"Cônghĩ sao về những điều Höskuldur vừa mới nói?" Erlendur hỏi cô khi họ đã lên xe.
"Câu chuyện về nhà máy sản xu ất khí đốt ấy thật lố bịch," Elínb org đáp. "Sẽ rất thú vị nếu ông tìm được thông tin về vụđó đấy. Nhưng tất nhiên là những điều mà ông ta nói về chuyện ngồi lê đôi mách thì không sai một tẹo nào. Chúng ta rất thích thú khi kể những câu chuyện xấu xa về người khác. Những lời đồn đại đó chẳng thể nói lên được gì về chuyện Benjamín có phải là một tên sát nhân thực sự hay không, và ông cũng hiểu điều đó mà."
"Phải, nhưng còn câu thành ngữ ‘Không có lửa làm sao có khói’ thì sao?"
"Những thành ng ữ," cô lẩm bẩm. "Tôi sẽ hỏi em gái bà ấy. Nói chuyện khác đi. Eva Lind thế nào rồi?"
"Con bé vẫn đang nằm trên giường bệnh. Bác sĩ bảo tôi phải nói chuyện với con bé."
"Nói chuyện với nó ư?"
"Ông ấy cho rằng nó có thể ngh e được qua cơn hôn mê, và điều đó rất tốt cho nó."
"Vậy ông nói gì với nó?"
"Chẳng có gì nhiều," Erlendur nói. "Tôi chẳng biết phải nói gì cả."
Em gái vợ chưa cưới của Benjamín đã ngh e những lời đàm tiếu nhưng bà ta phủ nhận thẳng thừng những tin đồn đó. Tên bà ta là Bára, vẫn còn khá trẻ so với chị mình. Bà ta sống trong một ngôi nhà riêng ở Grafarvogur cùng chồng là một do anh nhân giàu có. Cuộc sống của họ rất xa xỉ, phon g lưu với đủ các đồ nội thất hoa mỹ bày biện trong nhà. Bà ta đeo những đồ trang sức đắt tiền và tỏ ra hợm hĩnh trước mặt Elínborg - người thám tử đang ngồi trong phòng khách. Elínborg đã nói qu a điện tho ại những điều mà cô muốn hỏi và nghĩ rằng người đàn bà này chưa bao giờ phải lo lắng về tiền bạc, bà ta luôn thỏa mãn mọi nhu cầu của mình và không bao giờ giao du với những người dưới đẳng cấp. Có lẽ bà ta đã không còn phải lo lắng về bất cứ điều gì từ lâu lắm rồi. Elínborg có cảm giác rằng đây là cuộc đời đang chờ đợi trước mắt chị gái Bára trong khoảng thời gian cô biến mất.
"Chị tôi thực s ự yêu Benjamín, nhưn g tôi không thể hiểu nổi tại sao. Đối với tôi ông ta chỉ là một kẻ tẻ nhạt tầm thường. Tất nhiên là không vô giáo dục, nhà Knudsen là dòng họ lâu đời nhất ở Reykjavík. Nhưng ông ta không phải là loại người hấp dẫn."
Elínborg mỉm cười. Cô không hiểu ý bà ta là gì.
Bára thấy điều đó.
"Một kẻ m ơ m ộng. Chẳng mấy khi thực tế, chỉ biết nghĩ ra những điều to lớn về việc buôn bán lẻ, và những điều này thì đã trôi vào dĩ vãng quá lâu rồi. Ông ta cũng chẳng sống được để mà hưởng những thứ đó. Ông ta lại còn đối tốt với bọn dân thường nữa chứ. Người h ầu k ẻ hạ trong nhà cũng chẳng phải gọi ông ta là ‘ngài’. Bây giờ thì người ta không gọi thế nữa rồi. Chẳng còn chút lịch sự nào cả. Vàcũng chẳng còn người hầu nào nữa."
Bára lau những h ạt bụi vô hình trên chiếc bàn uống n ước.
Elínborg thấy có một số bức tranh lớn ở cuối gian phòng cùng những bức chân dung riêng của Bára và chồng. Ông ta trông có vẻ cau có và m ệt mỏi, suy nghĩ tận đâu đâu. Gương mặt nghiêm kh ắc của Bára dường như ngầm cười toe toét khiến Elínborg không thể không nghĩ rằng trong cuộc hôn nhân này bà ta là người thắng cuộc. Cô thấy thương hại cho người đàn ông trong ảnh.
"Nhưng nếu các người nghĩ là ông ta giết chị tôi thì lầm to rồi," Bára nói. "Những mẩu xương mà các người tìm thấy gần ngôi nhà g ỗ không phải là của chị ấy."
“Tại sao bà biết?"
