ sao?

- Không cách nào biết được. - Tôi trả lời.

Đúng lúc đó ba người hộ lí chạy qua, tất cả đều hướng về cánh nhà phía Tây, hét to yêu cầu những người túm tụm quanh cửa phòng TV ra ngoài và chờ hết báo động. Người thứ ba trong hàng là Brad Dolan. Thậm chí gã không nhìn tôi khi chạy qua, một sự kiện khiến tôi vô cùng thích thú. Khi đi về hướng nhà bếp, tôi chợt nghĩ đội tuyển Elaine Connelly và Paul Edgecombe đủ sức chọi một tá Brad Dolan, có tăng cường thêm nửa chục gã Percy Wetmore.

Những người nếu ăn trong nhà bếp vẫn tiếp tục dọn dẹp bữa sáng, không chút quan tâm đến tiếng la ó báo động có cháy.

- Ông Edgecombe này, - George lên tiếng. - Tôi tin là Brad Dolan nãy giờ vẫn tìm ông. Nói tóm lại, ông đã bỏ lỡ hắn.

May cho mình, tôi nghĩ. Tôi nói to là sẽ gặp ông Dolan sau. Rồi tôi hỏi còn sót chút bánh mì nướng nào quanh bàn ăn sáng không.

- Còn chứ. - Norton trả lời. - Nhưng đã nguội lạnh trên thị trường rồi. Sáng nay ông đến trễ.

- Tôi đến trễ. - Tôi đồng ý. - Nhưng tôi đói.

- Làm bánh mới và nóng chỉ mất một phút thôi. - George nói và đưa tay lấy bánh mì.

- Khỏi, nguội cũng được. - Tôi đáp và khi anh ta trao cho tôi hai khoanh (nhìn có vẻ bí ẩn - thực tế cả hai đều có vẻ bí ẩn), tôi hối hả ra khỏi cửa, có cảm giác trở lại là thằng bé trốn học đi câu cá, với một miếng mứt gói trong giấy sáp, nhét vào ngực áo.

Bên ngoài cửa nhà bếp, tôi nhìn vội xung quanh tìm Dolan, không thấy điều gì đáng ngại, rồi gấp gáp băng qua sân bóng croquet và bãi cỏ, vừa đi vừa nhấm nháp một khoanh bánh. Tôi đi chậm lại một chút khi vào đến khu rừng và trong lúc bước dọc theo đường mòn, tôi thấy tâm trí mình quay lại ngày sau buổi hành hìh Eduard Delacroix khủng khiếp.

Tôi đã nói chuyện với Hal Moores sáng hôm ấy, và nghe kể rằng khối u não của Melinda đã làm cho bà ấy sa vào những cơn chửi thề nói tục... điều mà sau này vợ tôi gán cho (một cách khá do dự, nàng không biết chắc cùng một thứ) hội chứng Tourette. Vẻ run rẩy trong giọng nói của ông ấy, kết hợp với kí ức về John Coffey đã chữa lành cả chứng nhiễm trùng đường tiểu lẫn cái lưng con chuột của Delacroix bị gãy, sau cùng đã đẩy tôi vượt quá lằn ranh giữa sự suy nghĩ suông và thực sự thi hành một điều.

Vì thế tôi gọi những người cùng làm việc với mình, những người suốt đời tôi đã tin cậy qua bao năm dài - Dean Stanton, Harry Terwilliger, Brutus Howell. Họ đến dùng bữa trưa tại nhà tôi sau ngày xử tử Delacroix, và ít nhất họ đã lắng nghe tôi phác họa kế hoạch. Dĩ nhiên, tất cả đều biết Coffey đã chữa lành cho con chuột; Brutal đã tận mắt nhìn thấy. Vì thế khi tôi gợi ý một phép lạ nữa có thể hình thành nếu chúng tôi đưa John Coffey đến gặp Melinda Moores, họ đã không công khai cười nhạo. Dean Stanton là người đặt ra câu hỏi gây bối rối nhất: chuyện gì sẽ xảy ra nếu John Coffey trốn thoát trong khi chúng tôi đưa hắn đi khảo sát thực địa?

