“Tôi đã nói chuyện với Đại sứ quán M ỹ và họ chỉ cho tôi đến chỗ ông Hunter này. Để tránh phiền ph ức cho ông, tôi đã nói chuyện với ông ta. Tôi hy vọng chuyện đó được ông cho phép."
"Cảm ơn ông," Erlendur đáp.
"Ông ấy sống ở Kópavogur."
"Ông ấy ở đó từ hồi chiến tranh à?"
"Rất tiếc là tôi không biết điều đó."
"Nhưng ông ta vẫn sống ở đây, nói cách khác, cái ông Hunter này ấy," Erlendur nói trong lúc đưa tay dụi mắt.
Tối hôm đó Erlendur ngủ không ng on, ông chỉ lơ m ơ và gặp toàn ác mộng. Những lời mà người phụ nữ nhỏ bé ở bệnh viện nói chiều hôm trước vẫn cứ ám ảnh ông. Ông không tin chuyện những người hầu đồng có thể trở thành cầu nối giữa cõi dương và cõi âm, và ông cũng không tin rằng họ có thể nhìn thấy những điều người khác không nhìn thấy. Ng ược lại, ông cho rằng họ chỉ là những kẻ chuy ên đi lừa đảo, họ đủ thông minh để có thể lấy được thông tin từ mọi người và giải mã ngôn ng ữ cơ thể để dựng lên chi tiết về những người họ quan tâm, và gần như một nửa trong số chú ng là đúng, nửa còn lại có thể sai lè - một khả năng đơn giản. Erlendur từng chế giễu chuyện đó là vô bổ khi người ta bàn tán về nó trong sở, điều này khiến Elínborg rất chán n ản. Cô tin vào đồng cốt và sự sống sau cái chết, vì một số lý do nào đó cô hy vọng ông sẽ cởi mở hơn với những chuyện đại lo ại như thế. Có thể là vì ông xuất thân từ nông thôn. Đó hóa ra lại là một sự hiểu lầm nghiêm trọng. Chắc chắn Erlendur không bao giờ chấp nhận những chuyện siêu nhiên. Tuy nhiên có điều gì đó về người phụ nữ ông gặp ở bệnh viện và những điều cô ta nói khiến Erlendur cứ nghĩ mãi, và kết quả là nó đã quấy nhiễu giấc ngủ của ông.
"Phải, bây giờ ông ta vẫn ở đây," Jim nói và cực kỳ hối lỗi vì đã đánh thức Erlendur d ậy. Ông ta nghĩ rằng người Iceland dậy sớm. Bản thân ông ta cũng thế, ánh sáng ban ngày bất tận của mùa xuân chẳng làm cho ông ta vui vẻ chút nào.
"Hượm đã, vậy là ông ta đã kết hôn với một người Iceland sao?"
"Tôi đã nói chuyện với ông ta," Jim nhắc lại bằng ngữđiệu Anh của mình như thể chưa nghe thấy câu hỏi. "Ông ta đang chờ ông gọi điện. Đại tá Hunter đã phục vụ một thời gian trong quân cảnh ở Reykjavík và ông ta nhớ có một vụ việc xảy ra ở một kho quân nhu trên đồi mà ông ta sắp kể với ông."
"Vụ việc nào cơ?" Erlendur hỏi.
"Ông ta sẽ kể cho ông nghe. Và tôi sẽ tiếp tục tìm thêm thông tin về những người lính đã chết hoặc mất tích ở đây. Ông cũng nên hỏi Đại tá Hunter vềđiều đó nữa."
Họ chào tạm biệt nhau, Erlendur chậm ch ạp đi vào bếp pha cà phê. Ông vẫn đan g đắm chìm trong suy nghĩ. Liệu một cô đồng có thể nói được một người đang ở bên nào của ranh giới giữa sự sống và cái chết không? Không thể chấp nhận được điều đó, ông tự nhủ rằng nếu đó làmột cách để an ủi những người vừa mới mất đi người thân yêu, ông sẽ không phản đối nó nữa. Bản thân sự an ủi mới là quan trọng, chứ không phải là vấn đề nó đến từ đâu.
Cà phê sôi sùng sục làm Erlendur bỏng cả lưỡi khi ông vừa nhấp một ngụm. Ông tránh nghĩ đến cái điều đã dày vò mình cảđêm và sáng hôm đó, cố gắng không nhớ đến nó nữa.
Không ít thì nhiều.
Cựu Đại tá quân đội Mỹ Edward Hunter mang dáng dấp của một người Iceland h ơn là người Mỹ khi ăn vận một chiếc áo len kín đáo và nuôi bộ râu m ảnh màu trắng. Ông ta mời Erlendur và Elínborg vào ngôi nhà riêng của mình ở Kópavogur. Mái tóc ông ta rối bù và bẩn, tuy nhiên thái độ vẫn rất thân thiện vàlịch sự khi bắt tay hai thám tử và bảo họ cứ gọi mình là Ed. Kiểu cách đó khiến Erlendur nhớ đến Jim. Ông ta nói rằng vợ mình đang đi thăm chị gái của ông ta ở Mỹ. Còn bản thân ông ta thì ngày càng ít đến đó.
