Thỉnh thoảng lại có người còn nằm bẹp, cố gương dậy, một số lại rụi xuống, nhưng trong số ngồi dậy được, Kunta nhận ra người thủ lĩnh Fula. Bác ta chảy máu rất dữ, vẻ mặt như thể là của một người tách biệt khỏi những gì đang diễn ra xung quanh. Kunta không nhận ra nhiều người mà anh trông thấy. Anh đoán họ ở tầng dưới. Họ là những người mà thủ lĩnh Fula bảo là sẽ báo thù cho những người ở tầng thứ nhất có thể phải hy sinh khi tấn công bọn tubốp. Cuộc tấn công! Thậm chí Kunta không còn đủ sức để nghĩ đến nó nữa.
Trên một số khuôn mặt quanh mình, kể cả mặt người bị cùm chung với anh, Kunta thấy cái chết đã in hằn rõ nét. Không hiểu tại sao, anh chắc chắn là họ sắp chết. Mặt người Uôlôf xám ngoẹt và mỗi khi bác ta hớp miệng để thở, lại có tiếng sủi bọt trong mũi. Cả đến xương vai và xương khuỷu tay bác ta, lòi ra qua da thịt trầy trợt, cũng xám xì. Hình như biết Kunta đang nhìn mình, người Uôlôf chấp chới mở mắt, nhìn lại Kunta nhưng không tỏ vẻ gì là nhận ra người quen cả. Bác ta là người vô đạo, nhưng... Kunta yếu ớt đưa một ngón tay chạm vào cánh tay người Uôlôf. Nhưng không có dấu hiệu gì tỏ ra bác ta nhận biết cái cử chỉ của Kunta hoặc hiểu ý nghĩa của nó.
Mặc dù không bớt đau, ánh nắng ấm bắt đầu làm cho Kunta cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Anh cúi mặt xuống và thấy máu ở lưng mình chảy xuống thành một vũng quanh chỗ ngồi - và bất giác, một tiếng run rẩy dâng lên cổ họng anh. Những tên tubốp cũng ốm yếu, mang chổi và xô hốt mửa và cứt đái, còn những tên khác khênh những chậu phân rác dưới hầm lên, đổ xuống biển.
Một lúc sau, anh ngửi thấy hơi dấm và hắc ín đun sôi, qua hàng lưới sắt, và tên trùm tubốp bắt đầu lách giữa đám người bị cùm để bôi thứ thuốc mỡ của hắn. Hắn đắp một mảnh vải có rắc bột lên những chỗ xương lòi ra, nhưng máu ri rỉ chảy lại mau chóng làm băng vải trôi tuột đi và rơi xuống. Hắn cũng banh miệng một số người kể cả Kunta và đổ vào cổ họng họ một chất gì từ một cái chai đen đen.
Khi mặt trời lặn, những người đã kha khá được cho ăn - ngô nấu với dầu cọ đỏ, cho vào một chậu nhỏ, bốc bằng tay. Rồi mỗi người được một gáo nước do một tên tubốp múc từ một cái thùng đặt dưới chân cây cột lớn nhất trong boong tàu. Đến lúc sao bắt đầu mọc, họ lại bị đưa xuống hầm, xích lại. Thế vào chỗ trống của những người đã chết ở tầng Kunta, là những người ốm nhất ở tầng dưới, tiếng kêu đau của họ càng lớn hơn trước.
