Ông thấy mình giống như một kẻ xa lạ.
Alli kho ảng ch ừng hai mươi tuổi, người gầy nh ẳng, hay cáu gắt và mặt đầy tàn nh ang, răng cửa của hắn đã mất, khuôn mặt rầu rĩ và xanh xao, hắn ho khù khụ. Alli đang ng ồi ở cái nơi mà Bad di đã nói, quán Kaffi Austurstraeti, một mình một bàn với một cốc bia trống không trước mặt. Trông hắn có v ẻ buồn ngủ, đầu rũ xu ống, tay khoanh trước ngực. Hắn mặc một cái áo có mũ
bẩn thỉu màu xanh.
Bad di đã miêu tả hắn khá chính xác. Erlendur ng ồi xuống cùng bàn với hắn.
"Anh là Alli phải không?" ông hỏi, nhưng không nhận được câu trả lời. Ông nhìn quanh quán bar. Trong này khá tối, chỉ có một nhúm người ngồi ở chiếc bàn nhỏ. Một ca sĩ nhà quê đáng thương đang biểu diễn một bài hát não nề qua cái loa ở phía trên họ. Một người phục vụ đang ngồi trên cái ghế đẩu đằng sau quầy rượu, anh ta đang đọc một quyển sách gáy mềm cũ nát.
Erlendur nh ắc lại câu hỏi và đẩy vào vai người thanh niên. Hắn ta tỉnh dậy và nhìn Erlendur với cặp mặt đờ đẫn.
"Bia nữa nhé?" Erlendur hỏi, cố gắng nặn ra một nụ cười. Một sự ghê tởm chạy dọc trên mặt ông.
"Ông là ai?" Alli hỏi, mắt thẫn thờ. Hắn còn ch ẳng bu ồn che giấu vẻ bề ngoài ngu ngốc của mình.
"Tôi đang tìm Eva Lind. Tôi là bố nó và tôi đang rất vội. Con bé gọi cho tôi và nói rằng cần sự giúp đỡ."
"Ông là cớm à?" Alli hỏi.
"Phải, tôi là cớm," Erlendur đáp.
Alli ng ồi ngay người lại trên gh ế và lén lút nhìn xung quanh.
"Tại sao ông lại hỏi tôi?"
"Tôi biết rằng cậu có quen Eva Lind."
"Làm thếnào mà ông biết?"
"Cậu có biết nó ở đâu không?"
"Ông sẽ mua bia cho tôi chứ?"
Erlendur nhìn hắn ta và ngay lập tức băn khoăn không biết mình đã dùng đúng cách tiếp cận hay chưa, nhưng dù thế nào ông cũng vẫn phải tiếp tục, thời gian của ông sắp hết rồi. Ông đứng lên và đi nhanh về phía quầy rượu. Người phục vụ nhìn lên lưỡng lự, anh ta đặt cuốn sách xuống đầy tiếc nuối rồi đứng lên. Erlendur gọi một cốc bia lớn. Ông đang lần tìm ví thì thấy Alli đã bỏđi. Ông nhìn quanh và thấy cửa vẫn đón g. Để mặc người phục vụ với cốc bia, ông ch ạy ra ngoài và thấy Alli đang lẩn trong những ngôi nhà cũ kỹ ở Grjótathorp.
Alli chạy không nhanh lắm và không chạy được lâu. Hắn nhìn quanh thấy Erlendur đang đuổi theo bèn cố gắng tăng tốc nhưng không còn sức lực. Erlendur nhanh chóng bắt kịp Alli và xô mạnh hắn xuống đất. Hai lọ thuốc lăn ra khỏi túi của hắn, Erlendur nhặt chúng lên. Trông chúng giống như mấy thứ thuốc kích thích vậy. Ông xé áo khoác của Alli ra và nghe thấy nhiều tiếng chai lọ kêu lách cách. Khi đã lấy hết mọi thứ trong túi áo khoác của hắn ra, Erlendur nghĩ những cái lọ này có thể nhét đầy cả một tủ thuốc lớn.
"Họ sẽ… giết… tôi... mất," Alli thở hổn hển khi cố gắng đứng lên. Có một vài người xung quanh đó. Một cặp vợ chồng già bên kia đường đã chứng kiến mọi chuyện, nhưng khi thấy Erlendur nhặt hết lọ này đến lọ khác lên, họ nhanh chóng tránh đi chỗ khác.
"Tôi không quan tâm," Erlendur nói.
"Đừng lấy chúng đi. Ôi, ông không biết đâu, cái cách họ..."
"Ai cơ?"
Alli núp mình vào bức tường của một ngôi nhà và bắt đầu khóc.
"Đây là cơ hội cuối cùng của tôi," hắn nói, nước mũi chảy ra ròng ròng.
"Tôi không cần biết cái cơ hội đó là cái quái gì. Lần cuối cùng cậu g ặp Eva Lind là khi nào?"