Trên đường đến thăm Ed, Elínborg đã nói với Erlendur rằng theo như lời Bára nói, khi vợ chưa cưới của Benjamín mất tích, cô tamặc một chiếc áo khoác màu xanh lục. Elínborg cho rằng điều này rất thú vị, nhưng Erlendur đã ch ặn cuộc nói chuyện bằng cách nói khá sẵng rằng ông không tin vào ma quỷ. Elínborg có cảm giác rằng chủ đề câu chuyện đã khép lại.
Ed đưa họ vào một phòng khách rộng, và khi nhìn quanh một lượt, Erlendur thấy có rất ít bằng chứng về cuộc sống quân ngũ của ông ta: trước mặt ông là hai bức tranh phong cảnh Iceland ảm đạm, những bức tượng đá của Iceland và những bức ảnh gia đình được lồng khung. Chẳng có gì khiến Erlendur nhớ đến quân đội hay Thế ch iến thứ hai.
Vì biết họ đến nên Ed đã chu ẩn bị sẵn cà phê, trà và bán h qu y. Sau mấy ph út nói chuyện xã giao miễn cưỡng, người lính già đi thẳng vào vấn đề và hỏi mình có thể giúp được gì. Ôn g ta nói một thứ tiếng Iceland hoàn hảo với những cụm từ ngắn và chính xác, như thể kỷ luật quân đội đã dạy ông ta phải biết giữ lại những gì quan trọng nhất.
"Ông Jim ở Đại sứ quán Anh nói cho chúng tôi biết rằng ông đã phục vụở đây trong suốt chiến tranh và ông có liên quan đến một vụ việc dính dán g đến kho quân nhu ở vị trí hiện nay của sân golf Grafahort."
"Phải, hiện giờ tôi vẫn thường xuy ên đến đó chơi golf," Ed nói. “Tôi đã nghe tin tức về những mẩu xương trên đồi. Jim nói với tôi các ông cho rằng có thể chú ng thuộc về một trong số những người của chúng tôi. Người Anh hoặc M ỹ."
"Có vụ việc gìxảy ra ở kho quân nhu thế?" Erlendur hỏi.
"Họ thường ăn cắp đồ," Ed nói. "Chuyện đó xảy ra ở hầu hết các kho quân nhu, tôi nghĩ rằng các ông gọi đó là ‘sự hao hụt’. Một nhó m binh línhăn cắp đồ d ự trữ và bán chúng cho người Iceland. Chuyện này bắt đầu xảy ra với quy mô nhỏ, nhưng dần dần họ bạo gan hơn và cuối cùng nó trở thành một vụ làm ăn lớn. Người sĩ quanhậu cần cũng tham gia cùng với họ. Tất cả những người ấy đều phải đi tù. Phải rời bỏ đất nước. Tôi nhớ chuyện đó rất rõ. Tôi có giữ một cuốn nhật ký và đã đọc lại nó sau khi Jim gọi điện. Tất cả những chuyện đó như sống lại trong tôi, việc ăn trộmấy. Tôi cũng gọi cho bạn tôi từ thời đó, Phil, ông ấy là thượng cấp của tôi. Chún g tôi đã cùng nhau ôn lại chuyện cũ."
"Làm thế nào mà vụ trộm cắp đó bị phát hiện?" Elínborg hỏi.
"Lòng tham đã khiến họ m ờ mắt. Trộm cắp với số lượng lớn như thế thì khó che giấu lắm. Rồi tin đồn về sự phá kỷ luật bắt đầu lan đi. "
"Có những ai liên lụy?" Erlendur lấy ra một điếu thuốc lá và Ed gật đầu ra dấu rằng ông cứ hút tự nhiên. Còn Elínborg nhìn Erlendur đầy trách cứ.
"Dân thường. Gần như là vậy. Sĩ quanhậu cần bị kết tội nặng nhất. Và ít nhất là có một người Iceland. Một người đàn ông sống trên đồi. Ở phía bên kia của kho quân nhu."
"Ông có nhớ tên anh ta không?"
"Không. Anh ta sống cùng gia đình trong một ng ôi nhà tuềnh toàng không được sơn. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều hàng hóa lấy từ kho quân nhu ở đó. Tôi viết trong nhật ký rằng anh ta có ba con, một trong sốđó là một cô gái bị tật nguyền. Hai đứa còn lại là con trai. Người mẹ…"
Ed yên lặng.
"Người mẹ thì sao?" Elínborg nói.
“Tôi nghĩ là cô ấy đã sống rất khổ sở." Ed lại yên lặng và trầm ngâm suy nghĩ như thểđan g đưa mình quay trở lại thời xa xôi đó, khi mà ông điều tra vụăn cắp, bước vào một ngôi nhà của người Iceland và gặp một người phụ nữ mà ông hiểu rằng cô là nạn nhân của bạo lực gia đình. Và không chỉ là nạn nhân của một trận đánh gần đây; rõ ràng cô đã phải chịu đựng sự ng ược đãi thường xuyên và có hệ thống, cả về thể chất lẫn tinh thần.