Trong ba ngày, Kunta nằm giữa bọn họ trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê pha trộn những đau đớn, nôn mửa, sốt và kêu rên. Anh cũng ở trong số những người rũ rượi với những cơn ho khan cào cấu phổi. Cổ anh nóng ran, sưng lên và toàn thân đầm đìa mồ hôi. Chỉ có một lần, anh ra khỏi cơn mê mệt là khi anh cảm thấy một con chuột cọ ria vào hông mình; gần như do phản xạ tự nhiên, bàn tay tự do của anh phóng ra túm được đầu và phần trên con chuột. Sự việc xảy ra, chính anh cũng không thể tin. Tất cả nỗi cuồng nộ chất chứa trong anh bao lâu nay đổ dồn xuống cánh tay và bàn tay anh. Anh xiết mỗi lúc một chặt - con chuột giãy giụa và kêu choe chóe - cho đến khi anh cảm thấy mắt nó lòi ra, sọ nó nát rụn dưới ngón tay cái của anh. Lúc bấy giờ, sức lực mới rút đi khỏi những cánh tay anh và Kunta mới buông cái xác đã nát nhũn ra.
Một hai hôm sau, tên trùm tubốp bắt đầu đích thân xuống hầm tàu, mỗi lần đều phát hiện thêm - và tháo xiềng luôn thể - ít nhất là một cái xác không hồn. Khạc nhổ trong không khí hôi thối, trong khi những tên khác cầm đèn giơ lên soi cho hắn nhìn, hắn bôi thuốc mỡ, rắc bột và ấn cái cổ chai đen vào miệng những người còn sống. Kunta cố nén để khỏi kêu đau khi những ngón tay xát mỡ vào lưng anh hoặc cái chai chạm vào môi anh. Anh cũng rụt lại khi những bàn tay trắng trợt nọ chạm vào da mình, thà anh bị roi quất còn hơn. Và trong ánh đèn màu da cam, những bộ mặt tubốp mang một vẻ bềnh bệch chẳng có nét gì, mà anh biết nó sẽ không bao giờ bỏ buông tha tâm trí anh cũng như cái uế khí đang bao bọc anh vậy.
Nằm đó trong nhơ nhớp và sốt mê man, Kunta không còn biết là bọn anh đã ở trong bụng con tàu này hai tuần trăng hay sáu tuần trăng, hay thậm chí một vụ mưa. Cái người nằm cạnh lỗ thông hơi, có thể qua đó mà tính ngày giờ, đã chết rồi. Và giữa những người còn sống sót, cũng chẳng còn có giao lưu gì nữa.
Một lần, đang ngủ lơ mơ, choàng thức dậy, với một nỗi kinh hoàng không thể xác định, Kunta cảm thấy cái chết đang ở cạnh mình. Rồi, lát sau, anh nhận ra rằng mình không còn nghe thấy cái tiếng khò khè quen thuộc của người bạn cùm nằm bên nữa. Mãi một hồi lâu, Kunta mới dám quyết định thò tay sờ vào cánh tay bác ta. Anh khiếp hãi rụt lại vì cánh tay đó lạnh ngắt và cứng đờ. Kunta nằm run lảy bảy. Dù vô đạo hay không, thì anh và người Uôlôf này cũng đã trò chuyện với nhau, đã cùng nằm với nhau và giờ đây còn lại có mình anh.
Khi bọn tubốp lại mang món cháo ngô xuống, Kunta rúm người lại nghe tiếng rì rầm và tiếng nôn khan của chúng mỗi lúc một đến gần. Rồi anh cảm thấy một tên lay xác người Uôlôf và chửi thề. Sau đó, Kunta nghe thấy tiếng quèn quẹt xúc thức ăn như mọi khi vào xoong của anh và bọn tubốp, sau khi ấn chiếc xoong vào giữa anh và người Uôlôf bất động, tiếp tục đi xuống cuối dãy ván. Dù bụng đói đến đâu, lúc này Kunta cũng không thể nghĩ đến chuyện ăn uống.
Lát sau, hai tên tubốp đến tháo cùm chân và tay người Uôlôf tách rời khỏi Kunta. Choáng váng đến tê dại, anh lắng nghe tiếng cái xác bị kéo lê, va lục cục dọc lối đi và trên các bậc cầu thang. Anh định dịch xa khỏi chỗ trống đó, nhưng vừa cử động thì những chỗ trầy thịt liền cọ mạnh vào ván gỗ, khiến anh la lên đau đớn. Trong khi nằm yên cho đỡ đau, anh tưởng tượng như nghe thấy tiếng hờ của phụ nữ tại làng quê người Uôlôf khóc than cái chết của bác ta. "Tubốp fa!" anh rít lên trong bóng tối hôi thối, bàn tay bị cùm giựt loảng xoảng sợi dây xích nối liền với chiếc còng trống không của người Uôlôf.