Alli khịt khịt mũi, rồi liếc nhìn Erlendur như thểđã tìm ra được một cách giải quyết.
"Được rồi."
"Sao cơ?"
"Nếu tôi nói cho ông biết về Eva, ông có trả những thứđó cho tôi không?" hắn hỏi.
Erlendur tỏ ý cân nhắc chuyện đó.
"Nếu cậu biết về Eva, tôi sẽ trả chúng lại cho cậu. Nếu cậu nói dối, tôi sẽ quay trở lại và dần cậu như dần một cái bạt lò xo đấy".
"Được rồi, được rồi. Hôm nay Eva có đến gặp tôi. Ông biết đấy, cô ta nợ tôi một món tiền. Tôi đã không đưa thêm một chút nào cho cô ta nữa. Tôi không giao hàng cho những người có thai. "
"Ồ." Erlendur nói. "Cậu là một người có nguyên tắc đấy."
"Cô ta tạt qua với cái bụng kễnh lên, cô ta khóc lóc, van vỉ tôi và làm ầm lên khi tôi không đưa một xu nào. Sau đó cô ta đi."
"Cậu có biết con bé đi đâu không?"
"Ồ, không."
"Nó sống ở đâu?"
"Một đứa con gái không tiền. Tôi cần tiền, ông thấy đấy. Hoặc họ sẽ giết tôi."
"Cậu có biết nó sống ở đâu không?"
"Sống á? Chẳng ở đâu cả. Cô ta lao vào bất cứ chỗ nào có thể. Và nẫng đủ mọi th ứ. Cô ta nghĩ rằng mình có thể kiếm tiền mà không mất gì." Alli khịt mũi một cách miệt thị. "Giống như là ông có thể cho không thuốc vậy. Hờ, cứ làm như thuốc là hàng miễn phí ấy!"
Kẽ hở nơi cái răng cửa bị mất của hắn khiến lời hắn nói như bị ngọng. Đột nhiên trông hắn như một đứa trẻ to xác trong cái áo dài bẩn thỉu đang cố gắng làm một hành động dũng cảm.
Nước mũi lại bắt đầu chảy ròng ròng trên mặt hắn.
"Con bé có thể đi đâu?" Erlendur hỏi.
Alli nhìn ông và khụt khịt.
"Ông có trả chúng cho tôi không đã?"
"Con bé đâu?"
"Tôi có được lấy lại nếu tôi nói với ông không?"
"Nếu cậu nói thật. Nó ở đâu?"
"Có một đứa con gái khác ở cùng cô ta."
"Ai? Tên là gì?"
"Tôi biết nơi cô ta ở."
Erlendur bước lại gần hơn.
"Cậu sẽ được lấy lại toàn bộ," ông nói. "Cô gái đó là ai?"
"Ragga. Cô ta sống ở gần lối rẽ. Ở Tryggvagata ấy. Trên tầng cao nhất của một tòa nhà lớn nhìn ra một xưởng đóng tàu." Alli ngập ngừng giơ tay ra. "Được chưa? Ông đã hứa rồi. Trả lại cho tôi đi. Ông đã hứa rồi mà. "
"Chẳng có cách nào khiến tôi có thể trả lại cho cậu được, đồ ngu ạ," Erlendur nói. "Tôi mà có thời gian, tôi sẽ đưa thẳng cậu đến sở cảnh sát và tống cậu vào tù. Nên như thế này là tốt cho cậu lắm rồi đấy."
"Không, họ sẽ giết tôi mất! Đừng! Hãy trả nó cho tôi, làm ơn đi. Hãy trả nó cho tôi!"
Phớt lờ hắn ta, Erlendur để Alli rên rỉ chỗ bức tường, hắn ta ngu yền rủa mình và tự đập đầu vào tường trong cơn thịnh nộ yếu ớt. Từ xa, Erlendur vẫn nghe thấy tiếng nguyền rủa của hắn, nhưng ông ngạc nhiên khi thấy Alli không chửi ông mà chửi chính mình.
"Thằng ngu chó chết, màylà một thằng ngu chó chết…"
Ông nhìn thấy Alli tự tát vào mặt mình.
Một thằng bé tầm bốn tuổi mặc bộ quần áo ngủ, đi chân trần, tóc bẩn, ra mở cửa và nhìn lên Erlendur, lúc này ông đang khom người xuống chỗ nó. Khi Erlendur đưa tay ra để vuốt má thằng bé, nó thình lình hất mạnh đầu ra sau. Erlendur hỏi xem mẹ nó có nhà không, nhưng thằng bé chỉ nhìn ông đầy nghi ngại mà không trả lời.
"Cô Eva Lind có ở đây không bé con?" ông hỏi.