Ông hầu như không chú ý đến cô ấy khi bước vào ngôi nhà cùng bốn cảnh sát quân đội khác. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt ông là một bé gái bị tật ng uy ền nằm trên chiếc đi- v ăng cũ kỹ trong b ếp. Ông thấy hai Thằng con trai đứng bên cô bé, sững sờ và kinh ng ạc khi thấy quân lính xộc vào nhà. Ông nhìn thấy người đàn ông nhảy dựng lên từ bàn ăn. Họ đến mà không thông báo trước và rõ ràng là anh ta không mong chờ cuộc viếng thăm này. Chỉ cần liếc mắt họ cũng biết người nào cứng đầu, người nào có khả n ăng nguy hiểm. Người đàn ông này khó có thể gây khó khăn cho họ.
Sau đó ông thấy người phụ nữ. Lúc đó mới là đầu xuân, trời rất ảm đạm, phải mất một lúc ông mới quen với bóng tối trong nhà. Như thểđang lẩn trốn, người phụ nữ đứng ở chỗ mà ông nghĩ rằng mình có thể trông thấy một hành lang dẫn đến các phòng khác. Lúc đầu, ông bắt cô ấy vì nghĩ cô là một trong số những tên trộm và đang cố ch ạy trốn. Ông tiến lại chỗ hành lang, rút súng ra khỏi bao. Ông hét lên và chĩa súng vào bóng tối. Đứa bé bị què bắt đầu hét lên. Hai Thằng con trai lao vào ông ngay lập tức và hét lên những câu mà ông không hiểu. Vàngười phụ nữ bước ra khỏi bóng tối, người mà ông sẽ không bao giờ quên cho đến cuối đời.
Ngay lập tức ông nhận ra lý do tại sao cô lại giấu mình. Khuôn mặt cô bị bầm tím rất nặng, môi trên phồng lên còn một mắt bị sưng đến mức không thể m ở ra được. Cô nhìn ông bằng tia nhìn sợ hãi của con mắt còn lại, sau đó cúi đầu xuống như thể theo b ản năng. Như thể sợ ông ta chuẩn bịđánh mình. Cô mặc một chiếc váy rách tảtơi phủ bên ngoài một chiếc khác, đi đôi tất và đôi giầy cũ kỹ bẩn thỉu. Mái tóc b ẩn của cô xõa xuống vai thành một m ớ dày. Ông thấy cô đi kh ập khiễng. Đây là sinh vật khốn khổ nhất mà ông từng thấy trong đời.
Ông nhìn cô trong lúc cô cố gắng bảo các con bình tĩnh lại và hiểu rằng không phải cô đang cố gắng che giấu đi vẻ bề ngoài của mình.
Mà cô ấy đang che giấu sự xấu hổ.
Những đứa trẻ yên lặng. Thằng anh đứng đằng trước, quay lưng về phía mẹ. Ed nhìn sang chỗ gã chồng, tiến lại và tát vào mặt hắn một phát nổ đom đóm mắt.
"Chuyện là như thế," Ed kết thúc câu chuyện của mình. "Tôi không thể kiềm chế bản thân mình được. Không hiểu chuyện gì đã diễn ra. Tôi không hiểu chuyện gì đã xảy đến với mình. Thực sự, tôi không hiểu nổi. Chúng ta đã được huấn luyện, hai người biết đấy, được huấn luyện để đối mặt với tất cả mọi chuyện. Được hu ấn luyện để giữ bình tĩnh, cho dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Hai người có thể hình dung rằng, điều quan trọng nhất là phải kiểm soát được mình ở mọi nơi mọi lú c, trong khi chiến tranh đang xảy ra và tất cả những chuyện khác nữa. Nhưng khi tôi nhìn người phụ nữđó… khi tôi thấy những gì cô ấy phải chịu đựng - và chắc chắn là không chỉ có thế - tôi có thể hình dung ra cuộc sống của cô ấy dưới bàn tay tên khốn đó. Và có điều gì đó ch ợt xảy đến trong tôi. Có điều gì đó diễn ra mà tôi không thể n ào kiểm soát n ổi."
Ed dừng lại.
"Tôi làm cảnh sát ở Baltimore hai năm trước khi chiến tranh nổ ra. Hồi ấy chuyện đó không được gọi là bạo lực gia đình, nhưng nó cũng thế cả thôi. Tôi cũng đã bắt gặp điều đó, ở ngôi nhà đó và tôi luôn luôn gh ê tởm nó. Tôi có thể hình dung ra ngay những gì mà hắn đã làm, hắn lại còn ăn cắp của chú ng tôi nữa… nhưng, thế đấy, hắn lại bị xử bởi tòa án của các ông," Ed nói như thểđang cố gắng đẩy những hìnhảnh về người phụ nữ trên đồi ra khỏi tâm trí của mình. “Tôi không nghĩ là hắn phải chịu một bản án nặng. Chắc chắn hắn lại quay về nhà và đán h đập người vợ đáng thương trước khi cái thời h ạn hai tháng trôi qua."
"Như vậy, ông đang nói về bạo lực gia đình nghiêm trọng," Erlendur nói.
