Dù sao thì, khi chúng tôi biết chắc Dean còn thở được và không ngất tại chỗ, Harry và Brutal đã hộ tống anh ta đến bệnh xá. Delacroix, người tuyệt đối im lặng suốt trận ẩu đả (gã đã nằm tù rất nhiều lần, con người đó biết khi nào nên khôn hồn câm mõm lại và khi nào tương đối an toàn để mở ra) bắt đầu oang oang từ cuối hành lang khi Harry và Brutal giúp Dean ra ngoài. Delacroix muốn biết chuyện gì xảy ra. Hẳn bạn sẽ nghĩ rằng quyền hợp hiến của gã bị xâm phạm.
- Câm miệng, mày đấy, thằng đồng tính! - Percy quát lại, giận dữ đến mức mạch máu hằn ra hai bên cổ hắn. Tôi đặt bàn tay lên tay hắn và cảm thấy nó run lên bên dưới áo sơ mi. Một phần phản ứng này là nỗi hoảng sợ còn sót lại, tất nhiên (lúc này lúc kia tôi vẫn phải tự nhắc nhở mình rằng một phần vấn đề của Percy là hắn mới hai mươi mốt tuổi, không già hơn Wharton bao nhiêu), nhưng tôi nghĩ phần lớn là cơn thịnh nộ. Hắn thù ghét Delacroix. Tôi không hiểu tại sao, nhưng hắn thù.
- Hãy đến xem Giám thị còn đây không? - Tôi sai Percy. - Nếu có, cậu báo cáo miệng đầy đủ chuyện xảy ra. Nói là ngày mai sẽ có báo cáo bằng văn bản của tôi trên bàn giấy của ông ấy, nếu tôi làm kịp.
Percy phổng mũi thấy rõ vì được giao nhiệm vụ; trong một thoáng khủng khiếp, tôi thật sự nghĩ hắn sẽ đứng nghiêm chào tôi.
- Vâng, thưa sếp. Tôi sẽ đi.
- Hãy bắt đầu bằng cách báo cáo ông ấy biết tình hình ở Khu E bình thường. Không phải chuyện gì ầm ĩ, và ông Giám thị sẽ không cảm ơn anh thêu dệt để tăng phần giật gân đâu.
- Tôi sẽ không làm thế.
- Được rồi. Cậu đi đi.
Hắn ra đến cửa, rồi quay lại. Một điều bạn có thể tin cậy hắn là tính trái ngược. Tôi hết sức muốn hắn biến đi, hạ bộ tôi đang bốc cháy, và bây giờ có vẻ hắn không muốn đi.
- Anh không sao chứ, Paul? - Hắn hỏi. - Có lẽ bị sốt, phải không? Bị cúm sao? Mồ hôi đầy mặt anh kìa.
- Có lẽ tôi bị cái gì đó, nhưng phần lớn thì khỏe. - Tôi trả lời. - Đi đi, Percy, đến báo cáo giám thị đi.
Hắn gật đầu và đi khỏi, cảm ơn Chúa đã ban cho những ân huệ nho nhỏ. Cửa vừa đóng lại, tôi phóng ngay vào văn phòng của mình. Bỏ bàn giấy không có người trực là vi phạm quy tắc, nhưng tôi đã vượt quá mức lo lắng chuyện đó rồi. Tệ hại quá, giống như chuyện tệ hại sáng hôm ấy.
Tôi cố vào được phòng vệ sinh nhỏ đằng sau bàn trực và giải tỏa công việc ra khỏi quần trước khi nước tiểu trào ra, nhưng suýt nữa không kịp. Tôi phải lấy tay bịt miệng để chặn tiếng thét khi bắt đầu trào ra, và quờ quạng chụp lấy thành bồn cầu bằng tay kia. Không giống như ở nhà, nơi tôi có thể khuỵu xuống và tè ra một vũng bên đống củi, nếu tôi quỳ thụp xuống ở đây, nước tiểu sẽ lan ra khắp sàn nhà.
Tôi gắng gượng đứng vững và nén tiếng thét, nhưng suýt nữa không kịp cho cả hai việc. Có cảm giác như nước tiểu của tôi chứa đầy những mẩu thủy tinh vỡ nhỏ xíu. Cái mùi bốc lên từ bồn cầu lầy lội và khó chịu, và tôi có thể nhìn thấy thứ gì màu trắng - mủ, tôi đoán thế - lơ lửng trên mặt nước.