Erlendur cảm thấy thời gian đang sắp hết. T ừ lúc Eva Lind gọi đến bây giờđã hai tiếng đồng hồ. Ông cố xua đi cái ý nghĩ rằng đã quá muộn để cứu con bé.
Erlendur cố gắng hình dun g ra tình thế mà Eva Lind đang lâm vào, nhưng ông nhanh chóng thôi không dày vò mình theo cách đó thêm nữa mà chỉ tập trung vào việc tìm con. Bây giờ ông đã biết người ở cùng Eva Lind. Ông cảm thấy mình đang đến gần con bé hơn.
Không trả lời, th ằng bé lao th ẳng vào căn hộ và biến mất. Erlendur theo sau nhưng không thấy nó đâu. Căn hộ tối đen như m ực và Erlendur ph ải sờ so ạng để tìm công tắc bật đèn trên tường. Sau khi thử mấy lần không được,ông mò mẫm tìm đường sang một căn phòng nhỏ. Cuối cùng cũng có một bóng đèn lẻ loi treo trên trần nhà đang lập lòe tỏa sáng. Trên sàn nhà ch ẳng có gì, chỉ toàn bê tông lạnh lẽo. Những tấm đệm bẩn thỉu trải khắp sàn nhà và trên đó có một cô gái đang nằm, trẻ hơn Eva Lind một chút, mặc quần jean rách tả tơi với cái áo phông màu đỏ. Một hộp kim loại chứa hai kim tiêm mở ra bên cạnh cô gái. Một ống nh ựa m ỏng nằm cong queo trên sàn nhà. Hai người đàn ông đang nằm ngủ trên những tấm nệm ở cạnh cô ta.
Erlendur quỳ xuống và lay lay cô ta nhưng cô ta không phản ứng gì. Ông nhấc đầu cô ta lên, dựng cho ngồi dậy và vỗ nhẹ vào má. Cô gái lầm bầm. Ông đứng lên, nh ấc người cô ta dậy và cố gắng bắt cô ta đi lại, một lát sau cô ta bắt đầu tỉnh lại. Cô gái mở mắt ra. Erlendur thấy có một chiếc ghế ngồi ăn trong bóng tối nên ông đặt cô ta ngồi xuống. Cô ta nhìn ông rồi gục đầu xuống ngực. Ông tát nhẹ vào mặt cô ta khiến cô ta tỉnh lại.
"Eva Lind đâu?" Erlendur hỏi.
"Eva?" cô gái lẩm bẩm.
"Hôm nay cô đi cùng nó. Nó đi đâu rồi?"
"E va…"
Đầu cô gái lại gục xuống. Erlendur thấy thằng bé đứng ở cửa ra vào. Một tay nó đang cầm một con búp bê, tay còn lại cầm một bình sữa rỗng và giơ về phía Erlendur. Sau đó nó đưa cái bình vào miệng, rồi Erlendur nghe thấy tiếng nó bú. Ông nhìn thằng bé và nghiến răng lại trước khi lấy điện thoại ra gọi trợ giúp.
Một bác sĩ đến cùng chiếc xe cứu th ương, theo như yêu cầu của Erlendur.
"Tôi nhờ ông tiêm cho cô ta một mũi," Erlendur nói.
"Một mũi tiêm ư?" ông bác sĩ hỏi.
"Tôi nghĩ cô ta đã dùng ma túy. Ông có mang theo naloxone hay narcanti1 không?"
"Có, tôi …"
"Tôi phải nói chuyện với cô ta. Ngay bây giờ. Con gái tôi đang gặp nguy hiểm. Cô gái này biết nó đang ở đâu. "
1Naloxone và narcantilà hai loại thuố c làm hạn chế tác hạicủa ma túy.
- 60 -
Ông bác sĩ nhìn cô gái, rồi lại nhìn sang Erlendur. Ông ta gật đầu.
Erlendur đặt cô gái nằm lại xuống nệm và phải mất một lúc cô ta mới tỉnh lại. Các nhân viên cứu thương đứng bên trên, cầm theo một cái cáng. Thằng bé con đang trốn trong phòng. Hai người đàn ông nằm trượt ra khỏi nệm.
Erlendur cúi mình bên cô gái lúc này đang từ từ lấy lại nh ận thức. Cô ta hết nhìn Erlendur lại nhìn lên ông bác sĩ và những người cứu thương.
"Có chuy ện gì đang xảy ra thế?" cô ta hỏi nhỏ như thểđang nói với chính mình.
"Cô có biết Eva Lind không?" Erlendur h ỏi.
"E va ư?"
"T ối nay nó đi cùng cô. Tôi nghĩ là nó đang gặp nguy hiểm. Cô có biết nó đã đi đâu không?"
"Eva không ổn à?" cô ta hỏi lại, sau đó nhìn quanh. "Kiddi đâu?"
"Có một thằng bé trong phòng ở đằng kia," Erlendur nói. "Nó đang chờ cô đấy. Nói cho tôi biết phải tìm Eva Lind ở đâu. "
"Ông là ai?"
