Có một số người theo anh chàng Uôlôf chủ trương tấn công bọn tubốp khi nào chúng xuống đông ở dưới hầm tàu, nơi mà đám tù nhân có thể nhìn tinh tường hơn chúng và nắm yếu tố bất ngờ lớn nhất - nhưng kế hoạch này bị những người khác bác bỏ, coi là điên rồ, họ vạch rõ rằng đa số bọn tubốp vẫn còn ở trên boong và do đó có thể tiêu diệt những người bị xiềng bên dưới như một lũ chuột. Thỉnh thoảng, khi việc tranh cãi giữa người Uôlôf và người Fula đi đến chỗ to tiếng vị thủ chỉ lại can thiệp răn họ bình tĩnh hơn kẻo bọn tubốp có thể nghe thấy.
Bất luận ý kiến của thủ lĩnh phe nào cuối cùng sẽ thắng, Kunta vẫn sẵn sàng chiến đấu đến chết. Anh không thấy sợ chết nữa. Một khi đã xác định là mình sẽ chẳng bao giờ về nhà gặp lại gia đình được nữa, anh cảm thấy thế cũng coi như chết rồi. Nỗi lo sợ duy nhất của anh bây giờ là mình có thể chết mà không tự tay giết được ít nhất một tên tubốp. Nhưng người thủ lĩnh mà Kunta ngả theo ủng hộ - anh cảm thấy đa số anh em cũng vậy - là anh chàng Fula thận trọng, mình đầy vết roi đóng sẹo. Đến nay Kunta đã phát hiện ra phần lớn tù nhân ở trong hầm là người Manđinka và mọi người Manđinka đều biết rất rõ rằng dân Fula xưa nay vốn nổi tiếng là sẵn sàng bỏ hàng năm, thậm chí cả cuộc đời, nếu cần, để báo thù bằng cách giết bất cứ kẻ nào xúc phạm nặng nề đến họ. Nếu kẻ nào giết chết một người Fula và trốn thoát, các con trai người ấy sẽ không bao giờ chịu ngồi yên, kỳ cho đến một ngày nào họ tìm ra hung thủ và giết chết hắn.
"Chúng ta phải đoàn kết như một người đằng sau thủ lĩnh mà ta nhất trí lựa chọn", vị thủ chỉ khuyên như vậy. Những người theo anh chàng Uôlôf làu nhàu bực bội, song rõ ràng là đa số đã đứng về phe người Fula, nên bác ta mau chóng ra một mệnh lệnh đầu tiên. "Ta cần xem xét mọi hành động của bọn tubốp bằng đôi mắt của chim ưng. Và khi thời cơ tới, chúng ta phải là chiến sĩ". Bác dặn mọi người làm theo lời khuyên của người phụ nữ bảo họ nên làm bộ sung sướng khi nhảy xiềng trên boong. Điều đó sẽ làm cho bọn tubốp lơi lỏng việc canh phòng, dễ đánh úp hơn và người Fula còn bảo mọi người cần tỉnh mắt xác định vị trí mọi vật giống như vũ khí mà mình có thể nhanh chóng vớ lấy sử dụng. Kunta rất hài lòng với bản thân vì trong những lần lên boong, anh đã phát hiện thấy một cái cọc buộc lỏng lẻo dưới một quãng lan can mà anh định sẽ giựt ra dùng làm một ngọn giáo đâm vào bụng tên tubốp gần nhất. Mọi lần nghĩ đến, anh lại xiết chặt ngón tay quanh cái cán giáo tưởng tượng.
