Bụi Lý Chua Máu

Chương 17

Mãi về sau, Erlendur mới tìm được chuyện để nói với con gái. Ông đã nghiên cứu rất kỹ ở Thư viện Quốc gia, tập hợp thông tin trên báo chí - những ấn bản được phát hành năm 1 910- năm mà sao chổi Halley b ăng qua Trái đất với cái đuôi mà người ta cho rằng chứa đầy chất độc xy- a- nua. Ông được đặc cách cho phép đọc trên giấy tờ thay vì đọc trên máy vi phim. Ông thích được vùi đầu vào sách vở và báo cũ, thích nghe tiếng những trang giấy sột soạt, thích hít thở mùi giấy đã ố vàng và cảm nhận mùi thời gian để lại trên những trang giấy cứng, bây giờ và mãi mãi.

Khi Erlendur ngồi xuống bên giường bệnh của Eva Lind và bắt đầu kể cho con bé nghe về việc phát hiện ra bộ xương ở Grafarholt, trời đã bắt đầu sập tối. Ôngkể cho nó nghe chuyện các nhà khảo cổ phân chia khu đất có bộ xương thành các khu vực nhỏ, kể chuyện Skarphédinn có những chiếc răng nanh khiến ông ta không thể ng ậm miệng lại được. Ông nói về những bụi cây lý chua và những miêu tả lạ lùng của ông già Róbert về một cô gái méo mó mặc đồ màu xanh. Ông kể về Benjamín Knudsen và vợ chưa cưới của ông ta - người bỗng dưng một ngày biến mất, và tác động của việc đó đối với chàng trai. Ông cũng nh ắc đến Höskuldur, người đã thuê ngôi nhà gỗ trong chiến tranh, và kể về việc Benjamín nói rằng có một người phụ nữ sống trên đồi được sinh ra ở thùng chứa ga sau cái đêm mà tất cả mọi người cho rằng thế giới sẽ bị hủy diệt.

"Đó là năm Mark Twain 1 mất," Erlendur nói.

Sao chổi Halley lao thẳng xuống trái đất với một tốc độ kinh hoàng, đuôi của nó chứa đầy khí độc. Thậm chí nếu Trái đất không bị vỡ vụ thành những mảnh nhỏ sau vụ va chạm, người ta vẫn tin rằng cái đuôi sao chổi sẽ quét qua trái đất và tất cả mọi sinh vật sẽ chết hết. Những người lo sợ nhất thì cho rằng họ sẽ bị lửa và axit thiêu rụi. Cơn hoảng loạn bùng nổ, không chỉở Iceland mà ở khắp nơi trên toàn thế giới. Ở Áo, Trieste và Dalmatia, người ta bán tất cả tài sản của mình chỉ trong nháy mắt để lao vào những trò tiêu khiển trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của mình. Ở Thụy Sĩ, các trường tư thục dành cho nữ sinh vắng không một bóng người vì các gia đình cho rằng họ nên ở bên nhau vào giây phút ngôi sao chổi hủy diệt trái đất. Giới tu sĩ được dạy cách nói theo các thuật ngữ thông thường về thiên văn học để xoa dịu nỗi s ợ hãi của con người.

Ở Reykjavík, người ta nói rằng phụ nữ trốn vào gầm giường vì sợ ngày tận thế, rất nhiều người tin rằng "mùa xuân lạnh lẽo năm đó là do sao chổi gây nên", theo như một tờ báo đã nói. Người già bắt đầu nói về chuyện thời tiết tồi tệ như thế nào trong

[i]1 Mark Twain là một nhà văn nổi tiếng ngườiMỹ, ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi Halley xuất hiện lạinăm 1910. lần sao chổi đến gần Trái đất trước đó.

Vào khoảng thời gian đó, ở Rey kjavík, khí đốt được cho là chìa khóa dẫn đến tương lai. Đèn khí đốt được sử dụng rộng rãi trong thành phố, mặc dù nó không phổ biến đến mức trở thành đèn thắp sáng trên đường phố nhưng người dân vẫn đốt chúng trong nhà mình. Bước tiếp theo trong kế hoạch là xây dựng một nhà máy sản xuất khí đốt hiện đại ở vù ng ngoại ô để đáp ứng toàn bộ nhu cầu tiêu thụ gas của người dân trong nhiều thập kỷ tới. Thị trưởng thành phố Reykjavík đã đàm phán với một công ty của Đức, và Carl Franke - một kỹ sư - đã đi từ Bremen đến Reykjavík cùng với một nhóm chuyên gia khác để xây dựn g nhà máy sản xuất khí đốt Reykjavík. Nó đi vào hoạt động vào mùa thu năm 1910.

Bản thân cái thùng là một cái máy kh ổng lồ với dung tích lên đến một nghìn năm trăm mét khối. Nó được gọi là "thùng chuông" vì nó có thể nổi trên mặt n ước ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào lượn g khí đốt bên trong. Chưa bao giờ nhìn thấy một thứ gì kỳ lạ như thế, người dân đổ xô đến xem nó được xây dựng như thế nào.