Tôi rút khăn ra khỏi kệ để lau mặt. Tôi đang đổ mồ hôi, đúng rồi nó đang tuôn ra ra khỏi người. Tôi nhìn vào chiếc gương kim loại và thấy bộ mặt đỏ bừng của một người bị sốt cao đang nhìn trả lại mình. Tôi treo khăn lên thanh ngang, chậm chạp đi qua văn phòng đến cửa khu xà lim. Tôi sợ Bill Dodge hoặc ai đó khác có thể bước vào và thấy ba gã tử tù không có người canh gác, nhưng khu vực vắng bóng người. Wharton vẫn nằm bất tỉnh trên sạp ngủ của nó, Delacroix đã nín lặng và John Coffey chưa hề phát ra một tiếng động nào, đột nhiên tôi nhận thức được. Không một tiếng thút thít. Điều đáng lo.
Tôi đi dưới Dặm Đường Xanh và liếc vào xà lim của Coffey, nửa chờ đợi khám phá gã đã tự sát theo một trong hai cách thông thường ở khu tử tội hoặc treo cổ bằng quần dài, hoặc cắn vào cổ tay. Không có gì, hóa ra là thế. Coffey chỉ đơn thuần ngồi ở đầu sạp ngủ, tay để trong lòng, con người đồ sộ nhất tôi từng gặp trong đời, đang nhìn tôi với cặp mắt ướt, kì lạ.
- Đội trưởng? - Gã lên tiếng.
- Có chuyện gì, Bự Con?
- Tôi cần gặp anh.
- Chẳng phải anh đang nhìn thẳng vào tôi đấy sao, John Coffey?
Gã không nói gì về câu hỏi này, chỉ tiếp tục quan sát tôi bằng cái nhìn rò rỉ, quái dị. Tôi thở dài.
- Chờ chút, Bự Con.
Tôi nhìn sang Delacroix, đang đứng sau chấn song xà lim của gã. Ông Jingles, con chuột nuôi của gã (Delacroix sẽ khoe với bạn rằng gã đã huấn luyện ông Jingles biểu diễn các mánh lới, nhưng bọn tôi làm việc trên Dặm Đường Xanh lại rất đồng lòng với quan điểm rằng ông Jingles đã tự luyện tập), đang nhảy nhót không ngưng nghỉ từ một bàn tay duỗi ra rcủa Delacroix đến bàn tay kia, như một nghệ sĩ nhào lộn nhảy từ bục đặt trên cao giữa rạp xiếc. Cặp mắt nó to tướng, tai ép sát vào cái sọ màu nâu bóng mượt. Tôi không nghi ngờ gì chuyện con chuột đang phản ứng cho thần kinh của Delacroix. Trong khi tôi nhìn, con chuột chạy xuống ống quần Delacroix và băng qua xà lim đến chỗ ống chỉ đầy màu sáng nằm sát tường. Nó đẩy cái ống chỉ trở lại đến bàn chân của Delacroix và hăng hái ngước nhìn gã, nhưng gã Cajun nhỏ bé không để ý đến anh bạn nhỏ, ít nhất là trong lúc hiện thời.
- Chuyện gì xảy ra, sếp? - Delacroix hỏi. - Ai đã bị thương?
- Mọi thứ đều yên ổn. - Tôi đáp. - Chàng trai mới của chúng tôi xông vào dũng mãnh như sư tử, nhưng bây giờ nó bất tỉnh như một con cừu. Điều tốt đẹp sẽ có kết thúc tốt đẹp.
- Chưa kết thúc đâu. - Delacroix nhận định, nhìn lên Dặm Đường Xanh về hướng xà lim nơi Wharton bị nhốt. - L’homme mauvais, c’est vrai! - Thằng xấu xa, thật đấy!
- Nào. - Tôi đáp. - Đừng để chuyện đó làm chú mày thất vọng, Del. Sẽ không ai buộc chú mày chơi với nó ngoài sân đâu.
Có một tiếng cót két sau lưng tôi khi Coffey rời khỏi sạp ngủ.