Những lúc bọn tubốp giật mạnh cửa hầm ra và đi xuống, vừa quát tháo vừa khoa roi, Kunta cứ nằm im phăng phắc như một con thú rừng. Anh nhớ tới lời kintangô hồi rèn luyện trưởng thành nhắc nhở rằng người đi săn phải học những gì chính Chúa Ala đã dạy cho thú vật: làm thế nào trốn và theo dõi những nhà đi săn đang lùng giết chúng. Kunta đã nằm hàng giờ ngẫm nghĩ về chuyện bọn tubốp có vẻ thích gây đau đớn cho người khác. Anh kinh tởm nhớ lại những lần thấy bọn tubốp cười ha hả khi vung roi quất tù nhân - đặc biệt những người mang đầy những vết lở loét đau đớn trên mình. Kunta cũng chua xót hình dung trong óc cảnh những tên tubốp cưỡng bức đẩy phụ nữ vào những góc tối của con tàu ban đêm, anh tưởng như nghe thấy tiếng chị em la thét. Phải chăng bọn tubốp không có đàn bà của riêng chúng? Phải chăng vì thế mà chúng săn đuổi vợ người khác như đàn chó? Giống tubốp dường như không tôn trọng cái gì cả, dường như bọn chúng không hề có Chúa, thậm chí không hề có thần linh nào để mà thờ.
Điều duy nhất có thể khiến tâm trí Kunta lãng khỏi chuyện tubốp - và làm thế nào để giết chúng - là lũ chuột ngày càng trở nên táo tợn hơn. Ria mũi chúng cù nôn giữa hai cẳng chân Kunta mỗi khi chúng sục vào cắn một nốt đau rỉ máu hoặc mưng mủ. Nhưng bọ chét thì lại thích cắn trên mặt anh hơn và hút chất lỏng ở khóe mắt Kunta hoặc nhớt rãi chảy ra từ hai lỗ mũi. Anh cứ phải vặn mình, thọc ngón tay bấu hoài, bắt được con nào là lấy móng tay giết đôm đốp. Song tệ hơn cả chuột bọ là những chỗ đau ở vai, khuỷu tay và mông Kunta giờ đây rát như lửa đốt do bao tuần lễ liên tục nằm cọ mình vào những tấm ván gỗ cứng, sần sùi. Anh đã thấy những mảng trầy da tướp máu trên mình những người tù khác khi họ lên boong, và mỗi lần con tàu lớn hơi đảo hoặc chòng chành hơn bình thường một chút là chính anh lại đau rú lên cùng với họ.
Và Kunta thấy là khi lên boong, một số tù nhân đã bắt đầu hành động như những cái xác bị quỷ nhập - mặt họ mang một vẻ nói lên rằng họ không sợ hãi gì nữa vì giờ đây, sống hay chết, họ cũng bất cần. Ngay cả lúc roi vọt giáng xuống họ cũng chỉ phản ứng một cách chậm chạp. Khi được kỳ cọ xong, một số thậm chí hoàn toàn không còn sức để nhảy xiềng nữa và tên trùm tubốp tóc bạc, vẻ lo ngại, ra lệnh cho những tên kia để họ ngồi xuống và họ làm theo, trán gục trên đầu gối, một thứ mủ loãng hồng hồng chảy xuôi trên những tấm lưng xầy da tróc thịt. Thế rồi tên trùm tubốp dằn đầu họ ật ra sau và đổ vào miệng họ một chất gì đó khiến họ sặc sụa. và một số người lả đi khuỵu xuống, không động cựa gì được và bọn tubốp bèn khiêng họ trở xuống hầm. Đa số những người này đều chết, và trước đó, Kunta đã biết họ dụng tâm tự hủy hoại mình bằng cách nào đó cho đến chết.
Nhưng tuân lệnh người Fula, Kunta và phần lớn anh em cố gắng làm bộ vui thích khi nhảy xiềng, mặc dù nỗ lực đó tựa hồ một mụn loét trong tâm hồn họ. Tuy nhiên, có thể thấy là khi thái độ đó làm cho bọn tubốp buông lỏng hơn, thì roi vọt có bớt đi và anh em được phép ở lại trên boong tàu đầy ánh nắng lâu hơn trước. Sau khi chịu đựng những xô nước biển và sự tra tấn của những bàn cọ trên mình, Kunta cùng những tù binh khác ngồi xổm nghỉ ngơi và theo dõi mọi cử động của bọn tubốp nào là chúng thường đứng cách quãng bao nhiêu dọc theo lan can, nào là chúng vẫn luôn giữ vũ khí kề sát bên mình, khó mà cướp được. Bất cứ lúc ngắn ngủi nào có tên tubốp dựa tạm súng vào hàng song sắt, đều không lọt khỏi mắt một ai. Trong khi ngồi trên boong, mường tượng trước tới ngày họ sẽ tiêu diệt bọn tubốp, Kunta cứ thắc mắc về cái vật đồ sộ bằng kim khí chõ vòi qua hàng rào. Anh hiểu rằng bằng bất cứ giá nào của bao nhiêu sinh mạng, cũng phải chế ngự và cướp lấy cái vũ khí này, vì mặc dầu không rõ đích xác nó là cái gì, anh vẫn biết nó có khả năng hủy diệt ghê gớm và tất nhiên bọn tubốp đặt nó ở đây chính vì lẽ đó.