"Bố Eva Lind."
"Ông cớm đấy à?"
"Phải."
"Cô ấy không thể chịu nổi ông."
"Tôi biết. Cô có biết nó đang ở đâu không?"
"Cô ấy bịđau. Tôi bảo cô ấy đi bệnh viện. Cô ấy đang đi bộ đến đó."
"Đau ư?"
"Bụng của cô ấy đang giết chết cô ấy. "
"Nó bắt đầu đi từđâu? Từđây à?"
"Lúc đó chúng tôi đang ở bến xe bus."
"Bến xe bus ư?"
"Cô ấy đang chuẩn bị đến Bệnh viện Quốc gia. Cô ấy không ở đó à?"
Erlendur đứng lên và ông bác sĩ đọc cho ông sốđiện thoại tổng đài của bệnh viện. Ông gọi điện chỉ để nghe người ta nói rằng không có ai tên là Eva Lind nhập viện trong vài giờ gần đây cả. Không có cô gái nào tầm tuổi cô đến đó. Ông được nối máy đến khoa sản và cố gắng mô tả con gái mình chi tiết nhất có thể, nhưng bác sĩ hộ sinh có ca trực lúc đó nói không trông thấy cô gái nào như vậy.
Ông chạy ra khỏi căn hộ, leo lên xe và lao ra bến xe bus. Ở đó vắng không một bóng người. Trạm xe bus đã đóng cửa lúc n ửa đêm. Ông để xe lại và chạy dọc đường Snorrabraut, dồn hết s ức băng qua các ngôi nhà ở Nordurmýri và soi xét từng khu vườn để tìm con gái. Ông bắt đầu gọi tên con khi đến gần bệnh viện nhưng không có ai đáp lại.
Cuối cùng, ông đã tìm thấy con bé nằm trong vũng máu trên một bãi cỏ có cây cối um tùm bao phủ, cách nhà hộ sinh chừng năm mươi mét. Nhưng ông đã đến quá muộn. Lớp cỏ bên dưới người con bé đã nhuốm đầy máu, quần bò của nó cũng thế.
Erlendur quỳ xuống bên con gái, nhìn lên nhà hộ sinh và thấy mình đang đi qua cánh cửa cùng với Halldóra cách đây nhiều năm khi Ev a Lind được sinh ra. Con bé sắp sửa chết ở cái nơi mà nó đã chào đời ư? Erlendur vuốt nhẹ trán con gái, không biết mình có dám di chuyển nó không.
Ông nghĩ rằng con bé đã mang thai được bảy tháng rồi.
Cô đã bỏđi hai lần. Cả hai lần đó đều diễn ra khi họ còn sống trong một căn hộ d ưới tầng hầm ở Lindargata. Một năm sau lần đầu tiên chồng cô đánh cô nhừ tử, CHỒNG CÔ đã mất tự chủ lần thứ hai. Hắn vẫn tự gọi hành động đó như vậy khi hắn nói về bạo lực mà hắn đã giáng xuống đầu vợ. Cô không bao giờ cho đó là sự mất tự chủ. Đối với cô, dường như hắn chưa bao giờ tự chủ hơn cái lần hắn đánh cô giữa ban ngày ban mặt và lăng nhục cô thậm tệ. Thậm chí khi cơn giận đã lên đến đỉnh điểm, hắn vẫn lạnh lùng, bình thản và nh ận thức được tất cả những gì mình đang làm. Luôn luôn là như vậy.
Thời gian trôi đi, cô nhận ra rằng mình cũng cần phải nuôi dưỡng cái phẩm chất đó để có thể thắng được hắn. Nỗ lực bỏ trốn đầu tiên của cô bị thất bại thảm hại. Cô vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ, không biết cân nhắc các lựa chọn có sẵn, không biết phải đi về đâu. Đột nhiên cô thấy mình đứng ngoài đường trong một cơn gió lạnh buốt vào một buổi tối tháng Hai cùng hai đứa con. Cô bế Símon trên tay và địu Mikkelína trên lưng, nhưng cô không biết nên đi đâu. Tất cả những gì cô biết là phải bỏ trốn khỏi tầng hầm đó.
Cô đã gặp một giáo sĩ, ông ta nói rằng một người vợ tốt không bao giờ bỏ rơi chồng. Đám cưới dưới sự chứng giám của Chúa là cực kỳ linh thiêng và con người ta phải chịu đựng nó để được sống cùng nhau.
"Hãy nghĩ đến các con của con," ngài giáo sĩ nói.
"Con đang nghĩ đến chúng đây ạ," cô đáp, và ông ta nở một nụ cười nhân h ậu.