- Sếp Edgecombe! - Gã lại lên tiếng. Lần này giọng gã nghe khẩn cấp. - Tôi cần nói chuyện với anh.
Tôi quay lại gã, suy nghĩ, được rồi, không có gì, nói chuyện là công việc của tôi. Suốt thời gian cố gắng không run rẩy, vì cơn sốt đã nguội lạnh, như nó đôi khi vẫn thế. Ngoại trừ hạ bộ của tôi, vẫn còn cảm giác như bị xẻ ra, nhét đầy than nóng vào, rồi khâu kín lại.
- Vậy thì nói đi, John Coffey. - Tôi đáp, cố sức giữ giọng nói nhẹ nhàng và bình thản. Lần đầu tiên từ khi đến Khu E, Coffey có vẻ như thật sự hiện diện ở đây, thật sự ở giữa chúng tôi. Dòng nước mắt gần như không ngừng trào ra từ góc mắt gã đã ngưng, ít nhất là trong lúc này và tôi biết gã đang thấy cái gã đang nhìn. - Ông Paul Edgecombe, đội trưởng toán lính gác Khu E, và không phải là nơi nào đó gã ao ước có thể trở về, để rút lại điều khủng khiếp gã đã gây ra.
- Không. - Gã nói. - Anh phải vào trong này.
- Coi nào, anh biết tôi không được làm thế. - Tôi trả lời, vẫn cố gắng nói nhẹ nhàng. - Ít nhất vào lúc này là không đúng. Hiện giờ có mình tôi ở đây và anh thì nặng hơn tôi cả tấn rưỡi. Chúng tôi đã bị một trận huyên náo chiều nay, đủ rồi. Vậy chúng ta sẽ tán gẫu qua chấn song, nếu anh thấy thích, và...
- Làm ơn! - Gã bấu lấy chấn song chặt đến nỗi khớp ngón tay tái đi và móng tay trắng bệch. Mặt gã dài thượt ra vì thất vọng, mắt quắc lên với nhu cầu nào đó mà tôi không hiểu nổi. Tôi nhớ đã nghĩ rằng có lẽ tôi có thể hiểu nếu như không quá bệnh hoạn, và biết điều đó sẽ cho tôi một cách giúp đỡ gã qua khỏi tình trạng này. Khi bạn biết điều một con người cần, tức bạn biết con người đó, thường là thế. - Làm ơn đi, sếp Edgecombe! Anh phải vào đây!
Điều ngu ngốc nhất tôi từng được nghe, tôi nghĩ và rồi nhận ra một điều còn ngu ngốc hơn nữa: tôi sẽ làm theo lời gã. Tôi tháo chùm chìa khóa ra khỏi dây lưng và lục tìm những chiếc mở được cửa xà lim của Coffey. Gã đã có thể nhấc bổng tôi lên và bẻ gãy trên đầu đầu gối như củi nhóm lửa vào một ngày tôi khỏe mạnh và cảm thấy thoải mái, và hôm nay thì không phải là ngày đó. Dù sao tôi cũng sẽ làm theo lời gã. Làm một mình, và không đầy nửa giờ đồng hồ sau cuộc thể hiện sinh động nơi mà sự ngu ngốc và tính sơ hở có thể lôi bạn đến khi đối phó với bọn giết người bị kết án, tôi sẽ mở cửa xà lim của gã da đen khổng lồ này, bước vào, và ngồi với hắn. Nếu bị phát hiện, tôi có thể bị đuổi việc, ngay cả khi gã không làm chuyện gì điên rồ, nhưng tôi sẽ làm thế, vậy thôi.
Hãy dừng lại, tôi tự bảo mình, mày hãy dừng lại đi, Paul. Nhưng tôi không dừng lại. Tôi dùng một chìa khóa cho ổ khóa trên cùng, một chìa khác cho ổ khóa dưới và rồi đẩy cửa trượt trên đường ray.
- Anh biết không, sếp, có lẽ đấy không phải là ý tưởng hay. - Delacroix lên tiếng bằng một giọng hoảng hốt và khó chịu đến nỗi có lẽ sẽ làm tôi bật cười trong hoàn cảnh này.