Đợt lên boong lần sau, luồng mắt Kunta gặp cái nhìn đăm đăm của một trong những tên tubốp đã đánh đập anh và người Uôlôf. Trong một lúc, hai bên nhìn sâu vào mắt nhau và mặc dù tên tubốp nhăn mặt và nheo mắt hằn học, lần này không có ngọn roi nào giáng xuống lưng Kunta cả. Trong khi định thần lại sau phút ngỡ ngàng, Kunta nhìn qua boong tàu và lần đầu tiên kể từ khi nổ ra cơn phong ba, anh trông thấy toán phụ nữ. Tim anh trĩu xuống: trong số hai mươi chị em lúc đầu, chỉ còn lại có mười hai. Tuy nhiên, anh cũng cảm thấy nguôi bớt khi nhận ra là tất cả bốn em nhỏ đều sống sót.
Lần này, họ không bị kỳ cọ - những vết thương trên lưng đám tù nam quá đau đớn - và cuộc nhảy xiềng yếu ớt chỉ có tiếng trống đệm theo mà thôi, tên tubốp kéo cái khí cụ e é đã đi đời rồi. Gắng hết sức mình trong cơn đau đớn, những phụ nữ còn lại hát rằng một loạt tubốp nữa đã bị khâu vào trong những tấm vải trắng và vứt qua lan can tàu.
Tên tubốp tóc bạc, vẻ mặt rất mệt mỏi, đang mang món thuốc mỡ và cái chai đi giữa đám tù trần truồng thì một người, cổ tay và cổ chân lủng lẳng đôi còng trống không của một người bạn cùm đã chết, lao vụt từ chỗ đang đứng ra lan can tàu. Gã đã vắt nửa người qua hàng lan can thì một trong những tên tubốp gần đấy đuổi kịp và nắm được chuỗi xích lòng thòng đằng sau đúng vào lúc gã nhảy xuống. Một lát sau, người gã chung chiêng vào mạn tàu và những tiếng rống tắc nghẹn của gã vang lên. Bỗng nhiên, Kunta nghe thấy rõ mồn một mấy từ tubốp giữa những tiếng kêu. Một tiếng rít se sẽ nổi lên trong đám người bị xiềng không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là tên hắc gian thứ hai. Trong khi tên này vập mình vào vỏ tàu - miệng rít lên: "tubốp fa!" rồi lại van xin tha thứ - tên trùm tubốp đi tới chỗ lan can và nhìn xuống. Nghe ngóng một lúc, hắn bỗng giựt phắt đoạn xích khỏi tay tên tubốp kia và thả cho tên hắc gian rơi xuống biển trong tiếng la thét. Rồi, chẳng nói chẳng rằng, hắn quay lại tiếp tục công việc xoa thuốc mỡ và rắc bột vào các vết thương, như không có chuyện gì xảy ra.
Tuy roi vọt có thưa đi hơn, nhưng bây giờ bọn gác có vẻ gờm đám tù nhân. Mỗi lần những người tù được đưa lên boong, bọn tubốp vây chặt họ, gậy phun lửa lăm lăm và dao tuốt trần như thể bất cứ lúc nào họ cũng có thể tấn công được. Nhưng riêng về phần Kunta, tuy khinh ghét bọn tubốp hết sức mình, anh không thiết đến chuyện giết chúng nữa. Anh ốm yếu đến nỗi thậm chí bản thân mình sống hay chết anh cũng bất cần. Ở trên boong, anh chỉ nằm nghiêng và nhắm mắt lại. Anh cảm thấy bàn tay tên trùm tubốp bôi thuốc mỡ trên lưng mình. Rồi, trong một lúc anh không cảm thấy gì khác ngoài ánh nắng ấm áp, và chỉ ngửi thấy mùi gió biển mát rượi, và nỗi đau đớn tan thành một cảm giác mông lung an tĩnh - hầu như sung sướng - chờ chết để về chầu tổ tiên.