"Chuyện tồi tệ nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra. Ánh mắt của người phụ nữ đó, nó thật sự kinh hoàng," Ed nói. "Rất kinh hoàng. Như tôi đã nói, tôi có thể biết ngay tức khắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi cố gắng nói chuyện với cô ấy nhưng cô ấy không hiểu một từ tiếng Anh nào hết. Tôi nói với cảnh sát Iceland về cô ấy, nhưng họ nói rằng họ cũng không làm được gì nhiều. Chuyện đó cũng chẳng biến chuyển nhiều, tôi hiểu vậy."
"Ông không nhớ tên của họ à?" Elínborg hỏi. "Ông không ghi vào nhật ký à?"
"Không, nhưng các ông phải có báo cáo về việc đó. Về vụăn trộmấy. Và hắn lại làm việc trong kho quân nhu. Chắc chắn là phải có danh sách những người được thuê làm ở đó, những người Icelan d ở doanh trại trên đồi. Nhưng cóthể là đã quá lâu rồi."
“Thế còn những người lính thì sao?" Erlendur hỏi. "Những người mà tòa án của các ông x ửấy?"
"Họ bị ph ạt tù. Ăn cắp của kho quân nhu là tội rất nặng. Sau đó họ bị đưa ra chiến trường. Một bản án tử hình hoàn hảo."
"Và các ông bắt họ không sót một ai?"
"Ai mà biết được? Nhưng sau đó không còn nạn ăn cắp nữa. Việc kiểm kê hàng hóa lại trở lại bình thường. Vấn đề đã được giải quyết."
"Vậy ông không cho rằng chuyện này có chút dính líu gì đến bộ xương mà chúng tôi tìm thấy à?"
"Tôi không dám chắc."
"Ông không nhớ có ai bị mất tích trong lực lượng của ông hay của người Anhà?"
"Ý ông là một k ẻđào ngũư?"
"Không. Một vụ mất tích khó giải thích ấy. Vìbộ xương đó. Có thể là một lính Mỹở kho d ự trữ không?"
"Tôi không biết một thông tin nào hết. "
Họ nói chuyện với Ed thêm một lúc lâu nữa. Ông ta tỏ ra thích trò chuyện với hai thám tử. Dường như ông ta thích hồi tưởng lại những ngày x ưa cũ với sự giúp đỡ của cu ốn nhật ký của mình. Chẳng mấy ch ốc họđã nói chuyện về những năm chiến tranh ở Iceland và những ảnh hưởng của sự có mặt của quân đội cho đến khi Erlendur tỉnh táo lại. Mình không được phun g phí thời gian như thế. Ông đứng lên và Elínborg cũng thế, cả hai người họ cảm ơn Ed một cách chân thành.
Ed đứng lên để tiễn họ ra ng oài.
"Làm thế nào mà các ông phát hiện được vụăn cắp?" Erlendur hỏi ở bậc cửa.
"Phát hiện ra ư?" Ed nh ắc lại.
"Các ông lấy manh mối ở đâu?"
"À, tôi hiểu rồi. Một cuộc điện thoại. Có ai đó gọi điện đến sở chỉ huy và báo cáo về một vụ đánh cắp lớn ở kho dự trữ."
"Ai đã tố cáo nhỉ?"
"Chúng tôi không bao giờ tìm ra, tôi e vậy. Không bao giờ biết người đó là ai."
Ba người lính còn lại đứng yên ở cửa ra vào trong lúc người vừa tấn công Grímur đứng bên trên và quát nạt ông ta bằng những lời lẽ mà người Iceland không hiểu nổi. Símon không thể tin nổi vào mắt mình. Nó nhìn Tómas, khiếp đảm trước những gì đang diễn ra, và sau đó nhìn sang Mikkelína, chị nó đang nhìn chằm chằm đầy hoảng loạn vào Grímur - người lúc n ày đang nằm trên sàn nhà. Nó nhìn lên mẹ nó và thấy mắt mẹ rưng rưng nước.
Grímur không được phòn g bị từ trước. Khihọ nghe thấy tiếng hai chiếc xe jeep đỗ bên ngoài nhà, người mẹđã lẩn nhanh vào trong hành lang để không ai nhìn thấy mình, nhìn thấy hốc mắt tím bầm và đôi môi nứt toác. Grímur thậm chí còn chưa đứng lên khỏi bàn ăn, như thể hắn không lo lắng gì về việc trộm cắp của hắn và những tên ăn cắp vặt sẽ có ngày bị phát hiện. Hắn đang chờ những người b ạn lính của mình mang đến một ch uy ến h àng mà họ dự định sẽ giấu trong nhà và buổi tối sẽ vào thành phố bán chiến lợi phẩm của mình. Grímur có rất nhiều tiền và hắn bắt đầu nói đến chuyện chuyển đi khỏi ngọn đồi, mua một căn hộ, và thậm chí cả việc mua ô tô, nhưng chỉ khi nào tinh thần rất thoải mái hắn mới nói những chuyện như thế.
Những người lính dẫn Grímur ra khỏi nhà, tống hắn lên một trong hai chiếc xe jeep và giải hắn đi. Người đứng đầu - người đã đốn Grímur ngã xuống sàn mà không mất chút công sức khó nhọc nào - đã nói điều gì đó với người mẹ và sau đó chào tạm biệt, không phải là kiểu chào nhà binh mà là một cái bắt tay, sau đó ông ta leo lên chiếc xe jeep còn lại.