- Chú mày lo chuyện chú mày, còn tôi lo việc tôi. - Tôi đáp lại mà không nhìn quanh. Mắt tôi nhìn thẳng vào mắt John Coffey, như trân trối đến mức như đóng đinh vào đấy. Giống như đang bị thôi miên. Tai tôi nghe giọng nói của mình như thứ gì đó vọng xuống một thung lũng dài. Quái quỷ, có lẽ tôi đã bị thôi miên. - Anh cứ nằm xuống và thư giãn.
- Chúa ơi, nơi này điên quá. - Delacroix nói bằng giọng run rẩy. - Ông Jingles, tao ước gì chúng nướng quách tao cho rồi!
Tôi vào trong xà lim của John Coffey. Gã lùi ra sau khi tôi tiến lên trước. Khi lùi đến sạp ngủ - mép nó đụng vào bắp chân gã, gã cao đến mức đó - gã ngồi xuống sạp. Gã vỗ vào tấm nệm bên cạnh gã, ánh mắt không rời khỏi mắt tôi. Tôi ngồi xuống đó kế bên gã, và gã vòng tay ôm vai tôi, như thể chúng tôi đang ở trong rạp xi-nê và tôi là bồ của gã.
- Anh muốn gì, John Coffey? - Tôi hỏi, vẫn nhìn vào mắt gã, đôi mắt buồn rầu, thanh thản.
- Chỉ giúp đỡ thôi. - Gã trả lời. Gã thở dài theo cách một người sẽ làm khi đối mặt với một việc mà anh ta không muốn làm, và rồi gã thò tay xuống hạ bộ tôi, trên khung xương dưới rốn khoảng 1 foot hay gì đó.
- Ê! - Tôi la lên. - Rút cái bàn tay chết tiệt.
Một cú đấm quật xuyên qua người tôi, một cú đánh gì đó mạnh mẽ không đau đớn. Nó làm tôi co giật trên tấm đắp và ưỡn cong lưng, làm tôi nghĩ đến lão Toot gào lên rằng lão đang bị nướng, lão là con gà tây trống hết đời. Không có sức nóng, không có cảm giác điện giật, nhưng trong một thoáng màu sắc dường như thoát ra khỏi tất cả mọi vật, như thể thế giới bị vắt kiệt và làm cho toát mồ hôi bằng cách nào đó. Tôi có thể thấy từng lỗ chân lông trên mặt John Coffey, tôi có thể thấy một vết trầy nhỏ xíu đang đang lên da non trên cằm của gã. Tôi nhận thức được ngón tay của mình đã khoằm lại thành móng vuốt trong không khí, và chân tôi đang giậm thình thịch trên sàn xà lim của Coffey.
Rồi sự việc chấm dứt. Căn bệnh nhiễm trùng đường tiểu của tôi cũng thế. Cả sức nóng lẫn cơn đau phập phồng khốn nạn biến mất khỏi hạ bộ, cơn sốt cũng biết mất khỏi đầu tôi. Tôi vẫn còn cảm nhận được mồ hôi mà nó rút ra khỏi làn da cả mình, và tôi ngửi được nó, nhưng nó đi rồi, được thôi.
- Chuyện gì xảy ra? - Delacroix the thé gọi. Giọng gã vẫn còn văng vẳng từ xa, nhưng khi John Coffey cúi mình ra trước, cắt đứt tiếp xúc bằng mắt với tôi, thì giọng của gã Cajun nhỏ bé đột nhiên trở nên rõ ràng. Như thể ai đó đã rút mẩu bông hoặc ống che tai xạ thủ ra khỏi tai tôi. - Gã đang làm gì anh vậy?
Tôi không trả lời. Coffey đang cúi gập người trên lòng gã với nét mặt nhăn nhúm và lồng ngực lồi ra. Mắt gã cũng lồi ra. Nhìn gã như một người hóc xương gà trong cổ họng.
- John! - Tôi thốt lên. Tôi vỗ vào lưng gã, đấy là tất cả những gì tôi nghĩ được để làm. - John, có gì không ổn?
Gã giật mình dưới bàn tay tôi, rồi phát ra một tiếng nôn ọe nghèn nghẹt khó chịu. Miệng gã há ra như cách loài ngựa đôi khi há mõm để nuốt thức ăn một cách miễn cưỡng, môi trên kéo ra sau, nhe răng trong một nụ cười khinh miệt dữ dội. Thế rồi hai hàm răng của gã cũng rời ra, và gã thở ra một đám mây côn trùng nhỏ xíu màu đen trông như ruồi nhặng. Chúng quay cuồng giận dữ giữa hai đầu gối gã, chuyển sang màu trắng, và biến mất.