Thỉnh thoảng, ở dưới hầm, Kunta nghe thấy đâu đó có tiếng thì thầm và anh tự hỏi không biết họ có thể nghĩ ra chuyện gì để nói nhỉ? Và lợi ích gì kia chứ? Người bạn cùm Uôlôf của anh đã tịch rồi và cái chết đã cướp đi một số người có thể phiên dịch cho anh em khác. Vả chăng, chuyện trò bây giờ tốn quá nhiều sức lực. Mỗi ngày Kunta một thấy yếu hơn và nhìn thấy những điều xảy đến với một số người khác, quả là chẳng phấn khởi gì. Ruột họ bắt đầu tháo ra một hỗn hợp lẫn cả máu vón cục và đờm đặc xam xám vàng vàng hôi thối kinh khủng.
Bữa đầu ngửi thấy và trông thấy chất bài tiết độc hại ấy, bọn tubốp cuống lên. Một tên chạy bổ trở lên qua cửa hầm và mấy phút sau, tên trùm tubốp xuống. Vừa nôn khan, hắn vừa ra hiệu một cách gay gắt cho những tên kia tháo cùm cho những tù nhân đang la thét và mang họ ra khỏi hầm. Phút chốc thêm nhiều tên tubốp nữa quay trở lại, mang theo đèn, xẻng chổi và xô. Vừa nôn oẹ, thở hổn hển và chửi thề, chúng vừa hót và cọ đi cọ lại những dãy ván nằm của những người ốm vừa được mang đi. Rồi chúng tưới dấm đun sôi lên những chỗ đó và chuyển những người nằm cạnh đó sang những quãng trống ở xa hơn.
Song chẳng ăn thua gì, vì cái bệnh ỉa ra máu truyền nhiễm ấy - mà Kunta nghe thấy bọn tubốp gọi là "kiết lỵ" cứ lan hoài, lan mãi. Chẳng bao lâu, anh cũng quằn quại với những cơn đau đầu và đau lưng, rồi sốt nóng hầm hập và sốt rét run người, để rồi cuối cùng thấy ruột gan thắt lại, tháo ra cái chất lầy nhầy máu, mùi khắm lặm. Tưởng chừng ruột gan cũng xổ ra theo, Kunta gần như ngất đi vì đau. Giữa những tiếng la thét, anh gào lên những điều mà chính anh cũng khó tin rằng mình đang thốt ra: "Ômôrô - Ômar, Khalíp[1] Đệ nhị, hàng thứ ba sau đấng Tiên tri Mahamad! Kairaba - Kairaba nghĩa là bình an!" Cuối cùng gào mãi, giọng anh khản đặc lại và hầu như chìm đi không nghe thấy được giữa tiếng nức nở của những người khác. Trong vòng hai ngày hầu như tất cả mọi người trong hầm đều đã mắc kiết lỵ.
Giờ đây, những bọng máu cứ long tong giỏ từ ván nằm xuống lối đi và bọn tubốp không có cách nào tránh khỏi quệt phải hoặc giẫm lên nó khi chúng xuống hầm. Bây giờ, mỗi ngày tù nhân lại được đưa lên boong, trong khi bọn tubốp mang những xô dấm và hắc ín xuống đun sôi bốc hơi để tẩy uế hầm tàu. Kunta cùng các bạn tù chệnh choạng trèo lên qua cửa hầm, đi qua boong tới gieo mình xuống một chỗ và chỗ đó phút chốc đã bê bết máu từ lưng họ và phân lỏng bài tiết từ ruột họ. Mùi không khí thoáng mát như truyền khắp người Kunta, từ đầu đến chân và khi trở về hầm, mùi dấm và hắc ín cũng tác động như vậy, mặc dầu nó chẳng bao giờ có thể dập tắt được sự hôi thối của kiết lỵ.