Ngôi nhà nh ỏ bé lại nhanh chóng chìm ng ập trong sự yên lặng. Người mẹ vẫn đứng nguyên ở chỗ hành lang như thể việc xâm nh ập vừa rồi vượt quá tầm hiểu biết của cô. Cô nhẹ nhàng xoa mắt, dán ch ặt mắt vào những gì mình vừa nhìn được. Mẹ con họ chưa bao giờ nhìn thấy cảnh Grímur nằm trên sàn nhà, chưa bao giờ chứng kiến hắn nằm chỏng queo như thế. Chưa có một ai dám quát hắn, chưa bao giờ thấy hắn kém cỏi như vậy. Họ không thể hiểu được chuyện gì vừa x ảy ra. Nó x ảy ra như thế nào. T ại sao Grímur lại không đánh lại người lính và dần cho họ một trận nh ừ tử. Những đứa trẻ nhìn nhau. Trong ngôi nhà, sự yên lặng trở nên ngột ngạt. Chúng nhìn mẹ k hi ng he thấy một âm thanh lạ. Âm thanh đó phát ra từ Mikkelína. Con bé ngồi xổm trên chi ếc gi ườ ng của nó và họ lại ng he thấy âm thanh ấy lần nữa. Họ thấy con bé cười rúc rích, và tiếng cười rúc rích chuyển dần thành tiếng cười kh ẩy, lúc đầu con bé đã cố gắng nín lại nhưng không được, về sau con bé cười ầm lên. Símon mỉm cười rồi cũng cười phá lên, Tómas cũng bắt ch ước, và ngay lập tức cả ba gào rú lên những tràng cười không dứt vang vọng kh ắp quả đồi, lan vào tiết trời xuân đẹp đẽ.
Hai tiếng sau, một xe tải quân đội đến và thu dọn hết tất cả những chiến lợi ph ẩm mà Grímur và đồng bọn đã giấu trong nhà. Những đứa trẻ nhìn theo cái xe tải dần đi xa, sau đó chúng ch ạy lên đồi và thấy nó quay trở lại kho quân nhu, nơi các món đồ được dỡ xuống.
Símon không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra và nó cũng không dám chắc là mẹ nó hiểu, nhưng Grímur đã bị kết án tù và trong một vài thán g tới ông ta sẽ không được phép về nhà. Lúc đầu, cuộc sống trên đồi vẫn diễn ra như mọi khi. Dường như họ không hiểu được rằng Grímur không còn ở nhà nữa. Ít nhất là trong thời gian hiện tại. Người mẹ vẫn làm những công việc vặt hàng ngày, không băn khoăn gì về việc sử dụng những của cải bất chín h của Grímur để nuôi sống bản thân và các con. Về sau cô tự tìm việc là mình ở nông trại Gufunes cách nhà tầm nửa tiếng đồng hồđi bộ.
Khi thời tiết thu ận lợi, hai thằng con trai vẫn đưa Mikkelína ra tắm nắng. Đôi lúc chúng đưa chịđi cùng mỗi khi đi câu cá ở hồ Reynisvatn. Nếu chún g bắt được đủ cá hồi, mẹ chúng sẽ rán cá trong chảo và n ấu một b ữa ngon lành. Dần dần, họ không còn e ng ại rằng Grímur vẫn kìm kẹp mình ngay cả khi hắn không ở nhà nữa. Việc thức dậy vào buổi sáng dễ dàng hơn rất nhiều, một ngày trôi qua mà không ai phải lo lắng điều gì, và đêm đã về mà ngôi nhà vẫn chìm trong yên tĩnh, chuyện này thật dễ chịu đến mức họ thức đến tận đêm khuya trò chuyện và chơi đùa cho đến khi mắt díp hết cả lại.
Tuy nhiên, sự vắng mặt của Grímur ảnh hưởng lớn nhất đến mẹ của lũ trẻ. Một ngày, khi cuối cùng cô cũng nhận ra rằng hắn sẽ không quay trở lại ngay nữa, cô lau chùi từng phân trên chiếc giường đôi của họ. Cô phơi đệm ra ngo ài sân, đập và phủi tất cả những bụi bẩn bám trên đó. Sau đó cô mang ch ăn m ền ra và đập cả chúng nữa. Cô thay khăn trải giường, tắm rửa cho các con với xà phòng màu xanh và nước nóng lấy từ cái bình lớn cô đặt trên sàn bếp. Cuối cùng, cô cẩn thận gội đầu và rửa mặt sạch sẽ - trên đó vẫn còn hằn những dấu vết từ lần đánh đập trước của Grímur - cô tắm cả người mình. Cô lưỡng lự cầm một cái gương lên và soi vào đó. Cô xoa mắt và môi. Người cô đã gầy đi và khuôn mặt đã đanh hơn, răng hơi nhô ra một chút, hai mắt trũng sâu còn cái mũi từng gãy một lần có một đường cong khó nhận ra.
Đến nửa đêm, cô đưa các con lên giường và cả bốn mẹ con họ ngủ cùng nhau. T ừđó, những đứa trẻ ngủ trên chiếc giường lớn cùng mẹ, Mikkelína nằm bên phải, hai thằng con trai nằm bên trái, thật h ạn h phú c.