Anh cũng thắc mắc về mấy tên tubốp nọ cứ luôn luôn quay cái bánh xe của con xuồng lớn, bên này một tí bên kia một tí, trong khi đăm đăm nhìn vào một mặt tròn nâu nâu bằng kim khí trước mặt chúng. Có lần ở dưới hầm, vị thủ chỉ đã nói lên ý nghĩ của bản thân anh. "Nếu những tên tubốp đó bị giết thì ai sẽ lái con xuồng này?". Và thủ lĩnh Uôlôf bèn trả lời là cần phải bắt sống những tên tubốp đó. "Kề giáo vào cổ chúng", bác ta nói, "chúng sẽ phải đưa chúng ta trở về đất nước, kẻo chúng sẽ chết". Chỉ nghĩ đến chuyện có thể thực sự thấy lại đất nước, nhà cửa, gia đình mình một lần nữa, Kunta đã thấy sướng rợn cả xương sống. Nhưng nếu việc đó xảy đến - anh nghĩ - thì tới lúc già lụ khụ, anh cũng khó quen được, dù chỉ là một chút xíu, những hành động của bọn tubốp đối với anh.
Trong Kunta còn náu một nỗi sợ nữa, là bọn tubốp có thể tinh ý nhận thấy cái mới mẻ trong cách nhảy xiềng của đám tù khi ở trên boong, vì giờ đây họ nhảy múa thật sự, họ không thể ngăn những động tác của mình biểu lộ những điều sâu kín trong tâm trí: những cử chỉ thoăn thoắt tung cùm xích, rồi bổ, rồi bóp cổ, xỉa, giết. Trong khi nhảy múa, Kunta và anh em khác thậm chí còn hú đến khản giọng, mường tượng trước cuộc tàn sát. Song khi điệu nhảy kết thúc và anh lại tự kiềm chế được, Kunta nhẹ hẳn người thấy bọn tubốp không nghi ngờ gì cả chỉ nhe răng cười khoái trá. Rồi một hôm trên boong, đám tù nhân đột nhiên đứng chôn chân ngỡ ngàng, và cùng bọn tubốp, trân trân nhìn một bày hàng trăm con cá bay trên mặt biển như những con chim hạc. Đang ngây người ngắm, chợt Kunta nghe thấy một tiếng thét. Quay ngoắt lại, Kunta trông thấy anh chàng Uôlôf xăm mình, dữ tợn, đang giựt một cái gậy kim khí khỏi tay một tên tubốp. Vung nó như một cái chùy, anh ta choảng tên tubốp phọt óc lênh láng sàn tàu: trong khi bọn tubốp còn lại bật khỏi tư thế ngây như phỗng vì choáng váng, anh quật một tên nữa ngã xuống sàn boong. Sự việc xảy ra mau lẹ đến nỗi anh chàng Uôlôf gầm rít điên cuồng đã chuyển sang nện tên tubốp thứ năm, bọn chúng mới kịp phản ứng: loáng cái một lưỡi dao dài lia rất ngọt, tiện đứt đầu anh, sát ngang vai. Cái đầu chạm vào sàn tàu trước khi thân anh rụng xuống và cả hai bộ phận cơ thể đều phọt máu từ chỗ bị chém cụt. Trên bộ mặt đôi mắt vẫn mở trừng trừng, coi bộ rất sửng sốt.