Cô đã không cố đến gặp cảnh sát. Những người hàng xóm đã gọi họ hai lần khi thấy người ch ồng tấn công cô. M ấy cảnh sát đến rồi đi thẳng vào tầng hầm, họ dàn xếp vụ cãi vã xong lại đi. Khi cô đứng trước mặt họ với một mắt thâm tím và bờ môi nứt toác, cảnh sát bảo hai vợ chồng nên bình tĩnh giải quyết mọi chuyện và nói rằng họđang gây mất trật tự. Lần thứ hai, cảnh sát mời hắn ta ra ngoài nói chuyện. Cô đã phải hét lên rằng hắn ta đã đánh mình, thậm chí còn dọa giết mình, và đó không phải là lần đầu tiên. Họ hỏi liệu trước đó cô có uống rượu không. Câu hỏi đó không lọt vào tai cô. ‘Uống rượu ấy,’ họ nhắc lại. ‘Không,’ cô trả lời. Cô không bao giờ uống rượu. Họ nói với chồng cô vài điều ở bên ngoài, ngay chỗ cửa chính, sau đó bắt tay hắn ta rồi bỏđi.
Và khicảnh sát đã đi hết, hắn lại lấy dao cạo rạch vào má cô.
Buổi tối hôm đó, sau khi gã chồng đã ngủ, cô cõ ng Mikkelína lên lưng và nhẹ nhàng b ế Símon ra khỏi căn buồng rồi bước lên cầu thang tầng hầm. Cô đã làm một cái xe đẩy cho Mikkelína từ một chiếc xe cũ mà cô tìm thấy trong đống rác, nhưng hắn đã đập nó gẫy tan tành trong một cơn thịnh nộ, như thể hắn đã lờ mờ nhận ra là vợ sắp bỏ rơi mình nên nghĩ rằng làm như thế sẽ ng ăn được cô lại. Vụ bỏ trốn của cô hoàn toàn không được tiên liệu từ trước. Cuối cùng, cô đến Tổ chức Cứu Thế Quân 1 và được trú chân ở đó qua đêm. Cô không có người thân, cảở Reykjavík hay bất cứđâu cũng thế. Lúc gã chồng tỉnh dậy vào sáng hôm sau và phát hiện ra vợ con mình đã bỏđi, hắn quýnh quáng chạy bổđi tìm. Hắn đi lang thang khắp thành phố mà chỉ mặc độc một cái áo sơ mi cộc tay. Rồi hắn trông thấy vợ co n đang đi ra từ Tổ chức Cứu Thế Quân. Cô phát hiện ra chồng khi hắn ta giằng lấy thằng bé khỏi tay mình, bế thốc lấy con gái cô và quay về nhà mà không nói nửa lời. Bọn trẻ quá sợ hãi đến nỗi không dám cử động, rồi cô chỉ thấy Mikkelína với tay về phía mẹ và lặng lẽ khóc.
Cô đang nghĩ gì thế?
Rồi cô đuổi theo họ.
Sau lần thứ hai, hắn dọa giết các con, và cô không còn cố gắng bỏ trốn nữa. Lần đó, cô đã chuẩn bị kỹ càng hơn, tưởng tượng rằng mình sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, sẽđi về miền Bắc đến một thị trấn làm nghề cá cùng các con và chắc chắn là ba
1Cứu Thế Quân (hay Đạo quân Cứu thế)là một giáo phái Tin Lành thuộc cộng đồng Kháng Cách. Đây cũnglà mộttổ chứcxã hội có nhiều hoạt động từ thiện, đặc biệtlà đốivới những người có hoàn cảnh đáng thương.
mẹ con sẽ chẳng cần gì cả. Cô lên kế hoạch cho mọi thứ. Cô quyết định sẽ đến Siglufjördur để làm lại từ đầu. Ở đó có rất nhiều việc làm bởi vì những năm suy thoái đã qua đi, dân cư nơi khác lũ lượt kéo đến đó tìm việc làm và cô có thể duy trì mức sống tối thiểu cùng với hai con của mình. Cô có thểở trong khu nhà tập thể của công nhân trước khi tự thuê được phòng riêng.
Giá vé xe bus cho cô và hai đứa con không rẻ chút nào, còn ch ồng cô thì giữ bo bo từng xu hắn kiếm được ở bến cảng. Trong suốt một khoảng thời gian dài, cô đã cố gắng xoay xở kiếm từng đồn g cho đến khi dành dụm đủ tiền mua vé. Cô lấy toàn bộ quần áo của các con và nhét vào trong một va li nhỏ, một ít đồ cá nhân và cái xe đẩy, nó vẫn ch ở được Mikkelína sau khi cô đã sửa sang lại. Cô đi nhanh ra b ến xe bus, nhìn khắp nơi đầy ho ảng sợ như thể sẽ bị chồng b ắt gặp ở góc phố tiếp theo.