Giả sử gã giết người nào khác? - Dean hỏi. - Tôi ghét bị mất việc làm, tôi ghét phải vào tù - tôi có vợ và con trông cậy tôi kiếm miếng ăn cho họ - nhưng tôi nghĩ tôi không ghét hai điều đó bằng chuyện có thêm một bé gái chết trong lương tâm tôi.

Một khoảnh khắc yên lặng, tất cả bọn họ nhìn tôi, chờ xem tôi phản ứng ra sao. Tôi biết tất cả sẽ thay đổi nếu tôi nói những điều đang chực chờ được nói ra, chúng tôi đã tiến đến vị trí dường như không thể lùi bước.

Trừ khi đã không thể lùi bước rồi, ít nhất là đối với tôi. Tôi mở miệng và nói:

- Điều đó sẽ không xảy ra.

- Nhân danh Chúa, làm sao anh dám chắc điều đó?

Tôi không trả lời. Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào. Tôi biết thắc mắc này sẽ nảy sinh, dĩ nhiên tôi đã biết, nhưng tôi vẫn không biết làm sao bắt đầu nói cho họ nghe điều gì trong đầu và trong tim mình. Brutal đỡ lời cho tôi.

- Anh không nghĩ gã đã giết người, phải không Paul? - Anh ta có vẻ ngờ vực. - Anh nghĩ gã ngố đó vô tội.

- Tôi khẳng định gã vô tội. - Tôi trả lời.

- Sao anh có thể khẳng định?

- Có hai điều. - Tôi trả lời. - Một trong hai điều đó là chiếc giày của tôi.

- Giày của anh? - Brutal kêu to. - Giày của anh thì liên quan gì đến việc John Coffey có giết hai bé gái đó hay không?

- Đêm qua tôi tháo một chiếc giày và đưa cho gã. - Tôi nói. - Chuyện này là sau cuộc hành hình, khi mọi việc đã ổn định lại một chút. Tôi đẩy nó qua chấn song, gã nhặt lên trong đôi bàn tay to của gã. Tôi bảo gã thắt dây giày. Tôi phải biết chắc, các anh thấy đấy, vì tất cả những đứa trẻ có vấn đề của chúng ta thường mang dép - một người thực sự muốn có thể tự tử bằng dây giày, nếu anh ta nhất quyết. Tất cả chúng ta đều biết như thế.

Cả bọn gật đầu.

- Gã bỏ giày lên lòng và xỏ chéo qua lại hai đầu dây ổn thoả, nhưng sau đó gã chịu thua. Gã nói chắc chắn người nào đó đã chỉ gã cách làm khi còn nhỏ - có lẽ là bố gã hoặc một trong những bạn trai của mẹ gã sau khi bố chết - nhưng gã đã quên mất mẹo đó rồi.

- Tôi đồng ý với Brutal - tôi vẫn không hiểu giày của anh liên quan gì đến việc John Coffey có giết đôi song sinh nhà Detterick không. - Dean nói.

Vậy là tôi ôn lại câu chuyện bắt cóc và giết người lần nữa - điều tôi đã đọc trong thư viện vào cái ngày nóng bức, hạ bộ sôi bỏng, còn Gibbons thì ngáy trong góc nhà và tất cả những gì tay phóng viên Hammersmith sau này đã kể lại.

- Con chó của nhà Detterick không hay cắn, nhưng là loại chó sủa có hạng trên thế giới. - Tôi nói. - Tên bắt cóc mấy bé gái đã bịt miệng nó bằng cách cho nó ăn xúc xích. Tôi hình dung mỗi lần thảy ra một mẩu gã lại bò đến gần hơn, và trong khi con chó lai giống đang ăn mẩu cuối cùng, gã đưa tay ra nắm lấy đầu nó, vặn gãy cổ.

- Sau đó, khi người ta đuổi kịp Coffey, viên cảnh sát chỉ huy đám dân quân - Rob McGee là tên anh ta - nhìn thấy một chỗ phồng trên túi ngực áo của Coffey. Thoạt tiên McGee nghĩ có thể là một khẩu súng. Coffey nói đấy là phần ăn trưa, và hóa ra đúng vậy - hai khoanh bánh sandwich và một món ngâm dấm, gói trong giấy báo và cột bằng dây hàng thịt. Coffey không nhớ ai đã đưa cho gã, chỉ biết là một phụ nữ khoác tạp dề.