Cô chưa bao giờ vào th ăm Grímur trong tù. Cô và cả các con của cô chưa bao giờ nh ắc đến tên hắn trong suốt thời gian hắn vắng nhà.
Một buổi sáng không lâu sau khi Grímur bị đưa đi, Dave - anh lính tốt bụng - lại đi bộ lên đồi, tay cầm theo cần câu. Anh ta đi qua ngôi nhà của họ và nháy mắt với Símon, Thằng bé đang đứng trước nhà, và tiếp tục đi đến Hafravatn. Símon lại bắt đầu theo dõi, nó nằm xuống cách anh ta một khoảng đủ để quan sát. Dave ngồi cả ngày bên hồ, nghỉ ngơi như mọi lần và hình như không quan tâm xem mình bắt được bao nhiêu cá. Anh ta bắt được ba con.
Khi trời chuyển sang chiều, anh ta quay trở lại lên đồi và dừng lại bên nhà họ với ba con cá buộc đuôi lại với nhau bằng một sợi dây. Bản thân Dave cũng không chắc chắn, và Símon cũng có v ẻ như thế. Thằng bé đã ch ạy trở lại nhà để theo dõi người lính qua cửa sổ bếp - nơi mà nó chắc chắc là Dave không thể trông thấy mình. Cuối cù ng người lính đã quyết địn h, anh ta bước đến ngôi nhà và gõ cửa.
Símon đã kể mẹ nghe về Dave, người cho cá hồi lần trước, cô bước ra và nhìn xung quanh tìm anh ta, lại vào nhà, nhìn mình trong gương và vuốt lại tóc. Dường như cô cảm thấy rằng anh ta sẽ ghé qua trên đường trở về doanh trại. Cô đã sẵn sàng chào Dave khi anh ta đến.
Cô m ở cửa và Dave mỉm cười, nói điều gì đó mà cô không hiểu và đưa cho cô mấy con cá. Cô cầm lấy và mời anh ta vào nhà. Dave bước vào và đứng lúng tún g trong bếp. Anh ta gật đầu với mấy đứa trẻ và với Mikkelína. Con bé duỗi thẳng người và cố rướn lên để nhìn anh lính cho rõ - người đã đi một quãng đường xa như vậy chỉ để đứng trong bếp nhà họ. Anh ta mặc quân phục và đội một chiếc mũ buồn cười trông chẳng khác nào một cái thuy ền úp ng ược. Dave đột ngột nhớ ra là phải bỏ nó ra khỏi đầu khi bước vào nên anh ta túm lấy nó và giật xuống đầy ng ượng nghịu. Anh ta người tầm thước, chắc chắn là trên ba mươi tuổi, người mảnh khảnh với hai bàn tay đẹp đang nghịch vớ vẩn cái thuyền úp ngược, tay vặn vẹo như thể là đang giặt nó. Cô phác một cử chỉ mời anh ta ngồi, anh ta ngồi xuống, hai đứa con trai mỗi đứa ngồi một bên trong lúc mẹ chúng pha cà phê mời khách - loại cà phê Grímur đã ăn cắp ở kho quân nhu mà những người lính không phát hiện ra. Dave đã biết tên của Símon và phát hiện ra rằng cái tên Tómas của cậu út rất dễ phát âm. Tên của Mikkelína làm anh ta ngạc nhiên, Dave đọc đi đọc lại, khôi hài đến mức tất cả mọi người đều phải bật cười. Anh ta nói rằng tên mình là Dave Welch, đến từ một vùng có tên là Brooklyn ở Hoa Kỳ. Anh ta nói rằng mình là một binh nhì nhưng họ chẳng hiểu anh ta đang nói gì.
"Một binh nhì," anh ta nhắc lại, nhưng họ chỉ nhìn anh ta chằm chằm.
Anh ta uống cà phê và có vẻ rất hài lòng với mùi vị của nó.
Người mẹ ngồi đối diện với anh ta ở đầu kia của bàn.
"Tôi biết là chồng cô đang ở trong tù," anh ta nói. "Vì tội ăn cắp."
Anh ta không nhận được lời đáp lại.
Liếc nhìn lũ trẻ, anh lấy ra một mẩu giấy trong túi áo ngực và xoay xoay nó giữa các ngón tay như thể là không biết phải làm gì. Sau đó anh ta đưa tờ giấy qua bàn cho người mẹ. Cô cầm lên, mở nó ra và đọc xem nó nói gì. Cô nhìn anh ta ngạc nhiên, sau đó lại nhìn mẩu giấy. Sau đó cô gấp mẩu giấy lại và để vào túi tạp dề.
Tómas cố gắng để Dave hiểu rằng anh ra phải thử phát âm lại tên Mikkelína lần nữa, và khi anh ta nói lại, tất cả mọi người lại bắt đầu cười, còn Mikkelína cười nhăn hết cả mặt trong niềm vui đích thực.