Hắn về nhà vào buổi trưa và nh ận ra ngay lập tức là vợ con đã bỏđi. Cô luôn ph ải chuẩn bị xong bữa trưa trước khi hắn về đến nhà, hắn chưa bao giờ cho phép cô quên điều đó. Hắn thấy cái xe đẩy đã biến mất. Tủ quần áo mở toang. Nhớ lại lần bỏ trốn trước đây của vợ, hắn đi thẳng đến Tổ chức Cứu Thế Quân và nghe người ta nói là cô không có ở đó. Hắn không tin lời họ, hắn bổđi lùng sục khắp tòa nhà, chạy xộc vào các phòng, thậm chí cả tầng hầm, và đến khi không tìm thấy bamẹ con, hắn tấn công người phụ trách tòa nhà, dúi ông ta xuống đất và dọa sẽ giết nếu ông ta không nói ra họđang ở đâu.
Cuối cùng, khi nhận ra rằng vợ mình không đến Tổ chức Cứu Thế Quân, gã đàn ông đó sục sạo quanh thành phố mà vẫn không thấy bóng dáng cô đâu. Hắn lao vào các cửa hàng, nhà ăn nhưng vẫn b ặt âm vô tín. Ngày tàn, khi cơn giận dữ và tuy ệt vọng đã tăng lên gấp bội, hắn trở về nhà, điên cuồng như người mất trí. Hắn lộn tung nhà cửa lên để tìm dấu vết xem v ợ mình có thểđi đâu, sau đó đến nhà hai người b ạn cũ của cô từ hồi họ còn làm việc cho người lái buôn, xồng xộc ch ạy vào nhà họ và gọi vợ con ầm ĩ, sau đó ch ạy ra mà không nói một lời rồi mất d ạng.
Cô đến Siglufjördur vào khoảng hai giờ sáng sau chuyến đi cả ngày dài không ng ừng nghỉ. Chiếc xe khách đã dừng lại ba lần để hành khách nghỉ ch ân, ăn b ữa trưa đã chu ẩn bị sẵn hoặc mua đồ ăn ngoài. Cô có mang theo bánh sandwich và m ấy hộp sữa, nhưng họđã đói meo khi xe đến Haganesvík ở Fljót, nơi có một chiếc thuyền đang chờ sẵn ở đó để đưa khách sang Siglufjördur giữa đêm khuya lạnh. Sau khi cô tìm thấy khu nhà ở tập thể của công nhân, người quản đốc đưa cô đến một phòng nhỏ với hai cái chăn, và bamẹ con tận hưởng đêm tự do đầu tiên ở đó. Những đứa trẻ lăn ra ngủ ngay khi đặt mình xuống nệm, còn người mẹ thì nằm trằn trọc, cô nhìn trân trân vào bóng tối, không thể cưỡng lại cơn run rẩy đang lan ra toàn bộ cơ thể, cô kiệt sức và òa lên khóc.
Một vài ngày sau, hắn tìm thấy cô. Hắn nghĩ đến khả năng là cô đã rời thành phố, có lẽ là bằng xe bus, nên hắn đến trạm, hỏi những người xung quanh và được biết là vợ con mình đã b ắt xe v ề h ướng bắc đến Siglufjördur. Hắn nói chuy ện với người lái xe, ông này nhớ ba mẹ con họ rất rõ, đặc biệt là cô bé bị tật nguy ền. Hắn bắt chuyến xe tiếp theo và đến Siglufjördur lúc quá nửa đêm. Len lỏi qua hết khu nhà này đến khu nhà khác, cuối cùng hắn cũng tìm thấy vợ con đang ngủ trong căn phòng bé nhỏ, nhờ sự chỉ đường của một người đốc công mà hắn đã đánh thức trước đó. Hắn giải thích cho người đốc công rằng vợ mình đến ngôi làng trước, hắn nói, nhưng có lẽ là họ sẽ không ở đây lâu.
Hắn trườn vào phòng. Một luồng ánh sáng lờ mờ từ ngoài đường chiếu qua ô cửa sổ nhỏ vào phòng, hắn bước qua mấy đứa trẻđang nằm trên đệm, cúi xuống chỗ vợ cho đến khi mặt họ gần như chạm vào nhau, và lay lay cô dậy. Cô vẫn còn buồn ngủ nên hắn lay cô lần nữa, mạnh hơn, cho đến khi cô mở mắt ra. Và khi thấy sự kinh hoàng tột độ hiện lên trong đôi mắt vợ, hắn mỉm cười. Cô đang chuẩn bị thét lên kêu cứu thì hắn đã kịp lấy tay bịt miệng cô lại.
"Mày thực sự nghĩ rằng mày có thể làm được ư?" hắn thì thào đầy hăm dọa.
Cô nhìn chồng chằm chằm.
"Mày cho rằng chuyện đó dễ đến thế sao?"
Cô chậm rãi lắc đầu.