- Bánh sandwich và món ngâm dấm nhưng không có xúc xích. - Brutal nhận xét.

- Không có xúc xích. - Tôi đồng ý.

- Dĩ nhiên là không có. - Dean nói. - Gã đã ném cho con chó ăn.

- À, đấy là điều công tố viên tuyên bố trong phiên xử. - Tôi đồng ý. - Nhưng nếu Coffey đã mở gói thức ăn và ném xúc xích cho con chó ăn, làm sao gã gói tờ giấy báo trở lại bằng kiểu bện dây của hàng thịt? Tôi không biết gã có cơ hội vào lúc nào, nhưng trước mắt chúng ta hãy bỏ qua điều đó. Con người này thậm chí không thắt nổi một cái nút dẹp nữa kìa.

Một khoảnh khắc nín lặng sững sờ dài, sau cùng bị Brutal phá vỡ.

- Mẹ kiếp. - Anh ta trầm giọng nói. - Sao không ai nêu ra điều đó trong phiên xử?

- Không ai nghĩ đến điều đó. - Tôi nói và thấy mình lại nghĩ đến Hammersmith, tay phóng viên - Hammersmith, người đã đi học Đại học ở Bowling Green; Hammersmith, người thích nghĩ mình là kẻ giác ngộ; Hammersmith, người đã bảo tôi rằng lũ chó lai giống và bọn Mọi Đen cũng là một thứ, rằng cả hai thứ đó đều có thể bất ngờ đớp bạn một phát mà không có lí do. Ngoại trừ việc anh ta cứ gọi họ là bọn Mọi Đen của anh, như thể họ vẫn là tài sản... nhưng không phải tài sản của anh ta. Không, không phải của anh ta. Không bao giờ là của anh ta. Và vào thời đó, miền Nam đầy dẫy những tay Hammersmith. - Không ai thực sự được trang bị để nghĩ đến điều đó, kể cả luật sư của Coffey.

- Nhưng anh được. - Harry lên tiếng. - Tôi cũng sẽ không nghĩ đến điều đó, nếu đã không kết hợp điều gã nói với cảnh sát viên McGee ngày hôm ấy với điều gã nói sau khi chữa lành bệnh cho tôi, và điều gã nói sau khi cứu sống con chuột.

- Cái gì? - Dean hỏi.

- Khi bước vào xà lim của gã, tôi như bị thôi miên. Tôi cảm thấy không thể chống lại điều gã muốn, thậm chí nếu cố gắng cũng không được.

- Tôi không thích nghe như thế. - Hary nói và bồn chồn xoay trở trên ghế ngồi.

- Tôi hỏi gã muốn gì và gã nói “Chỉ muốn giúp”. Tôi nhớ câu nói đó rất rõ. Rồi khi kết thúc và tôi đã khỏe hơn, gã biết. “Ta đã giúp” gã nói. “Ta đã giúp, phải không?”

Brutal gật đầu.

- Giống hệt trường hợp con chuột. - Anh nói - “Anh đã giúp”, và Coffey nói lại với anh như một con vẹt. “Tôi đã giúp con chuột của Del”. Đấy là lúc anh biết, phải không?”

- Phải, tôi đoán thế. Tôi nhớ lại điều gã nói với McGee khi anh ta hỏi gã chuyện gì xảy ra. Điều đó có hầu hết trong mỗi câu chuyện về bọn giết người. “Tôi không làm được gì. Tôi cố rút lại, nhưng đã quá muộn”. Một con người nói một điều như thế với hai bé gái chết trên tay, chúng là da trắng, gã thì to xác bằng một ngôi nhà, không ngạc nhiên khi người ta hiểu sai. Người ta nghe gã nói theo một cách sẽ phù hợp với những gì người ta đang chứng kiến, và cái người ta đang chứng kiến là một gã da đen. Người ta nghĩ gã đang thú tội, gã đang nói rằng gã bị thôi thúc bắt cóc những bé gái đó, hãm hiếp chúng, rồi giết chúng. Rằng gã sực tỉnh và cố gắng dừng lại...

- Nhưng đến lúc ấy thì đã quá muộn! - Brutal thì thào.