Thình lình tất cả sức mạnh của tôi thoát ra khỏi hạ bộ. Như thể các bắp thịt ở đấy đã hóa thành nước. Tôi ngồi sụm xuống lại nền đá xà lim của Coffey. Tôi nhớ có nghĩ đến tên của Đấng cứu thế - Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô, lặp đi lặp lại như thế và tôi nhớ có nghĩ rằng cơn sốt đã khiến tôi mê sảng. Thế thôi.
Rồi tôi ý thức được Delacroix đang oang oang kêu cứu, gã đang mách thế giới này là John Coffey đang giết tôi và mách bằng một giọng to hết cỡ. Coffey đang cúi xuống tôi, phải rồi, nhưng chỉ để biết chắc tôi không sao.
- Im đi, Del. - Tôi nói và đứng lên. Tôi chờ đợi cơn đau xé toạc hạ bộ nhưng nó không xảy ra. Tôi đã tốt hơn. Thật sự. Có một thoáng chóng mặt, nhưng nó qua khỏi thậm chí trước khi tôi kịp đưa tay ra chụp lấy chấn song cửa xà lim của Coffey để giữ thăng bằng. - Tôi hoàn toàn yên ổn.
- Anh ra khỏi đó ngay. - Delacroix nói, nghe như một bà già nóng nảy ra lệnh cho thằng nhóc leo xuống khỏi cây táo. - Anh không được vào trong đó khi không có ai khác trong Khu.
Tôi nhìn John Coffey, gã ngồi trên sạp, đôi bàn tay khổng lồ đặt trên đầu gối to như thân cây. John Coffey nhìn trả lại tôi. Gã phải nghiêng đầu lên một chút, nhưng không nhiều.
- Anh đã làm gì, Bự Con? - Tôi hỏi bằng giọng khẽ khàng. - Anh đã làm gì cho tôi?
- Giúp đỡ. - Gã trả lời. - Ta đã giúp, phải không?
- Phải, tôi nghĩ thế, nhưng bằng cách nào? Làm sao anh giúp được?
Gã lắc đầu phải, trải, trở lại chết cứng ở giữa. Gã không biết đã giúp bằng cách nào (gã đã chữa khỏi bệnh bằng cách nào), bộ mặt điềm tĩnh của gã cho thấy gã cóc thèm quan tâm - không quan tâm hơn tôi quan tâm đến cơ học môn chạy khi tôi đang dẫn đầu 50 yard cuối cùng trong cuộc chay đua hau dặm nhân ngày bốn tháng bảy. Tôi nghĩ đến việc hỏi gã làm sao biết được tôi mắc bệnh, ngoại trừ việc đó chắc chắn sẽ nhận được cú lắc đầu như thế. Có một câu tôi đọc ở đâu đó và không bao giờ quên, một thứ gì đó về “điều bí ẩn bọc trong sự bí mật”. John Coffey là thế, và tôi cho rằng lí do duy nhất khiến gã ngủ được vào ban đêm là bởi vì gã không cần. Percy gọi gã là thằng đần độn, nghe tàn nhẫn nhưng cũng không quá đáng. Chàng trai to xác của chúng tôi biết tên của gã, và biết nó không đánh vần như thứ nước uống, và đấy là tất cả những gì gã cần biết.
Như để nhấn mạnh điều này vì tôi, gã lắc đầu theo cách khoan thai đó một lần nữa, rồi nằm xuống sạp, tay chắp lại dưới má như một chiếc gối và quay mặt vào tường. Chân gã bỏ thõng ra ngoài mép sạp từ ống quyển xuống, nhưng điều đó dường như không làm gã phiền hà. Vạt lưng áo đã kéo lên, và tôi có thể thấy các vết sẹo ngang dọc trên làn da.
Tôi rời khỏi xà lim, khóa lại, rồi đối diện với Delacroix, kẻ đang đứng phía bên kia, tay nắm quanh chấn song xà lim của mình, lo lắng nhìn tôi. Có lẽ thậm chí sợ nữa. Ông Jingles vắt vẻo trên vai gã với những sợi râu mảnh run rẩy như tơ.