Giữa những tiếng rú hoảng hốt, bọn tubốp nhốn nháo đổ tới hiện trường mọi lúc một đông, đứa xô ra khỏi cửa, đứa từ trên cao giữa đám buồm trắng phất phới tụt xuống như khỉ. Trong khi toán phụ nữ kêu thất thanh, những tù nam bị còng xúm lại với nhau thành một vòng tròn. Những cây gậy kim khí sủa ra lửa và khói, rồi cái vòi đen đồ sộ nó phụt ra một tiếng gầm như sấm cùng với một đám hơi nóng và khói ngay trên đầu họ; thất đảm, họ la hét và rúi rụi vào nhau.
Từ sau hàng rào, tên tubốp đầu sỏ và tên sẹo mặt lao ra, cả hai đều gào thét điên cuồng. Tên to lớn đánh tên tubốp đứng gần nhất một cú hộc máu mồm, rồi tất cả bọn còn lại tập hợp lại thành một cụm, la hét, quát tháo, vung roi, dao, gậy phun lửa, ùa nhau dồn đám tù về phía cửa hầm tàu để ngỏ. Kunta cất bước, không cảm thấy những ngọn roi quất vào mình, vẫn chờ hiệu lệnh tấn công của người Fula. Nhưng hầu như trước cả lúc anh kịp ý thức ra thì tất cả đã ở dưới hầm và bị xiềng trở lại chỗ cũ tối mò, rồi cửa hầm xập xuống.
Song không phải chỉ có mình họ. Trong cơn náo loạn, một tên tubốp đã bị mắc kẹt vào giữa bọn họ và bị cuốn theo xuống. Hắn đâm nhào hết chỗ này sang chỗ kia trong bóng tối, vấp rúi rụi, va đầu vào các ván nằm, khiếp đảm la hét, lồm cồm bò dậy mỗi khi ngã, rồi lại chạy nháo nhác. Tiếng hắn rống nghe như tiếng một con thú thời nguyên thủy nào đó "Tubốp fa" một người hô và những giọng khác hòa theo: "Tubốp fa! Tubốp fa!". Họ hô, mỗi lúc một lớn vì mỗi lúc lại có thêm người tham gia vào bản hợp xướng đó. Dường như tên tubốp cũng biết họ hô vậy là nhằm vào hắn, nên hắn thốt ra những tiếng như van xin. Trong khi đó, Kunta nằm im như bị đóng băng, không một cơ bắp nào cử động được. Đầu đập thình thịch, mình đầm đìa mồ hôi, anh đang hớp miệng để thở. Đột nhiên, cửa hầm xịch mở và khoảng một tá tubốp nện gót trên cầu thang xuống hầm. Mấy ngọn roi quất xuống người tên tubốp bị mắc kẹt trước khi hắn kịp báo cho bọn kia biết hắn là người của chúng.
Rồi dưới làn roi tàn bạo, đám người lại được tháo xích, và bị đấm đá xô đẩy lên boong, tại đây, chúng bắt họ đứng xem bốn tên tubốp dùng những cây roi gộc đánh nát nhừ cái xác không đầu của người Uôlôf. Thân thể trần truồng của những người tù bóng nhẫy mồ hôi và máu từ những vết roi và mụn loét, nhưng hầu như không ai rỉ ra một tiếng kêu. Lúc này, mỗi tên tubốp đều vũ trang khắp người, mặt bừng bừng sát khí, trong khi chúng đứng thành một vòng tròn vây quanh họ, mắt ngó trân trân và miệng thở hổn hển. Rồi những người tù lại bị quất roi lùa xuống hầm và xích lại chỗ cũ.
Hồi lâu, không ai dám hé răng thì thào. Khi nỗi kinh hoàng đã dịu xuống để tâm trí có thể suy nghĩ, một dòng thác ý nghĩ và xúc động bỗng xâm chiếm Kunta, trong đó nổi lên cái cảm giác là không phải chỉ một mình anh khâm phục sự dũng cảm của người Uôlôf đã chết như một chiến sĩ. Anh nhớ lại cái dự cảm rấm rứt của chính mình, là thủ lĩnh người Fula sẽ ra hiệu tấn công - nhưng hiệu lệnh đó đã không đến. Kunta thấy chua xót, vì bất kể cơ sự có thể xoay vần ra thế nào, lẽ ra bây giờ mọi chuyện đã xong cả rồi; và tại sao lại không chết luôn đi? Liệu thời kỳ sắp tới có tốt đẹp hơn gì không? Có lý do gì để tiếp tục níu lấy cái cuộc sống ở đây trong bóng tối xú uế này? Anh hết lòng cầu ước giá mình có thể trao đổi với người bạn cùm như trước đây, song khốn nỗi bác ta lại là người vô đạo.