"Tôi biết thế. Vì Benjamín thậm chí còn không bao giờ động đến cả một con ruồi. Thật là một kẻ yếu đuối dễ sợ. Một kẻ viển vông, như tôi đã nói rồi đấy. Chuyện đó càng rõ ràng hơn khi chị tôi biến mất. Ông ta sụp đổ hoàn toàn, không còn quan tâm gì đến việc kinh doanh nữa, cũng chẳng thèm giao du với ai và từ bỏ mọi thứ. Benjamín không bao giờ vượt qua nổi cú sốc đó. Mẹ tôi gửi trả lại cho ông ta những bức thư tình mà ông ta gửi cho chị gái tôi. Bà đã đọc mấy bức và nói rằng chúng thật tha thiết. "
"Bà và chị gái có thân thiết với nhau không?"
"Không, tôi không cho là thế. Tôi ít tuổi hơn chị ấy quá nhiều. Từ khi tôi còn bé tí, chị ấy đã trưởng thành rồi. Mẹ tôi luôn nói rằng chị rất giống bố tôi: giàu trí tưởng tượng và hay buồn phiền nữa. Ông ấy cũng làm như thế."
Điệu bộ của Bára khiến người ta có cảm giác rằng bà ta đã sơ suất khi nói ra câu cuối.
"Cũng làm như thếư?"
"Phải," Bára cáu kỉnh nói. "Cũng tự tử như vậy." Bà ta nói đầy thơơ. "Nhưng ông ấy không mất tích như chị tôi. Không. Ông ấy treo cổ ở phòng ăn, trên cái móc đèn chùm ấy. T ất cả mọi người đều trông thấy rất rõ. Ông ấy quan tâm đến gia đình thế đấy."
"Chuyện đó chắc khiến gia đình bà khổ tâm lắm," Elínborg nói lấy lệ. Bára nhìn chòng chọc vào Elínborg với vẻ cáo buộc khi bà ta ngồi xuống đối diện với cô, như thể chính cô đã khơi mào ra khiến bà ta phải nhắc lại chuyện đó vậy.
"Chuyện đó đối với chị tôi là khó khăn nhất. Họ rất thân nhau. Chuyện đó để lại nỗi đau trong lòng mọi người. Người phụ nữ tội nghiệp."
Trong một thoáng giọng bà ta có pha chút cảm thông.
"Đó có phải…"
"Chuyện này xảy ra trước khi chị tôi mất tích vài năm," Bára nói. Elínborg nhận thấy bà ta đang cố gắng che giấu điều gì đó. Như thể câu chuyện của bà ta đã được chuẩn bị từ trước vậy, nó đã được lọc hết mọi cảm xúc trong đó. Nhưng có lẽ bà ta chỉ đơn giản là con người như vậy. Hống hách, nhẫn tâm và ngu độn.
"Về phần mình, Benjamín đối xử với chị ấy rất tốt," Bára nói tiếp. "Ông ta viết thư tình cho chị ấy, đại loại là vậy. Ngày đó, người Reykjavík có thể đi dạo cùng nhau khá lâu khi họ đã đính hôn. Đó là sự tìm hiểu lẫn nhau rất bình thường. Họ gặp nhau ở khách sạn Borg, nơi hẹn hò chủ yếu của trai gái thời đó. Họ rủ nhau đi d ạo, đi du lịch, và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn như bao đôi lứa khác. Ông ta cầu hôn chị tôi, và rồi trước đám cưới chỉ khoảng hai tuần thì chị tôi mất tích, tôi đoán thế."
"Tôi nghe người ta đồn rằng bà ấy đã tự gieo mình xuống biển," Elínborg nói.
"Phải, họđã tốn khá nhiều công để thêu dệt nên câu chuyện đó. Người ta bủa đi tìm chị ấy khắp Reykjavík. Hàng tá người tham gia vào cuộc tìm kiếm nhưng họ không tìm thấy dù chỉ là một sợi tóc của chị ấy. Mẹ tôi báo tin cho tôi biết rằng sáng hôm đó chị ấy đã ra đi. Chị ấy đi mua sắm và đến một số nơi khác nữa, hồi đó không có nhiều cửa hàng lắm, nhưng chị ấy không mua thứ gì. Chị tôi gặp Benjamín ở của hàng của ông ta, sau đó chia tay, rồi từ đó không còn ai trông thấy chị ấy đâu nữa. Ông ta nói với cảnh sát và chúng tôi rằng họ đã cãi nhau. Đó là lý do tại sao ông ấy đổ lỗi cho mình về việc đã xảy ra và rất đau khổ về chuyện đó."
“Tại sao người ta lại nói đến biển?"