Trong cơn mê sảng, Kunta thấy loé lên hình ảnh bà nội Yaixa nằm chống tay trên giường nói chuyện với anh lần cuối cùng, khi anh mới là một đứa con nít, và anh nghĩ tới bà Nyô Bôtô, tới những truyện cổ tích bà kể hồi còn ở lứa kafô đầu, như chuyện con cá sấu bị mắc bẫy trên sông và chú bé đến giải thoát cho nó. Miệng rên rẩm và lắp bắp, anh vùng vẫy cấu, đạp mỗi khi bọn tubốp đến gần.
Chẳng bao lâu, phần lớn tù nhân không đủ sức bước đi nữa và bọn tubốp phải dìu họ lên boong để tên tóc bạc có thể bôi cái thứ thuốc mỡ vô hiệu của hắn giữa ánh sáng ban ngày. Ngày nào cũng có người chết và bị vứt qua lan can tàu, trong đó có mấy phụ nữ nữa và hai trong bốn đứa nhỏ - kể cả một số tubốp. Nhiều tên tubốp sống sót phải khó nhọc lắm mới lê được cái thân xác đi quanh quẩn và một trong những tên điều khiển bánh xe của con xuồng lớn phải đứng sẵn trong một cái chậu hứng phân kiết lỵ của y.
Ngày và đêm cứ quyện lẫn vào nhau, cho đến một hôm, Kunta và một số ít tù nhân khác còn có thể lê lết lên khỏi cửa hầm, bỗng trố mắt ngạc nhiên nhìn một tấm thảm rong biển màu vàng óng đang dập dềnh trên mặt nước ở mãi cuối tầm nhìn của họ. Kunta biết rằng biển không thể cứ kéo dài đến vô tận và giờ đây xem chừng như con xuồng lớn sắp sửa đi quá bờ mép của thế giới - nhưng thực ra anh cũng bất cần. Trong thâm tâm anh cảm thấy mình đang tới gần cái kết thúc; anh chỉ không chắc có một điểm là mình sẽ chết bằng cách nào đây.
Anh lờ mờ nhận thấy những tấm vải trắng lớn đang rủ xuống không đầy căng gió như trước nữa. Trên những cây cột, bọn tubốp đang kéo mớ dây dợ nhằng nhịt để xoay những tấm vải sang bên này bên nọ, cố hứng lấy chút gió. Từ tay bọn đứng dưới boong, chúng kéo lên những xô nước, vã vào các tấm vải lớn. Song con xuồng lớn vẫn thiếu gió và chỉ dềnh tới dềnh lui nhè nhẹ trên sóng.
Tất cả bọn tubốp lúc này đều cáu bẩn, thậm chí tên tóc bạc quát cả tên bạn sẹo mặt của hắn, tên này chửi bới đánh đập thủ hạ dữ hơn mọi khi và đến lượt bọn này lại đánh nhau nhiều hơn trước. Nhưng những người tù không bị đánh nữa, trừ một vài trường hợp hiếm hoi, và họ bắt đầu được ở trên boong hầu như suốt cả ban ngày, và điều khiến Kunta ngạc nhiên là mỗi ngày họ được cả một "banh"[2] nước đầy.
Một buổi sáng, khi được đưa từ dưới hầm lên, đám tù trông thấy hàng trăm con cá chim chất đống trên boong. Toán phụ nữ hát rằng đêm qua tubốp đã bật đèn trên boong để nhử cá và chúng đã bẫy lên tàu, sau đó vùng vẫy mãi cũng không thoát nổi. Đêm ấy, cháo ngô được nấu với cá chim và vị cá tươi làm Kunta thích thú đến gai người. Anh ngấu nghiến chén sạch cả xương.