- Gã đen kia làm gì anh? - Delacroix hỏi. - Bùa gris-gris gì vậy? Gã đã ếm bùa gris-gris vào anh? - Được phát âm bằng giọng Cajun của gã, từ gris-gris vần với pee-pee - đi tè.
- Tôi không hiểu chú em nói gì, Del.
- Quỷ quái gì mà anh không biết! Nhìn anh kìa! Tất cả đã thay đổi. Thậm chí bước đi cũng khác, sếp!
Có lẽ tôi đã bước đi khác thật. Có một cảm giác bình an tuyệt vời ở hạ bộ, một ý thức thanh bình khác thường đến mức gần như khoái cảm, bất cứ ai đã chịu cơn đau nặng nề rồi hồi phục sẽ hiểu điều tôi đang nói.
- Mọi việc đều ổn thỏa, Del. - Tôi nhấn mạnh. - John Coffey mơ thấy ác mộng, thế thôi.
- Gã là phù thủy! - Delacroix sôi nổi nói. - Có những giọt mồ hôi đọng ở môi trên của gã. Gã không thấy gì nhiều, chỉ đủ để làm gã sợ gần chết. - Gã là phù thủy hoodoo!
- Điều gì khiến chú em nói thế?
Delacroix đưa tay ra và cầm lấy con chuột trong một bàn tay. Gã khum lấy nó trong lòng bàn tay và đưa lên mặt. Từ trong túi áo, Delacroix lấy ra một mẩu màu hồng - một trong những viên kẹo bạc hà. Gã chìa ra, nhưng lúc đầu con chuột làm ngơ, vươn cổ về phía gã, ngửi mùi hơi thở gã theo cách người ta ngửi một bó hoa. Cặp mắt hạt thị của nó mở ti hí rất gần với nét biểu cảm khoái lạc. Delacroix hôn vào mũi nó, và con chuột cho phép mũi nó được hôn. Sau đó nó cầm lấy mẩu kẹo mời và bắt đầu nhấm nháp. Delacroix nhìn nó một lúc lâu hơn, rồi nhìn tôi. Đột nhiên tôi hiểu.
- Con chuột nói anh biết. - Tôi bảo. - Tôi nói đúng không?
- Oui - vâng.
- Giống như nó đã nói thầm tên cho anh biết.
- Oui, nó nói thầm vào tai tôi.
- Nằm xuống, Del. - Tôi ra lệnh. - Nghỉ nơi một chút đi. Tất cả những trò thì thầm tới lui hẳn làm chú mày mòn mỏi.
Gã nói điều gì khác, buộc tội tôi không tin gã, tôi cho là thế. Giọng gã có vẻ lại văng vẳng từ xa. Và khi trở lại bàn giấy, tôi hầu như không có vẻ đang bước đi chút nào, giống như tôi đang trôi bồng bềnh, hoặc thậm chí không di chuyển, các xà lim chỉ lan qua tôi ở cả hai bên.
Tôi bắt đầu ngồi xuống như bình thường, nhưng được nửa đường thì đầu gối bung ra và tôi rơi phịch xuống cái nệm màu xanh mà Harry mua từ quê nhà vào năm trước, rơi tõm lên mặt ghế. Nếu chiếc ghế không có đó, tôi nghĩ mình sẽ rơi thẳng xuống sàn nhà mà không có hiệu lệnh Đi hoặc lĩnh 200 đôla.
Tôi ngồi đó, cảm nhận cái không có trong hạ bộ, nơi một vụ cháy rừng đã hoành hành trước đó chưa đầy mười phút. Ta đã giúp, phải không? John Coffey đã nói, và đấy là sự thật, theo chừng mực thể xác tôi biến chuyển. Tuy vậy, sự bình an tâm hồn trong tôi lại là một chuyện khác. Điều đó thì gã không giúp được gì.