Khi cái thùng sắp sửa được làm xong, một nhó m người tụ tập bên trong vào cái đêm ngày mười tám tháng Năm. Họ tin rằng cái thù ng đó là n ơi duy nhất ở Iceland có thể bảo vệ được con người tho át khỏi luồng khí độc của đuôi sao chổi. Người ta kh áo nhau rằng trong cái thùng ấy đã diễn ra một bữa tiệc và những người ở đó đã cố gắng tận hưởng nốt một đêm trụy lạc ngay trước ngày tận thế.

Một vài ngày sau, chuyện x ảy ra ở cái thùng chứa ga lan đi nh anh như lửa ch áy. Người ta đồn rằng những người say xỉn trong cái đêm thác loạn ấy đã chơi bời thả cửa đến tận rạng đông - khi họ nhận ra rằng rõ ràng là Trái đất không bị hủy diệt, không va chạm gì với sao chổi cũng như chẳng có ngọn lửa địa ngục nào phát từ cái đuôi của nó hết. Người ta còn nói rằng có một số đứa trẻ được sinh ra từ sau cái đêm hôm đó, và Erlendur băn khoắn liệu có phải nhiều năm sau đó, một trong số chúng đã chết ở Grafarholt và được chôn cất tại đó không.

"Văn phòng quản lý Nhà máy đó đến nay vẫn còn," ôn g nói với Eva Lind, không biết nó có nghe được mình nói hay không. "Nhưng ngoài cái đó ra, mọi dấu vết của Nhà máy đã mất hết. Cuối cùng, ngu ồn n ăng lượng của tương lai hóa ra lại là điện chứ không phải khí đốt, con ạ. Cái nhà máy ấy ở Raudarárstígur, ngày nay đã biến thành trạm xe bus Hlemmur, và nó vẫn hoạt động tốt bất kể trong quá khứ nó có là cái gì đi chăng nữa. Vào những ngày rét cắt da cắt thịt, những người vô gia cư vẫn thường đến đó, ngồi bên ngọn đèn sưởi ấm, nhất là vào ban đêm. Và vào thời kỳđen tối nhất của mùa đông, nơi đó thường có rất đông người đến."

Eva Lind chẳng có phản ứng gì khi Erlendur kể câu chuyện đó. Ông cũng chẳng mong chờ điều ấy xảy ra. Ông không mong chờ vào phép màu.

"Nhà máy sản xuất khí đốt được xây dựng trên một mảnh đất nhỏ có tên là Elsumýrarblettur," ông nói tiếp và mỉm cười trước sự mỉa mai của Thượng đế. "Nhiều năm sau khi nhà máy đó bị phá hủy và cái thùng chứa bị dời đi, Elsumýrarblettur đã bị sa sút rất nhiều. Sau đó một lô văn phòng được xây dựng trên m ảnh đất đó, đối diện với trạm xe bus. Cái lô đó bây giờ là trụ sở cảnh sát Reykjavík. Văn phòng của bố ở đó. Ởđúng vị trí của cái thùng chứa trước đây."

Erlendur ngừng lại.

“Tất cả chúng ta đều chờ đến ngày cuối cùng của thế giới," ông nói. "Không cần biết đó là một ngôi sao chổi hay thứ gì. Tất cả chúng ta đều có ngày tận thế của riêng mình. Một số người tự mang nó đến với mình. Một số người né tránh nó. Hầu hết chúng ta đều sợ nó, có phần kính nể nó. Nhưng không phải là con. Con không bao giờ sợ hãi bất cứ điều gì. Và con cũng không sợ cả cái ngày tận thế bé nhỏ của mình."

Erlendur ngồi yên nhìn con gái, không biết việc mình nói chuyện với con - trong khi d ường như nó chẳng nghe được một lời nào - có ý nghĩa gì không. Ông nhớ lại lời ông bác sĩ nói và cảm thấy khuây khỏa đôi chút khi nói chuyện với con gái như thế này. Rất ít khi ông có thể nói chuyện với nó một cách bình tĩnh và d ễ dàng. Sự căng thẳng đã nhu ốm lên toàn bộ m ối quanh ệ giữa hai bố con khiến họ rất hiếm khi ngồi xuống để nói chuyện nhẹ nhàng với nhau.

Nhưng cũng chẳng mấy khi họ nói chuyện, Erlendur cười nhăn nhó. Ông cứ nói còn con bé cứ không nghe. Về chuyện đó thì chẳng có gì thay đổi giữa họ cả. Có thểđó là những điều con bé không muốn ng he. Việc phát hiện ra bộ xương, nhà máy khí đốt, ngôi sao chổi và vụăn chơi thác lo ạn. Có thể con bé muốn nghe ông nói về một chuyện gì đó hoàn toàn khác. Về bản thân ông. Hoặc về gia đình họ.