Lần sau, khi rắc cái thứ bột màu vàng xót cứng lên lưng Kunta, tên trùm tubốp đắp vào vai phải anh một tấm băng dày. Kunta hiểu thế nghĩa là xương anh bắt đầu lộ ra, như trường hợp của biết bao người khác, đặc biệt là những người gày chỉ có tí tẹo thịt bọc xương. Miếng băng lại làm cho vai Kunta đau hơn trước. Tuy nhiên, trở xuống hầm chưa được bao lâu thì máu chảy ri rỉ đã thấm đẫm vải băng làm cho nó tuột mất. Điều đó chẳng hệ trọng gì. Đôi khi tâm trí anh miên man ngẫm nghĩ về những khủng khiếp đã trải qua hoặc về nỗi ghê tởm sâu xa của anh đối với tất cả giống tubốp, song phần lớn anh chỉ nằm trong bóng tối hôi thối, mắt dính nhoèn một chất rử vàng vàng, hầu như không ý thức được là mình hãy còn sống.
Anh nghe thấy những người khác kêu la hoặc cầu Chúa Ala cứu vớt, nhưng anh chẳng biết hoặc chẳng cần biết họ là ai. Anh thường vật vờ chìm trôi vào những giấc ngủ thảng thốt, chập chờn những mảnh mộng linh tình, nào là thấy mình đang làm đồng ở Jufurê, nào những trại ấp xanh rờn cây lá, nào cá nhảy tanh tách từ mặt sông phẳng như gương, nào đùi nai nướng trên đống than hồng, nào những bầu nước trà bốc hơi pha mật ong. Rồi trở lại thao thức, đôi khi anh nghe thấy mình đang lảm nhảm thốt ra những lời dọa nạt cay độc không ăn nhập vào đâu, rồi, ngược với ý muốn của mình, lại lớn tiếng cầu xin được nhìn thấy gia đình lần cuối cùng. Mỗi một người thân - Ômôrô, Binta, Lamin, Xuoađu, Mađi - là một hòn đá trong tim anh. Lòng anh quặn đau khi nghĩ rằng mình đã gây buồn khổ cho họ. Cuối cùng anh cố lái tâm trí hướng sang chuyện khác nhưng không ăn thua. Ý nghĩ của anh cứ luôn luôn quay về một cái gì đại loại như cái trống mà anh sắp sửa làm cho bản thân mình. Anh nghĩ đến chuyện đáng lẽ phải có thể tập xử trống trong những đêm gác ngoài ruộng lạc, ở đó không ai nghe thấy được những chỗ đánh lỗi... Nhưng đến đây, anh lại nhớ đến hôm đi đẵn cái thân cây để làm trống và tất cả mọi chuyện lại ùa trở về trong đầu.
Trong số những người còn sống, Kunta là một trong những kẻ cuối cùng còn đủ sức tụt khỏi ván nằm và leo các bậc thang lên boong, không cần có người dìu. Nhưng rồi đôi chân kiệt lực của anh cũng bắt đầu run và bủn nhủn, và cuối cùng, cả anh nữa cũng phải nửa khiêng nửa kéo lết lên boong. Anh ngồi rũ ra, rên khe khẽ, đầu gục giữa hai đầu gối, mắt toét nhoèn nhắm tịt, chờ đến lượt làm vệ sinh. Bọn tubốp giờ đây dùng một miếng bọt bể lớn có thấm xà phòng, vì sợ bàn chải cứng sẽ làm trầy thêm lưng những người tù vốn đã rách nát và ứa máu. Dù sao Kunta cũng vẫn còn khá hơn số đông chỉ còn nằm nghiêng được, coi bộ như đã ngừng thở.