"Mày có biết bây giờ tao th ực sự mu ốn làm gì không?" hắn rít lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. "Tao muốn đưa con gái mày lên núi và giết chết nó, rồi chôn nó ở một ch ỗ m à không ai có thể tìm thấy được, và nói rằng con chó chết đáng thương ấy hẳn là đã mò xuống biển. Và mày cóbiết không? Tao sẽ làm điều đó đấy. Tao sẽ làm ngay bây giờ. Nếu như thằng nhãi kia mà kêu lên một tiếng, tao cũng sẽ giết nó luôn. Tao sẽ nói rằng nó cũng bò ra biển theo sau chị nó. "
Người vợ khóc thút thít không thành tiếng khi liếc vội sang chỗ hai con, gã chồng mỉm cười rồi nhấc tay ra khỏi miệng cô.
"Em sẽ không bao giờ làm như thế nữa," cô rên rỉ. "Không bao giờ. Em sẽ không bao giờ làm thế nữa. Em xin lỗi. Em xin lỗi. Em không biết mình đã nghĩ gì nữa. Em xin lỗi. Em điên rồi. Em biết! Em điên rồi. Đừng để bọn trẻ phải gánh chịu chuyện đó. Đánh em đi. Đánh em đi. Đánh mạnh hết sức vào. Mình đánh mạnh hết sức vào! Chúng ta có thểđi ngay khỏi đây nếu mình muốn."
Cơn tuyệt vọng của vợ khiến gã chồng chùn bước.
"Không, không," hắn nói. "Đây là điều mày muốn. Nên cứ làm theo ý mày đi."
Hắn hành động như thể là sắp với đến chỗ Mikkelína, lúc này con bé đang nằm bên cạnh Símon, nhưng người mẹđã chụp lấy tay hắn, khiếp đảm như mất trí.
"Mình nhìn này," cô nói rồi tựđánh vào mặt mình. "Mình nhìn này." Cô giật tung tóc ra. "Mình nhìn này." Côngồi dậy và tự xô mình vào thanh ngang đầu giường, rồi không hiểu vô tình hay cố ý, côngã lăn ra, sụp xuống trước mặt chồng và bất tỉnh.
Họ khởi hành vào sáng sớm hôm sau. Cô đã làm việc cho nhà máy chế biến cá được mấy ngày nên hắn đi đòi tiền công của cô. Trong lúc làm việc ở sân muối, cô có điều kiện để mắt đến các con mình vì chúng chơi ở gần đó hoặc ở trong phòng. Gã chồng giải thích với ông quản đốc rằng họ ch uẩn bị quay về Reykjavík. Họđã nhận được tin báo nên phải thay đổi kế hoạch và vợ mình phải được nhận tiền lương. Ông đốc công viết nguệch ngoạc mấy chữ trên một tờ giấy rồi chỉ đường cho hắn đến văn phòng. Ông ấy nhìn cô khi đưa cho cô mẩu giấy. Dường như cô muốn nói điều gì đó. Ông ấy lại hiểu nhầm n ỗi sợ hãi của cô là sự xấu hổ.
"Cô không sao chứ?" người đốc công h ỏi.
"Cô ấy ổn cả," hắn trả lời thay và khệnh khạng bước đi, kéo theo cả v ợ.
Khi họ quay trở lại căn hộ dưới tầng hầm ở Reykjavík, hắn không động vào cô. Cô đứng trong phòng khách, mặc cái áo khoác đã sờn và tay xách va li, đón ch ờ một trận đòn nh ớ đời. Nhưng chẳng có chuy ện gì xảy ra cả. Việc cô tựđánh mình khiến hắn ngạc nhiên. Thay vì đi nhờ người giúp đỡ, hắn cố gắng chăm sóc cô và làm cho cô tỉnh lại, hành động chăm sóc đầu tiên mà hắn dành cho cô từ khi họ cưới nhau. Khi cô tỉnh lại, hắn nói rằng cô phải hiểu là cô không bao giờ được rời bỏ hắn. Hắn sẽ giết ch ết cô và hai đứa bé. Cô là vợ hắn và sẽ luôn như v ậy.
Luôn luôn như vậy.
Sau lần đó, cô không bao giờ dám bỏ trốn nữa.
Nhiều năm trôi qua. Dự định trở thành một ng ư dân của hắn trở thành con số không chỉ sau có ba chuy ến ra khơi. Hắn bị say sóng nặng, không thể tránh nổi chuyện đó. Hơn tất th ảy, hắn thấy mình sợ biển, và ngay cả chuyện đó hắn cũng không vượt qua được nốt. Hắn sợ co n thuy ền sẽ chìm, sợ rơi khỏi thu yền, sợ thời tiết dữ. Trong chuyến ra khơi cuối cùng của hắn, con thuyền gặp ph ải một cơn b ão, tin là co n thuy ền sẽ lật, hắn ngồi khóc hu hu, nghĩ rằng mình đã đến ngày tận số. Sau đó, không bao giờ hắn đi biển nữa.