Những tiếng xầm xì tức giận vì nỗi người Fula đã bỏ qua không hành động, ngừng bặt khi một lệnh đột ngột được truyền đi từ chỗ bác ta: lần sau bác ta thông báo khi anh em ở tầng hầm này lên tắm và nhảy xiềng trên boong sẽ khởi sự tấn công vào lúc bọn tubốp tỏ ra lơi lỏng nhất. "Nhiều người trong chúng ta sẽ chết", người Fula nói "như người anh em vừa rồi đã chết vì chúng ta - song anh em ở tầng dưới sẽ báo thù cho chúng ta".
Những tiếng trầm trồ tán thưởng lan đi. Nằm trong bóng tối, Kunta lắng nghe tiếng một cái giũa đánh cắp được đang xèn xẹt cứa vào dây xiềng. Hàng tuần nay, anh vẫn biết rằng những vết giũa được trét cẩn thận bằng các thứ bẩn thỉu để bọn tubốp khỏi trông thấy. Anh khắc vào tâm trí bộ mặt của những tên quay bánh xe lớn của con tàu vì chúng sẽ là những tên duy nhất được tha mạng sống.
Nhưng trong cái đêm dài ấy dưới hầm tàu, Kunta cùng những người khác bắt đầu nghe thấy một âm thanh mới kỳ lạ trước đây chưa từng thấy. Hình như nó từ phía trên đầu họ, lọt qua sàn boong xuống. Im lặng xập xuống nhanh chóng trong khoang hầm và nghe thật kỹ, Kunta đoán là những cơn gió lớn đang làm cho những tấm vải trắng lớn kêu phần phật mạnh hơn lúc bình thường nhiều. Phút chốc lại có một tiếng khác, như thể đổ gạo xuống sàn tàu; lát sau anh đoán là mưa đang trút xuống. Rồi anh chắc chắn, không thể lầm lẫn, là đã nghe văng vẳng tiếng sấm nổ rền nặng nề.
Có tiếng chân rầm rập sàn boong trên đầu và con xuồng lớn bắt đầu dập dềnh, chao đảo. Tiếng la hét của Kunta hòa lẫn với tiếng những người khác mỗi khi tàu dềnh lên dềnh xuống hoặc lắc từ bên này sang bên kia, làm cho vai, khuỷu và mông vốn đã mưng mủ và tướp máu của những người tù trần truồng càng chà xát dữ hơn vào những tấm ván xần xùi, bóc trợt thêm lớp da mềm bị nhiễm trùng, khiến lớp cơ bắp bên dưới chòi ra, cọ vào ván nằm. Những cơn đau rát, day dứt, xuyên suốt từ đầu đến chân, cơ hồ làm anh bất tỉnh, thành thử khi bắt đầu lờ mờ nhận thấy tiếng nước tuôn xuống hầm tàu - và tiếng la thất thanh giữa một cơn náo động kinh hoàng - anh cứ tưởng đâu như từ xa vọng tới.
Nước tràn mỗi lúc một nhanh vào hầm cho đến khi Kunta nghe thấy tiếng một vật gì nặng, như thể một tấm vải thô lớn, được kéo lê trên sàn boong. Mấy phút sau, dòng lũ giảm đi, chỉ còn nhỏ giọt - song lúc này, Kunta bắt đầu toát mồ hôi và ngạt thở. Bọn tubốp đã bịt các lỗ trên đầu họ để chặn không cho nước tràn vào, nhưng làm thế chúng đã bịt hết không khí từ bên ngoài, giam toàn bộ hơi nóng và mùi hôi thối trong khoang hầm, không thể nào chịu nổi, mọi người bắt đầu sặc sụa, nôn mửa, điên cuồng lắc cùm loảng xoảng và hoảng hốt la hét. Mũi, cổ họng, rồi phổi Kunta như thể bị nhồi bằng những cục bông cháy bùng bùng. Anh cố gắng hớp thêm chút hơi để la. Bao vây giữa một cơn lồng lộn điên cuồng, người giựt xích, kẻ kêu tắc họng, Kunta mê man đến nỗi cứt, đái phọt ra lúc nào không biết.