Mùa hè năm đó, Dave Welch đến thăm nhà họ thườn g xuyên hơn, anh kết bạn với lũ trẻ và mẹ chúng. Anh câu cá ở hai hồ và đưa cá cho họ, anh còn lấy thêm những thứ nho nhỏ cho họ từ kho quân nhu nữa. Những thứ này rất có ích với họ. Anh chơi đùa cùng lũ trẻ, còn chúng thì tỏ ra rất vui sướng khi anh có mặt ở đó. Anh luôn luôn mang theo cuốn sổ của mình để giúp lũ trẻ hiểu bằng tiếng Iceland. Họ cười lăn cười bò khi thấy Dave ấp úng một cụm từ tiếng Iceland. Khuôn mặt nghiêm túc trái ngược hẳn với những gì anh nói, và cái cách mà anh phát âm thì chẳng khác nào một đứa trẻ ba tuổi đang bập bẹ.
Nhưng Dave là một người sáng dạ nên chẳng bao lâu họ đã hiểu anh và anh cũng hiểu những gì họ nói. Hai đứa con trai đưa anh đến những n ơi câu cá tốt nhất, chúng đi bộ đầy tự hào cùng anh lên đồi và vòng quanh hồ. Hai đứa trẻ còn được học tiếng Anh với Dave cùng những bài hát M ỹ mà chúng nghe thấy từ kho quân nhu.
Anh tạo dựng một mối quanh ệ đặc biệt với Mikkelína. Ng ay lập tức anh chiếm trọn cảm tình của cô bé. Anh thường đưa cô bé ra ngoài vào những ngày đẹp trời và kiểm tra khả năng nhận thức của nó. Cách dạy của anh cũng giống như mẹ nó: nâng đỡ ch ân tay cho nó, đỡ nó trong lúc đi lại, giúp nó tập tất cả các bài thể dục. Một ngày, anh đưa một bác sĩ quân y đến để kiểm tra sức khỏe cho Mikkelína. Ông bác sĩ soi đèn pin vào mắt và cổ họng nó, xoay đầu nó, sờ vào cổ và xem xét dọc xương sống nó. Ông ta mang theo nhiều kh ối gỗ và luồn người con bé vào những cái lỗ trên đó. Chuyện đó không hề khó khăn với con bé chút nào. Ông ta nghe kể rằng cô bé bịốm năm lên ba tuổi và có thể hiểu được những gì người khác nói nhưng lại không nói được. Ông ta cũng nghe rằng con bé có thể đọc được và mẹ con bé đã d ạy nó viết. Bác sĩ gật đầu ra ch ừng đã hiểu, trên mặt biểu lộ một ánh nhìn đầy ý nghĩa. Ông ta đã nói chuyện rất lâu với Dave sau cuộc kiểm tra và khi ông ta rời đi, Dave cố gắng làm cho họ hiểu rằng Mikkelína hoàn toàn khỏe mạnh. T ất cả mọi người đều đã biết điều đó. Nhưng anh ta nói rằng, dần dần, với những bài luyện tập thích hợp và nỗ lực không ng ừng, Mikkelína sẽ có thểđi lại được mà không cần ai giúp đỡ.
"Đi lại được ư!" Người mẹ nhảy dựng lên.
"Và thậm chí là cả nói năng bình thường nữa," Dave nói thêm. "Có lẽ vậy. Côbé đã đi khám bác sĩ lần nào chưa?"
"Chuyện đó nằm ngoài khả năng của tôi," người mẹ nói buồn bã.
"Cô bé sẽ ổn thôi," Dave nói. "Hãy cho cô bé thời gian. "
Người mẹ không nghe anh ta nói nữa.
"Hắn là một gã đàn ông tệ bạc," cô đột ngột nói. Và tất cả những đứa trẻ dỏng tai lên vì chúng chưa bao giờ nghe thấy mẹ nói một lời nào về Grímur giống như lần này cả. "Một gã đàn ông tệ bạc," cô nói tiếp, "một sinh vật đáng ghét không xứng đáng được sống. Tôi không hiểu tại sao người ta lại được phép làm những điều mình muốn. Điều gì khiến người ta làm như vậy? Điều gì đã khiến hắn biến thành một con quái vật như vậy? Tại sao hắn lại cư xử như một con vật hết năm này qua năm khác, cứ đánh đập tôi cho đến khi tôi muốn chết và nghĩ cách làm thế nào để…"
Cô trút một hơi thở dài và đến ngồi bên Mikkelína.
"Tôi cảm thấy xấu hổ vì là nạn nhân của một gã đàn ông như thế, tôi giấu mình trong nỗi cô đơn vây bủa và ngăn chặn tất cả mọi người đi vào thế giới của mình, thậm chí là các con mình, vì tôi không muốn ai đặt chân vào đó, ít nhất là tất cả bọn họ. Và tôi ngồi chờ đợi lần đán h đập bất ng ờ tiếp theo, lòng tràn ngập sự căm thù đối với một điều gì đó mà tôi không biết. Tôi dành cả cuộc đời mình để chờ đợi lần tấn công tới, băn khoắn khi nào thì nó đến, nó sẽ tệ như thế nào, lý do là gì, làm thế nào để né tránh nó. Tôi càng cố làm hắn hài lòng thì hắn càng tức giận. Tôi càng thể hiện là mình ngoan ngoãn và sợ hãi, hắn lại càng ghê tởm tôi. Và nếu tôi chống lại, hắn càng có lý do để đánh tôi nhừ tử. Chẳng có cách nào để làm đúng mọi chuyện. Không có cách nào. Cho đến khi tôi nghĩ về việc làm thế nào để vượt qua chuyện đó. Không quan trọng là thế nào. Chỉ cần vượt qua nó là được."