Mắt tôi bắt gặp xấp mẫu công văn dưới gạt tàn thuốc lá bằng thiếc mà chúng tôi để ở góc bàn. BÁO CÁO KHU được in trên đầu, và đến nửa trang là một khoảng trống có tiêu đề “Báo Cáo Tất Cả Những Sự Kiện Bất Thường”. Tôi sẽ sử dụng khoảng trống đó trong báo cáo đêm nay, kể lại câu chuyện về sự xuất hiện đầy ắp màu sắc và hành động của William Wharton. Nhưng giả sử tôi cũng báo cáo chuyện xảy ra với tôi trong xà lim của Coffey? Tôi thấy mình đang nhặt bút chì lên - cây bút mà Brutal luôn luôn liếm đầu - và viết đơn độc một từ bằng chữ in hoa to: PHÉP LẠ.
Điều đó hẳn là ngộ nghĩnh, nhưng thay vì mỉm cười, đột ngột tôi cảm thấy chắc mình sắp khóc. Tôi đặt tay lên mặt, lòng bàn tay áp vào miệng để chặn tiếng nấc - tôi không muốn làm Del sợ hãi lần nữa ngay khi gã bắt đầu dịu xuống - nhưng không có tiếng nấc. Cũng không có nước mắt. Sau vài giây phút, tôi bỏ tay xuống bàn và khoan lại. Tôi không biết mình đang có cảm giác gì và ý tưởng rõ ràng duy nhất trong đầu tôi là ao ước đừng ai ở lại Khu cho đến khi tự chủ được một chút. Tôi sợ điều người ta có thể thấy trên mặt tôi.
Tôi kéo một mẫu văn bản báo cáo Khu về phía mình. Tôi sẽ chờ đến khi bình tĩnh hơn một chút để viết về chuyện làm sao thằng nhóc có vấn đề mới nhất của tôi đã suýt nữa siết cổ Dean Stanton chết, nhưng trước mắt tôi có thể làm đầy đủ phần thủ tục văn bản ngớ ngẩn còn lại đã. Tôi nghĩ chữ viết của mình có vẻ buồn cười, run rẩy nhưng nó vẫn hiện ra như cũ.
Khoảng năm phút sau khi bắt đầu, tôi đặt bút xuống và đi vào phòng vệ sinh kề bên văn phòng để đi tiểu. Tôi không mắc tè lắm, nhưng có thể cố gắng đủ để thử nghiệm điều đã xảy ra cho tôi, tôi nghĩ vậy. Trong khi đứng đó, chờ dòng nước chảy ra, tôi chắc sẽ bị đau giống hệt như đã bị vào sáng nay, như thể đang đi qua những mẩu thủy tinh vỡ vụn, điều gã đã làm cho tôi sẽ hóa ra chỉ là thôi miên, xét cho cùng và như thế có lẽ là sự nhẹ nhõm mặc dù có cơn đau.
Ngoại trừ việc không có cơn đau nào cả và cái rơi xuống bồn cầu thì trong trẻo, không có dấu hiệu của mủ. Tôi cài nút quần, giật sợi xích dội cầu, trở về bàn trực và ngồi xuống lại.
Tôi biết điều gì đã xảy ra, tôi cho là tôi biết, kể cả khi cố thuyết phục bản thân rằng tôi bị thôi miên. Tôi đã được chữa lành, một Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ đích thực. Là một bé trai lớn lên đi nhà thờ Baptist, mẹ tôi và các chị em của bà tình cờ ưa thích chuyện trong bất cứ tháng chỉ định nào đó, tôi phải được nghe rất nhiều câu chuyện về phép lạ Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ. Tôi không tin tất cả những chuyện đó, nhưng có rất nhiều người tôi tin. Một trong những người đó là Roy Delfines, người đã sống với gia đình cách chúng tôi hai dặm ở cuối đường khi tôi lên sáu tuổi. Delfines đã chặt đứt ngón tay út của con trai mình bằng một cái rìu, một tai nạn xảy ra khi thằng bé bất ngờ di chuyển bàn tay đang giữ khúc củi cho bố chẻ trong sân sau. Roy Delfines nói rằng ông ta đã thực sự mài mòn tấm thảm bằng đầu gối của mình trong mùa thu và mùa đông năm đó, và đến mùa xuân thì ngón tay của thằng bé đã mọc lại. Thậm chí móng tay cũng mọc lại. Tôi tin Roy Delfines khi ông ta ra làm chứng trong bữa liên hoan đêm thứ năm. Có một sự chân thật không phức tạp, trần trụi trong điều ông ta nói khi ông ta đứng đó phát biểu với bàn tay nhét sâu trong túi quần khiến không thể không tin.