Trong tất cả bọn họ, chỉ có số phụ nữ và trẻ con còn lại là tương đối khỏe mạnh, họ không bị cùm xích dưới hầm tối với mọi thứ bẩn thỉu, hôi thối, chuột bọ và truyền nhiễm. Người phụ nữ sống sót lớn tuổi nhất vào trạc Binta tên là Mbutô, một người Manđinka ở làng Kêrêoan; tư thế bà đường hoàng và trang nghiêm đến nỗi thậm chí trong sự khỏa thân, bà vẫn như đầy đủ xiêm y. Ngay cả bọn tubốp cũng không dám ngăn bà đi lại, an ủi những tù nam nằm liệt trên boong, xoa ngực và trán hầm hập sốt của họ. "Mẹ! Mẹ!" Kunta thì thào khi cảm thấy bàn tay êm ái của bà, và một người khác, yếu quá không nói được, chỉ hé miệng trong một cố gắng để mỉm cười.
Cuối cùng, thậm chí Kunta không thể ăn được nếu không có người bón. Các bắp thịt ở vai và khuỷu tay anh tướp ra đến nỗi anh không thể nhấc nổi tay để vục vào xoong thức ăn. Bây giờ, tù nhân thường được cho ăn ở trong boong và một hôm Kunta đang cào cào móng tay để với qua mép xoong thì tên tubốp mặt sẹo trông thấy. Hắn sủa ra một mệnh lệnh cho một tên cấp dưới ấn một cái ống rỗng vào miệng Kunta và đổ cháo vào đó. Sặc sụa với chiếc ống, Kunta vừa phì nhớt rãi vừa cố nuốt ực đi, rồi quều quào nằm xấp bụng xuống.
Trời càng ngày càng nóng và ngay cả trên boong, mọi người vẫn thấy ngột ngạt mệt nhoài trong không khí lặng tờ. Nhưng sau một ít ngày nữa, Kunta bắt đầu cảm thấy một hơi gió mát. Những tấm vải lớn trên các cột cao lại bắt đầu lật phật và chẳng bao lâu đã phất phới trong gió. Đám tubốp trên đó lại nhảy nhót như khỉ và phút chốc, con xuồng lớn rẽ nước băng băng, bọt cuộn lên trắng xóa ở đằng mũi.
Sáng hôm sau, nhiều tubốp hơn mọi khi xầm xầm đi xuống qua cửa hầm và sớm hơn bao giờ hết. Với một niềm phấn khởi lớn biểu lộ qua lời nói và cử chỉ, chúng hối hả chạy dọc theo những lối đi, tháo xiềng cho tù nhân và hấp tấp dìu họ lên boong. Lập cập bước qua cửa hầm sau một số người đi trước, Kunta hấp háy mắt trong ánh nắng ban mai, rồi nhìn thấy những tên tubốp khác và toán phụ nữ, trẻ em đứng ở lan can tàu. Cả bọn tubốp đều cười ha hả, hoan hô và hoa chân múa tay loạn xị. Ghé qua khoảng giữa những tấm lưng sứt sẹo của các tù nhân khác, Kunta hiêng hiếng mắt và rồi trông thấy...
Mặc dầu còn lờ mờ ở đằng xa, rành rành đó là một mảnh đất của Chúa Ala, không thể lầm được. Quả là những tên tubốp này có một chỗ để đặt chân thật, một vùng đất đai mà tổ tiên xa xưa bảo là trải suốt từ nơi mặt trời mọc đến nơi mặt trời lặn. Toàn thân Kunta run lên. Mồ hôi hột toát ra và lấp lánh trên trán anh. Cuộc hành trình đang kết thúc. Anh đã sống qua cả chặng đường đó. Nhưng rồi phút chốc, nước mắt anh giàn giụa, làm đường duyên hải nhòe đi thành một làn sương mù xám, chập chờn, vì Kunta biết rằng bất cứ cái gì sắp tới cũng sẽ càng tệ hại hơn.
Chú thích:
[1] Vua Hồi.
[2] Khoảng nửa lít