- Phải. Ngoại trừ điều gã đang cố gắng nói cho họ hiểu là gã phát hiện những bé gái, cố gắng chữa lành, hồi sinh chúng mà không thành công. Chúng đã đi quá sâu vào cõi chết.

- Paul, anh tin điều đó không? - Dean hỏi. - Anh thật sự tin điều đó chứ?”

Tôi tự suy ngẫm lần cuối cùng, rồi gật đầu. Không chỉ bây giờ tôi mới biết, một phần trực giác của tôi đã biết có gì đó không đúng với tình huống của John Coffey ngay từ lúc đầu, khi Percy bước vào Khu, kéo tay Coffey và ầm ĩ gào lên: “Tử tội đến!” Chẳng phải tôi đã bắt tay gã sao? Tôi chưa bao giờ bắt tay một kẻ đến Dặm Đường Xanh, nhưng tôi đã bắt tay Coffey.

- Lạy Chúa, - Dean nói. - Chúa Kitô lòng lành.

- Giày của anh là một chuyện, - Harry lên tiếng. - Chuyện kia là gì?

- Không lâu trước khi đội dân quân phát hiện Coffey và các bé gái, người ta ra khỏi rừng gần bờ phía Nam sông Trapingus. Họ thấy một vạt cỏ bị giẫm bẹp ở đấy, rất nhiều máu, và quần áo ngủ còn lại của Cora Detterick. Đàn chó bị lẫn lộn một chút. Phần lớn muốn chạy về hướng Đông Nam, xuôi theo bờ sông. Nhưng hai con trong đàn chó săn nòi coonie muốn đi ngược dòng. Bobo Marchant điều khiển đàn chó, và khi anh ta cho bọn chó nòi coonie ngửi chiếc áo ngủ, chúng quay lại với những con kia.

- Lũ coonie đã nhầm lẫn, phải không? - Brutal hỏi. Một nụ cười khẽ, kì lạ và ghê tởm phảng phất trên khóe môi anh ta. - Chúng không được sinh ra để theo dõi dấu vết, nghiêm khắc mà nói, và chúng đã lẫn lộn trong nhiệm vụ phải làm.

- Phải!

- Tôi không hiểu! - Dean nói.

- Lũ chó nòi coonie đã quên bất cứ thứ gì Bobo đưa cho chúng ngửi để thúc chúng bắt đầu, - Brutal giải thích. - Vào lúc họ ra khỏi rừng đến bên bờ sông, những con coonie đang đánh hơi kẻ giết người chứ không phải những đứa bé gái. Điều đó không khó khi kẻ giết người và các bé gái còn ở bên nhau, nhưng...

Ánh mắt Dean sáng lên. Harry thì đã hiểu vấn đề.

- Khi suy nghĩ về sự kiện đó, - Tôi nói. - Các cậu sẽ ngạc nhiên tại sao bất cứ người nào, kể cả một hội thẩm đoàn vốn đang muốn gán tội cho một gã da đen lang thang, có thể tin rằng John Coffey chính là kẻ họ muốn, dù chỉ một phút. Chỉ một ý tưởng làm cho con chó nín lặng bằng thức ăn đến khi có thể bẻ cổ nó, đã vượt qua khả năng của Coffey.

- Gã chưa bao giờ đến gần nông trại nhà Detterick hơn bờ Nam sông Trapingus, đó là điều tôi nghĩ. Cách xa nó khoảng sáu dặm. Lúc ấy gã đang lang thang, có lẽ định đi xuống đến phía đường sắt và đón xe đi một nơi nào khác - khi xe hỏa xa ra khỏi trụ cầu, nó sẽ chạy chậm lại, đủ để nhảy lên - thì gã nghe hướng Bắc có náo động.

- Tên giết người? - Brutal hỏi.

- Tên giết người. Có thể gã đã hãm hiếp chúng, hoặc Coffey nghe được vụ hãm hiếp. Trong bất kì trường hợp nào, vạt cỏ đẫm máu là nơi tên giết người kết thúc hành vi; đập đầu các bé gái vào nhau, vứt chúng xuống rồi chuồn đi.

- Chuồn về hướng Tây Bắc, - Brutal nói. - Hướng mà lũ chó coonie muốn đuổi theo.