Một sự yên lặng chết chóc bao trùm. Mikkelína nằm yên trên giường còn hai thằng con trai tiến lại gần chỗ mẹ. Chúng lắng nghe và chết lặng đi trước từng lời mẹ nói. Chưa bao giờ mẹ chúng khơi ra nỗi đau và sự dằn vặt mà bà vật lộn với chúng lâu đến mức bà đã quên sạch những thứ khác.
"Mọi chuyện sẽ ổn thôi," Dave nói.
"Con sẽ giúp mẹ," Símon nghiêm túc nói.
Cô nhìn con trai.
"Mẹ biết, Símon," cô đáp. "Mẹ luôn biết điều đó, Símon tội nghiệp của mẹ."
Ngày tháng cứ thế trôi đi và Dave dành hết thời gian rảnh rỗi của mình đến nhà họ. Càng ngày anh càng dành nhiều thời gian bên mẹ chúng, hoặc ở trong nhà hoặc đi dạo quanh hồ Reynisv atn hay đến Hafravatn. Hai thằng con trai muốn gặp anh nhiều hơn, nhưng anh đã thôi không còn đi câu cá với chúng cũng như dành ít thời gian bên Mikkelína hơn. Nhưng chúng không buồn. Chún g để ý thấy sự thay đổi nơi mẹ, chúng gắn chuyện đó với Dave và thấy mừng cho mẹ.
Một ngày mùa thu đẹp trời, gần nửa năm sau khi Grímur bị cảnh sát đưa đi, Símon thấy Dave và mẹ nó từ xa, họ đang đi bộ về phía ngôi nhà. Họ đi sát cạnh nhau và tất cả những gì nó thấy là hai người đang nắm tay nhau. Khi họ đến gần nhà hơn, hai người bỏ tay ra và đi cách xa nhau, và Símon nhận ra là họ không muốn để ai nhìn thấy.
"Mẹ và chú Dave dự định sẽ làm gì?" Símon hỏi mẹ vào một buổi tối mùa thu sau khi hoàng hôn đã đổ xuống ng ọn đồi. Họ ngồi trong bếp. Tómas và Mikkelína đang chơi bài. Dave ở đó cả ngày cùng họ, sau đó quay trở về đơn vị. Câu hỏi đó đã được đặt ra suốt mùa hè. Những đứa trẻđã thảo luận riêng về chuyện đó và tưởng tượng ra rất nhiều tình hu ống mà cái nào cũng kết thúc bằng việc Dave trở thành bố của chúng và tống khứ Grímur ra khỏi cuộc sống của mẹ con chúng mãi mãi.
"Ý con là sao, làm gì là làm gì?" mẹ nó hỏi.
"Khi ông ta trở vềấy," Símon nói, nó thấy Tómas và Mikkelína đã thôi chơi bài và đang nhìn n ó.
"Còn rất nhiều thời gian để nghĩ đến chuyện đó mà," cô đáp. "Ông ta sẽ không trở về ng ay đâu."
"Nhưng hai người định sẽ làm gì?" Mikkelína và Tómas quay đầu từ Símon sang mẹ.
Cô nhìn Símon và hai đứa kia.
"Chú ấy sẽ giúp chúng ta," cô nói.
"Ai cơ?" Símon hỏi.
"Dave. Chú ấy sẽ giúp chúng ta."
"Chú ấy định làm gì?" Símon nhìn mẹ, cố gắng hiểu ý của bà. Cố nhìn thẳng vào mắt bà.
"Dave biết rõ loại người đó. Chú ấy biết cách để loại trừ chúng. "
"Chú ấy sẽ làm gì cơ?" Símon nh ắc lại.
"Con đừng lo về chuyện đó," người mẹđáp.
"Chú ấy sẽ giúp chúng ta tránh khỏi ông ta ư?"
"Phải."
"Làm thế nào cơ?"
"Mẹ không biết. Chúng ta càng biết ít càng tốt, chú ấy nói vậy. Và tốt nhất là mẹ không nên nói với các con chuyện này. Có thể chú ấy sẽ nói chuyện với ông ta. Đe dọa ông ta. Chú ấy nói rằng chú ấy có bạn bè trong quân đội và họ sẽ giúp chú ấy khi cần thiết."
"Nhưng nếu Dave ra đi thì sao?"
"Ra đi ư?"
"Nếu chú ấy rời Iceland, " Símon nói. "Chú ấy sẽ không thể ở đây mãi được. Chú ấy là quân nhân. Người ta luôn chuyển quân đi và đưa quân mới đến. Nếu chú ấy đi thì sao? Lúc đó chúng ta sẽ làm gì?"
Cô nhìn con trai.
"Chúng ta sẽ tìm cách," cô nói bằng giọng trầm. "Lúc đó chúng ta sẽ tìm cách."