"Một số người cho là họ đã trông thấy một người phụ nữ đi ra phía biển - điểm tận cùng của Tryggvagata ngày nay. Cô ấy mặc áo khoác giống như chị tôi, cũng cao như thế. Tất cả chỉ có thế."
“Thế họ cãi nhau vì chuyện gì?"
"Mấy chuyện linh tinh thôi, liên quan đến việc chuẩn bị cho đám cưới. Hoặc chí ít thì Benjamín nói như vậy."
"Bà không cho rằng có chuyện gì khác sao?"
"Tôi không biết. "
"Vậy bà không nghĩ rằng có khả năng bộ xương chúng tôi tìm thấy trên đồi là của chị mình?"
"Phải, không thể có khả năng đó. Tôi không có cơ sở gì, tất nhiên rồi, tôi cũng chẳng chứng minh được gì, nhưn g tôi thấy chuyện đó thật khó tin. Đơn giản là tôi không thể tin nổi điều đó."
"Bà có biết gì về những người từng thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín ở Grafarholt không? Có thể là những người ở đó trong chiến tranh chẳng hạn? Có khả năng đó là một gia đình có năm người, hai vợ chồng với ba đứa con. Chuyện đó có gợi cho bà nhớ đến điều gì không?"
"Không. Nhưng tôi biết người ta đến ở ngôi nhà của ông ấy trong suốt thời kỳ chiến tranh, vì hồi đó nhà cửa đang lên cơn sốt mà. "
"Bà có kỷ vật nào của chị mình không? Một mớ tóc chẳng hạn? Để trong một cái hộp nhỏ ấy?"
"Không, nhưng Benjam ín có một lọn tóc của chị ấy đấy. Tôi thấy chị ấy cắt nó cho ông ta. Benjamín hỏi xin chị ấy một vật lưu niệm vào một mùa hè chị tôi đi xuống miền Nam đến Fljót để thăm họ hàng trong hai tuần."
Khi Elínborg đã vào trong xe, cô gọi điện cho Sigurdur Óli. Anh ta đang ra khỏi tầng hầm của Benjamín sau một ngày làm việc dài đằng đẵng và chán ngắt. Cô bảo Sigu rdu r Óli để ý tìm một lọn tóc của vợ chưa cưới của Benjamín. Có thể nó nằm trong một cái hộp xinh xắn, cô nói. Elínborg nghe thấy tiếng Sigurdur Óli rên rỉ. "Nào," Elínborg nói, "nếu tìm được lọn tóc đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ chuyện người đó có phải là bà ta hay không. Chỉ đơn giản có thế thôi," rồi cúp máy. Đúng lúc Elínborg đang chuẩn bị lái xe đi thì trong đầu cô chợt nảy ra một suy nghĩ. Sau một hồi cân nhắc và bồn chồn cắn môi, cô quyết định hành động.
Khi Bára ra mở cửa, bà ta rất ngạc nhiên khi lại gặp Elínborg.
"Cô quên gì à?" bà ta hỏi.
"Không, tôi chỉ muốn hỏi một câu này nữa thôi," Elínborg ng ượng nghịu nói. "Rồi tôi sẽ đi ngay."
"Được rồi, cô muốn hỏi gì?" Bára sốt ru ột nói.
"Bà nói rằng chị gái mình có mặc một chiếc áo khoác vào cái hôm bà ấy mất tích phải không?"
"Vậy thì sao?"
"Đó là loại áo khoác gì?"
"Loại nào ư? Chỉ là một cái áo khoác bình thường mà mẹ tôi đã tặng chị ấy thôi."
"Ý tôi là màu gì ấy. Bà có biết không?"
"Sao cô lại hỏi thế?"
"Tôi tò mò thôi." Elínborg nói, không muốn giải thích thêm.
"Tôi không nhớ."
"Vâng, tất nhiên rồi," Elínborg nói. "Tôi hiểu. Cảm ơn bà và xin lỗi vì đã làm phiền." "Nhưng mẹ tôi nói là nó màu xanh lục".
Tómas đã thôi không còn tè dầm ra giường và làm cho bố nó nổi điên lên nữa. Símon thì không hiểu tại sao Grímur lại bắt đầu chú ý đến em nó. Nó cho rằng bố nó đã thay đổi kể từ lúc quân lính đến. Hoặc cólẽ Tó m as đang thay đổi cũng nên.
Mẹ của Símon chưa bao giờ nói đến nhà máy sản xu ất khí đốt, còn Grímur thì rất lấy làm thích thú khi nh ạo báng cô về chuyện đó, nhưng nói mãi cuối cùng hắn cũng phải chán. Hắn gọi cô là "đồ con hoang" hay "đồ đầu g a", nói không ng ớt về cái bình ga lớn và cái đêm truy hoan trác táng trước ngày tận thế của Trái đất. Mặc dù chẳng hiểu gì về những điều bố đang nói, Símon vẫn thấy điều đó làm mẹ nó buồn lắm. Símon biết rằng mỗi lời hắn nói ra đều khiến mẹ nó đau y như bị dần một trận đòn nhừ tử.