- Đúng. John Coffey đi qua hàng cây mọc hơi quá về hướng Đông Nam điểm các bé gái bị bỏ lại, có lẽ tò mò về tiếng động, và phát hiện ra các thi thể. Một trong hai bé gái vẫn còn sống; tôi cho là có thể cả hai, mặc dù không còn lâu nữa. Chắc chắc John Coffey không biết chúng đã chết chưa. Gã chỉ biết mình có năng lực chữa bệnh trong đôi bàn tay và cố gắng áp dụng lên cơ thể Cora và Kathe Detterick. Khi thấy không hiệu quả, gã đã suy sụp tinh thần, khóc lóc và lên cơn kích động. Người ta phát hiện ra gã trong tình trạng đó.

- Tại sao gã không ở lại đấy, tại nơi gã phát hiện ra những đứa bé gái? - Brutal hỏi. - Tại sao lại đưa chúng về phía Nam, dọc theo bờ sông? Anh có ý kiến gì không?

- Tôi cược rằng thoạt đầu gã ở yên tại chỗ. - Tôi trả lời. - Tại tòa án, người ta cứ nói về một khu vực rộng bị giẫm đạp, tất cả cỏ bị đè bẹp. Mà John Coffey lại là một người to lớn.

- John Coffey là một gã đồ sộ ghê gớm. - Harry nói, hạ giọng thật thấp để vợi tôi không nghe được, nếu tình cờ nàng đang lắng nghe.

- Có lẽ gã phát hoảng khi nhìn thấy điều đang làm không có hiệu quả. Hoặc có thể gã nghĩ thủ phạm vẫn còn đó, trong khu rừng ngược dòng sông, đang theo dõi gã. Các cậu biết đấy, Coffey vốn to lớn nhưng không can đảm. Harry, cậu còn nhớ gã đã hỏi chúng ta có để đèn sáng trong Khu khi ngủ không?”

- Nhớ. Tôi nhớ đã nghĩ rằng với kích thước to lớn cỡ như gã, yêu cầu đó quả là khôi hài.

Nhìn Harry có vẻ run rẩy và suy tư. Dean hỏi:

- Nếu gã không giết những đứa bé gái thì ai giết?

- Một kẻ nào khác. - Tôi lắc đầu. - Tôi đoán chắc nhất là một gã da trắng. Công tố viên làm ầm ĩ chuyện kẻ giết nổi một con chó to cỡ chó nhà Detterick phải là người rất khỏe mạnh, nhưng...

- Nói nhảm! - Brutus gầm lên. - Một đứa bé gái mười hai tuổi khỏe mạnh vẫn có thể bẻ gãy cổ một con chó to, nếu bất ngờ nắm được con chó và biết nắm chỗ nào. Nếu Coffey không phải là thủ phạm, thì có thể là bất cứ ai... nghĩa là bất cứ gã đàn ông nào. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ biết.

- Trừ khi kẻ đó ra tay lần nữa. - Tôi nói.

- Thậm chí lúc ấy chúng ta sẽ không biết, nếu gã gây tội ác ở Texas, hoặc California. - Harry nói.

Brutal dựa ra sau ghế, dụi nắm tay vào mắt như một đứa bé mệt mỏi, rồi bỏ tay trở vào lòng.

- Một cơn ác mộng! - Anh ta kết luận. - Chúng ta cầm tù một người có thể là vô tội và anh ta sẽ bước trên Dặm Đường Xanh, chắc chắn cũng như Chúa tạo ra cây cao và những con cá nhỏ bé. Chúng ta phải làm gì về sự việc đó? Nếu bắt đầu bằng chuyện những ngón tay chữa bệnh vớ vẩn, mọi người sẽ cười đến vỡ bụng, rồi gã cũng hết đời trên Chảo Nướng thôi.

- Chúng ta lo chuyện đó sau. - Tôi nói, vì không có lấy một ý tưởng cỏn con nào để trả lời anh ta. - Vấn đề ngay lúc này là điều chúng ta làm hoặc không với Melly. Tôi có thể nói lùi lại vài ngày để suy nghĩ, nhưng tôi tin rằng cứ mỗi ngày chờ đợi lại gia tăng nguy cơ gã không thể giúp bà ấy.