Ông đứng lên, cúi xuống hôn vào trán nó rồi ra khỏi phòng. Erlendur vẫn chìm đắm trong dòng suy nghĩ, và thay vì rẽ phải xuống cầu thang đi ra khỏi khu điều trị, ông lại đi theo hướng ngược lại đến khu chăm sóc đặc biệt, đi qua những căn phòng chiếu sáng lờ mờ nơi các bệnh nhân khác đang nằm, cơ thể họ được nối với tất cả những thiết bị tối tân nhất. Ông chỉ sực tỉnh khỏi cơn mê khi đã đi đến cuối hành lang. Ông đang định quay lại thì có một người phụ nữ bé nhỏ đi ra từ căn phòng trong cùng và đụng phải ông.

"Xin lỗi," cô ta nói bằng giọng hơi gắt.

"Không, tôi mới phải xin lỗi," Erlendur bối rối nhìn quanh. "Tôi không định đi lối này. Tôi định ra khỏi khu điều trị cơ."

“Tôi được gọi đến đây," người phụ nữ thấp bé nói. Tóc cô ta mỏng quẹt, bộ ngực khổng lồ chỉ được che đậy dưới cái áo phông màu tím, người cô ta tròn lẳn với khuô n mặt thân thiện. Erlendur thấy một hàng ria đen ở trên mép cô ta. Erlendur liếc vào trong phòng nơi người phụ nữ này vừa đi ra và thấy một ông già đang nằm đắp chăn trên giường, khuôn mặt gầy guộc, xanh xao. Một người phụ nữ khoác áo lông thú đắt tiền ngồi bên cạnh giường bệnh, bà ta đưa bàn tay đeo găng chặm khăn lên mũi.

"Vẫn còn có một số người tin vào các ông đồng bà cốt," người phụ nữ nói nhỏ, như thể là nói với chính mình.

"Xin lỗi, tôi không hiểu…"

“Tôi được gọi đến đây," cô ta nói và nhẹ nhàng đưa Erlendur ra xa căn phòng. "Ông ta sắp chết rồi. Họ không thể làm gì được nữa. Vợ ông ta đang ở đó. Bà ta nh ờ tôi liên hệ với ông ta. Ông ta đang bị hôn mê và người ta nói rằng họ đã làm hết sức mình, nhưng ông ta không muốn chết. Như kiểu là ông ta không muốn ra đi ấy. Bà ta nhờ tôi giúp, nhưng tôi không thể tìm ra ông ta."

"Tìm ra ông ta?" Erlendur hỏi.

"Ở thếgiới bên kia ấy."

"Bên kia... cô là một bà đồng ư?"

"Bà ta không hiểu rằng chồng mình đang h ấphối. Cách đây mấy ngày ông ta ra ngoài và điều tiếp theo mà bà ta biết là cảnh sát gọi đến và thông báo có một vụ tai nạn ô tô xảy ra trên đường West. Lúc đó ông ta đang trên đường đến Borgarfjördu. Một chiếc xe tải đi ch ệch sang làn đường của ông ta. Họ nói rằng việc cứu ông ta là vô vọng. Não đã chết. "

Cô ta nhìn lên Erlendur, còn ông thì đang nhìn cô ta chằm chằm không hiểu gì.

"Bà ta là bạn tôi."

Erlendur không biết cô ta đang nói về chuyện gì và tại sao cô ta lại nói với mình tất cả những chuyện này ở một hành lang tối lờ m ờ với giọng thì thầm bí ẩn. Ông nói lời tạm biệt cụt lủn với người phụ nữ mà ông chưa từng gặp trước đây. Ông đang chu ẩn bị bước đi thì cô ta túm lấy tay ông.

"Chờ một lát," cô ta nói.

"Xin lỗi?"

"Chờ một lát."

"Xin lỗi, nhưng đây không phải là việc của tôi…"

"Có một cậu bé ở đó," người phụ nữ bé nhỏ nói. Erlendur không nghe rõ cô ta nói gì. "Có một cậu bé trong trận bão tuyết," cô ta nói tiếp. Erlendur nhìn cô ta đầy kinh ngạc và giật tay ra như thể ông vừa bị đâm một nhát.

"Cô đang nói gì cơ?" ông hỏi.

"Ông có biết đó là ai không?" người phụ nữ hỏi và nhìn lên Erlendur.

"Tôi không hiểu một chút nào về những điều cô đang nói," Erlendur ngắt lời cô ta, quay người và đi xuống hành lang dẫn ra ngoài.

"Ông không phải sợ gì cả," cô ta nói đằng sau. "Cậu ta chấp nhận điều đó. Cậu ta chấp nhận những gì đã xảy ra. Đó không phải là lỗi của ai hết."

Erlendur d ừng lại, ch ầm chậm quay lưng và nhìn chằm chằm vào người phụ nữ bé nhỏở đầu kia của hành lang. Ông không hiểu tại sao cô ta lại cứ khăng khăng như vậy.

"Thằng bé đó là ai?" cô hỏi. "Tại sao nó lại đi với ông?"

"Chẳng có đứa bé nào hết," Erlendur khịt mũi. "Tôi không hiểu ý cô. Tôi không hề quen biết cô và tôi cũng chẳng biết cô đang nói đến đứa bé nào. Để tôi yên!" ông quát lên.

Sau đó ông quay người và lao ra khỏi khu điều trị.

"Để tôi yên," ông rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.