- Thằng bé bị ngứa khi ngón tay đó bắt đầu mọc ra, làm cho nó mất ngủ nhiều đêm. - Roy Delfines nói. - Nhưng cháu nó biết đấy là cơn ngứa của Chúa và mặc nhiên chấp nhận. Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ.
Câu chuyện của Roy Delfines chỉ là một trong nhiều chuyện, tôi đã lớn lên trong một truyền thống các phép lạ và chữa lành. Tôi lớn lên tin vào phép phù thủy gris-gris, cũng như nước thải chữa mụn cóc, rêu bỏ dưới gối để xoa dịu nỗi đau thất tình vã dĩ nhiên, cái chúng tôi thường gọi là hait - nhưng tôi không tin John Coffey là phù thủy gris-gris. Tôi đã nhìn vào mắt gã. Quan trọng hơn, tôi đã cảm nhận sự tiếp xúc của gã. Được gã sờ vào cũng giống như được sờ vào bởi một bác sĩ tuyệt vời và xa lạ nào đó.
- Ta đã giúp, phải không?
Câu đó cứ vang lên trong đầu tôi, như một đoạn ca khúc mà bạn không gạt bỏ được, hoặc những từ mà bạn sẽ thốt lên để ếm bùa.
- Ta đã giúp, phải không?
Ngoại trừ việc không phải gã giúp. Chúa đã giúp. Cách dùng từ “Ta” có thể gán cho sự dốt nát hơn là tính kiêu căng, nhưng tôi biết - ít nhất cũng là tin - điều tôi đã học về sự chữa lành trong các nhà thờ Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ, những góc cầu nguyện trong rừng thông mà người mẹ hai mươi mốt tuổi và các dì của tôi rất ưa thích: sự chữa lành đó không bao giờ về người được chữa hay người chữa, nhưng về ý Chúa. Một người vui mừng vì khỏi bệnh là chuyện bình thường, quả là điều không bất ngờ, nhưng người được chữa khỏi lúc ấy có bổn phận hỏi tại sao để suy ngẫm về ý Chúa và những tầm mức phi thường mà Chúa đã đến để hiện thực ý của Người.
Chúa muốn gì ở tôi, trong trường hợp này? Người muốn điều gì đủ mạnh để đặt quyền lực chữa lành vào tay một kẻ giết trẻ em? Để có mặt ở Khu, thay vì ở nhà, bệnh tật như một con chó, run rẩy trên giường với mùi hôi của thuốc Sulfa tỏa ra từ lỗ chân lông của tôi? Có lẽ, có thể tôi có nhiệm vụ ở đây thay vì ở nhà trong trường hợp Wild Bill Wharton quyết định giở thêm trò ma quỷ, hoặc để biết chắc Percy Wetmore không gây chuyện ngu ngốc điên rồ, có tiềm năng hủy hoại. Vậy được rồi. Cứ thế đi. Tôi sẽ mở to mắt... và giữ kín miệng, đặc biệt về những phép lạ chữa lành bệnh tật.
Không ai thắc mắc vặn hỏi chuyện dáng vẻ và giọng nói khá hơn của tôi, tôi bảo mọi người là tôi đã khá hơn và cho đến ngày ấy tôi thật tình tin đều đó. Thậm chí tôi còn bảo Giám thị Moores rằng tôi đang trên đà khỏi bệnh. Delacroix đã nhìn thấy điều gì đó, nhưng tôi nghĩ gã cũng sẽ giữ kín miệng (có lẽ vì sợ John Coffey ếm bùa nếu gã không làm thế). Về phần bản thân Coffey, có lẽ gã đã quên. Xét cho cùng, gã chỉ là đường ống dẫn, trên thế giới không có ống dẫn nào nhớ được luồng nước đã chảy qua nó một khi mưa đã dứt. Vì thế tôi quyết định kín miệng hoàn toàn về sự việc, không hề có ý tưởng bao lâu nữa tôi sẽ tiết lộ câu chuyện, hoặc ai là người sẽ được tôi tiết lộ cho biết.
Nhưng tôi tò mò về gã đàn ông to xác và thật vô lí nếu không thú nhận điều đó. Sau chuyện đã xảy ra với tôi trong xà lim của gã, tôi lại tò mò hơn bao giờ hết.