- Còn nhớ gã chìa tay ra n con chuột không? - Brutal hỏi. - “Hãy đưa nó cho tôi trong lúc còn kịp”, gã nói thế. “Trong lúc còn kịp”.

- Tôi nhớ!

- Tôi tham gia. Tôi cũng cảm thấy tồi tệ trong vụ Del, nhưng tôi chỉ muốn xem điều gì xảy ra khi gã chạm vào bà ấy. Có lẽ sẽ không có gì, nhưng cũng có thể... - Brutal suy nghĩ, rồi gật đầu.

- Tôi hết sức ngờ vực chuyện chúng ta đưa được cái hình nhân bù nhìn ra khỏi Khu. - Harry tiếp lời, sau đó thể dài và gật đầu. - Nhưng ai thèm quan tâm? Tôi tham gia.

- Tôi nữa. - Dean lên tiếng. - Ai ở lại Khu, Paul? Chúng ta rút thăm chứ?

- Không! - Tôi trả lời. - Không rút thăm. Cậu ở lại.

- Thế đấy? Dẹp anh đi! - Dean đáp, tự ái và tức giận. Anh ta lôi cặp kính xuống và bắt đầu chùi bóng một cách phẫn nộ vào áo sơ mi. - Đây là loại thỏa thuận hạng bét nào vậy?

- Loại thỏa thuận cậu đạt được nếu đủ trẻ để có con vẫn còn ở Trung học. - Brutal nói. - Harry và tôi độc thân. Paul đã có gia đình, nhưng ít nhất con cái anh ấy đã trưởng thành ra riêng. Kế hoạch chúng ta vạch ra ở đây là một trò rất nguy hiểm; tôi nghĩ gần như chắc chắn chúng ta sẽ bị bắt. - Anh ta điềm đạm nhìn tôi. - Paul, có một điều anh không nói là nếu chúng ta đưa gã ra ngoài được, nhưng những ngón tay chữa bệnh của Coffey không có kết quả, chính Hal Moores có thể tố cáo chúng ta. - Anh ta cho tôi cơ hội để trả lời câu nói này, có thể là phản bác, nhưng tôi không thể, vì thế tôi im lặng. Brutal quay lại với Dean và tiếp tục. - Đừng hiểu lầm tôi, cậu cũng có nguy cơ mất việc nữa, nhưng ít nhất cậu có cơ hội thoát tù tội nếu áp lực điều tra đè nặng. Percy sẽ nghĩ đây là trò đùa; nếu có mặt tại bàn trực, cậu có thể nói cậu cũng nghĩ như thế, và chúng tôi chưa bao giờ nói gì khác với cậu.

- Tôi vẫn không thích thế. - Dean nói. Nhưng rõ ràng anh ta bằng lòng với kế hoạch, dù thích hay không thích. Ý nghĩ về con cái đã thuyết phục anh ta. - Vậy sẽ là tối nay? Anh chắc chứ?

- Nếu tiến hành thì tốt hơn nên là tối nay. - Harry trả lời. - Nếu có dịp suy nghĩ về chuyện này, rất có khả năng tôi sẽ mất tinh thần.

- Để tôi ghé qua bệnh xá cho. - Dean đề nghị. - Ít nhất tôi cũng làm được như thế, phải không?

- Cậu làm những gì cần làm, miễn đừng để bị bắt. - Brutal nói.

Dena có vẻ bị xúc phạm và tôi vỗ lên vai anh ta.

- Cậu làm ngay sau khi vào ca trực, được không?

- Được!

Vợ tôi thò đầu qua cửa như thể tôi đã ra hiệu cho nàng.

- Ai uống thêm trà ướp lạnh nào? - Nàng rạng rỡ hỏi. - Ý chú thế nào, Brutus?

- Không, cảm ơn! - Anh ta trả lời. - Cái tôi muốn là nốc một li whisky đầy, nhưng trong hoàn cảnh này thì không phải là ý hay.

Janice nhìn tôi; miệng mỉm cười, mắt lo âu. “Paul, anh lôi kéo các chàng trai này vào chuyện gì thế?” Nhưng trước khi tôi kịp dựng lên một câu trả lời, nàng giơ tay và nói, “Đừng lo, em không muốn nghe”.