Dường như hắn không thể cư xử dịu dàng với cô. May m ắn lắm hắn mới đối xử với cô một cách hoàn toàn lạnh nhạt. Hai năm đầu mới cưới nhau, hắn còn tỏ vẻ hối hận vì đã đánh vợ hoặc ch ửi rủa vợ, một cách thành thật đến mức cô đã òa lên khóc. Nhưng thời gian trôi đi, hắn không còn biểu hiện bất cứ một dấu hiệu nào của sựăn năn nữa, như thể những điều hắn làm với vợ đã không còn là bất thường hay là một sự méo mó trong mối quan hệ giữa họ nữa, giờđây nó đã trở thành một thứ gì cần thiết và đúng đắn. Đôi khi cô hiểu, và ngay cả bản thân chồng cô cũng hiểu rất rõ, rằng những bạo lực mà hắn đổ lên đầu cô, hơn hết thảy, chính là biểu hiện của sự hèn kém trong con người hắn. Rằng hắn càng đánh vợ, hắn càng trở nên tồi tệ. Hắn đổ lỗi đó cho vợ, hét lên rằng lỗi là ở cô, vì đã khiến hắn phải cư xử với cô như thế. Cô là người buộc hắn phải làm như thế.
Hai vợ ch ồng cô có rất ít bạn bè, và chẳng bao giờ chia sẻ gì với họ, ch ẳng bao lâu sau khi hai vợ chồng quay v ề chung sống, cô bị cô lập. Thi thoảng lắm cô mới gặp những người bạn hồi còn đi làm, nhưng cô không hề đả động gì đến những trận đòn cô phải hứng chịu từ chồng mình, và rồi dần dần cô mất liên lạc với họ. Cô cảm thấy xấu hổ. Xấu hổ vì bịđánh đập tro ng những lúc không ng ờ đến nhất. Xấu hổ vì đôi mắt thâm quầng, đôi môinứt toác, cả những vết bầm tím toàn thân nữa. Xấu hổ vì cuộc đời cô đang sống mà người ng oài nhìn vào không thể hiểu được, thậm chí còn thấy kinh tởm. Cô muốn che giấu đi chuyện đó. Muốn giấu mình trong cái nhà tù mà chồng mình đã tạo ình, ném chìa khóa đi và hy vọng rằng sẽ không có ai tìm thấy nó. Cô phải ch ấp nhận sự bạc đãi của chồng. Phải chăng đó là số phận bắt cô phải vậy, bất biến và vô điều kiện?
Những đứa trẻ là tất cả với cô. Th ực tế, chú ng đã trở thành bạn của cô, là lí do để cho cô sống, đặc biệt là Mikkelína, thêm cả Símon nữa khi nó đã lớn lên và đứa con trai thứ hai tên là Tómas. Cô tự đặt tên cho các con. Gã chồng chỉ để ý đến chúng khi hắn than phiền về chúng, về lượng thực phẩm chúng ăn, tiếng ồn chúng gây ra vào ban đêm. Bọn trẻ phải chịu đựng những bạo lực mà người bố dồn lên đầu mẹ và chúng là nguồn an ủi quý giá nhất của mẹ chúng những lúc cần.
Hắn lấy đi của cô chút lòng tự trọng cuối cùng mà cô có. Với bản tính kín đáo và trầm lặng, cô luôn sẵn sàng làm hài lòng mọi người, rất tốt bụng, hay giú p đỡ và thậm chí là ngoan ngoãn. Cô luôn mỉm cười ng ượng nghịu khi có ai nói chuyện với mình và phải cố gắng lắm để không tỏ ra xấu hổ. Chính sự yếu đuối đó đã tiếp thêm cho gã chồng nguồn sức mạnh thôi thúc hắn phải hành hạ vợ cho đến khi cô chẳng còn gì cho riêng mình nữa. Toàn bộ sự tồn tại của cô chỉ xoay quanh hắn ta. Chiều theo những ý thích nhất thời của hắn. Phục vụ hắn. Cô đã không còn tự ch ăm sóc mình như ngày xưa nữa. Cô thôi không tắm giặt thường xuyên, thôi để ý đến v ẻ b ề ngoài của mình. Những vết quầng xuất hiện bên dưới mắt, mặt cô bắt đầu xệ xuống và từ đầu đến ch ân cô bao trùm một vẻ u buồn, người cô dần khom xuống, đầu cúi xuống ngực như thể không dám ngẩng lên nhìn lâu. Mái tóc dày mượt của cô giờđây không còn sức sống, bẩn thỉu và dính bết vào da đầu. Cô tự cắt tóc cho mình bằng một cái kéo dùng trong nhà bếp khi cảm thấy nó đã quá dài.
Hoặc khi hắn cảm thấy nó đã quá dài.
Một người đàn bà xấu xí và nhếch nhác.