Những cơn sóng búa bổ xô ầm ầm vào mạn tàu, làm những xà gỗ đằng sau đầu họ căng mạnh đè vào chốt, kêu răng rắc. Tiếng thét ngạt thở của những người dưới hầm càng dữ khi con tàu đâm đầu xuống, chòng chành với hàng tấn nước biển tràn qua nó. Rồi, như nhờ một phép màu, nó lại nổi lên được dưới cơn mưa bục trời nện xuống như ném đá. Khi khối nước tiếp theo to như trái núi rập vào mạn tàu dìm nó xuống rồi lại bốc lên lần nữa - chao nghiêng, nhấp nhô, rùng rình - thì tiếng huyên náo trong hầm bắt đầu xẹp xuống vì mỗi lúc càng có thêm nhiều tù nhân ngất lịm đi.
Khi Kunta tỉnh lại, thì anh đã ở trên boong, ngạc nhiên thấy mình hãy còn sống. Những ánh đèn màu da cam lấp loáng quanh đó khiến anh thoạt đầu tưởng tất cả bọn họ vẫn ở dưới hầm. Rồi anh hít một hơi thật sâu và nhận ra đó là không khí thoáng mát. Anh nằm nghều ngào, ngửa mặt lên, lưng như muốn nổ toác vì những vết đau kinh khủng đến nỗi anh không sao ngừng kêu, ngay cả trước mặt bọn tubốp. Anh trông thấy một số ở tít trên cao, như những bóng ma trong ánh trăng, bò dọc theo những thanh ngang của các cây cột to cao, dường như chúng đang ráng sức mở căng những tấm vải trắng to tướng nọ. Rồi, quay cái đầu nhức như búa bổ về phía một tiếng ồn ào, Kunta thấy một số tên tubốp nữa loạng quạng nhô lên khỏi cửa hầm, chệnh choạng kéo những hình người trần truồng, mềm nhũn, bị cùm, lên trên boong tàu, ném họ xuống cạnh Kunta cùng những người khác đã bị chất đống như những khúc gỗ.
Người bạn cùm của Kunta đang run cầm cập và nôn khan giữa những tiếng rên rẩm. Chính Kunta cũng nôn oẹ không ngừng trong khi quan sát tên trùm tubốp tóc bạc và tên to lớn mặt sẹo quát tháo chửi rủa thủ hạ, bọn này tiếp tục kéo những thân người từ dưới hầm lên, thỉnh thoảng lại trượt ngã trên những đống nôn mửa mà một phần trong đó là do chính chúng thổ ra.
Con xuồng lớn vẫn chòng chành dữ dội và từng luồng nước thỉnh thoảng vẫn trào lên tưới đẫm sàn lái. Tên trùm tubốp lúc này đang hối hả bước, chật vật lắm mới giữ được thăng bằng, theo sau là một tên tubốp khác cầm đèn. Một trong hai tên chốc chốc lại lật ngửa mặt từng người trần truồng nằm lịm, ghé sát đèn vào, tên trùm tubốp ngó thật kỹ và đôi khi nắn mạch cổ tay người bị cùm. Thỉnh thoảng sau đó, hắn chửi thề tục tĩu, sủa ra một mệnh lệnh và bọn kia khiêng người tù lên ném xuống biển.
Kunta biết những người đó đã chết ở dưới hầm. Anh tự hỏi: người ta bảo Chúa Ala ở mọi nơi mọi lúc, sao Người lại không ở đây? Rồi anh lại nghĩ: thậm chí có hỏi vậy cũng chẳng khiến anh đỡ khổ gì hơn con người vô đạo đang run bần bật và rên rẩm bên cạnh mình. Và anh chuyển sang cầu nguyện cho linh hồn những người bị vứt xuống biển, giờ đây hẳn đã gặp tổ tiên. Anh thèm được như họ.