Có một lần Símon đi cùng bố ra thành phố, trên đường đi qua nhà máy sản xu ất khí đốt, Grímur cười phá lên và chỉ vào cái thùng lớn, nói rằng đó là nơi mẹ chúng nó sinh ra. Sau đó hắn cười to hơn. Nhà máy sản xuất khí đốt là một trong những tòa nhà lớn nhất ở Reykjavík và Símon thấy nó thật phiền ph ức. Th ằn g bé quyết tâm hỏi mẹ về tòa nhà và cái bình ga lớn gây tò mò đó.
"Đừng nghe ông ta nói v ớ vẩn," bà nói. "Đến bây giờ con phải biết cách mắng chửi của ông ta rồi chứ. Con không nên tin bất cứđiều gì ông ta nói. Bất cứđiều gì."
"Vậy chuyện gì đã xảy ra ở nhà máy đó hả mẹ?"
"Theo như mẹ biết thì chẳng có gì cả. Tự ông ta dựng ra mọi chuyện đấy. Mẹ không biết ông ta ngh e được câu chuyện đó từ đâu."
"Nhưng ông bà ngoại đâu hả mẹ?"
Cô yên lặng nhìn con trai. Cô đã trăn trở với câu hỏi đó suốt cả cuộc đời và lúc này đây con trai cô lại vô tình hỏi cô câu đó. Cô không biết phải trả lời nó thế nào. Cô chưa bao giờ biết mặt bố mẹ mình. Khi còn nhỏ, cô đã hỏi người ta về họ nhưng chẳng bao giờ nhận được câu trả lời.
Những ký ức đầu tiên của cô là ở trong một ngôi nhà có rất nhiều trẻ em ở Reykjavík. Khi lớn lên, cô được kể lại rằng mình chẳng có bố mẹ hay người thân nào hết, may nh ờ hội từ thiện giú p đỡ cô mới được ở đây. Côcứ ngẫm nghĩ về những lời nói đó và cho đến mãi sau này mới hiểu ra. Một ngày cô được đưa ra khỏi ngôi nhà đó và về làm người ở ột đôi vợ chồng già. Đến khi trưởng thành, cô đến làm việc cho người lái buôn. Đó là toàn bộ cuộc đời cô trước khi gặp Grímur. Cô không có bố mẹ hay một n ơi nào đó để gọi là nhà, không có một gia đình với h ọ hàng, cô dì chú bác, ông bà, anh em. Trong giai đo ạn từ thiếu nữ trở thành phụ nữ, cô không ng ừng băn khoắn về việc mình và bố mẹ mình là ai. Cô không biết phải tìm câu trả lời ở đâu nữa.
Cô hình dung ra rằng họ chết trong một vụ tai nạn. Đây là điều cô tự đặt ra để mà an ủi chính mình, vì cô không thể chịu đựng được khi nghĩ rằng họđã bỏ rơi cô - đứa con bé bỏng của họ. Cô tưởng tượng ra rằng họđã cứu mình và chết, thậm chí là đã hy sinh cuộc đời mình cho con. Cô luôn luôn nhìn họ bằng thứ ánh sáng ấy - giống như những vị anh hùn g đã chiến đấu để bảo vệ cho cuộc sống của mình và con gái. Cô không thể hình dung ra được là bố mẹ mình còn sống. Đối với cô, điều đó thật không thể tưởng tượng nổi.
Khi cô gặp một than h niên ngư dân - bố Mik kelína, cô đã nhờ người đó tìm câu trả lời giúp mình, và họ đến một loạt các văn phòng nhưng vẫn không biết một chút thôn g tin gì về cô cả, ngo ại trừ rằng cô là một đứa trẻ m ồ côi. Người ta ghi cô là "trẻ m ồ côi". Giấy khai sinh của cô cũng không có thông tin gì về bố mẹ. Cô và người đàn ông đó đã đến gia đình mà cô từng ở với những đứa trẻ khác, họ nói chuyện với người phụ nữ trước đây là mẹ n uôi của cô nhưng bà ta cũng chẳng nhớ được gì.
"Họ trả tiền cho cô," bà ta nói. "Còn chúng tôi thì cần tiền."
Bà ta chưa bao giờ th ắc mắc về quá khứ của cô.
Trước khi Grímur về nhà và nói rằng mình đã biết bố mẹ cô là ai và làm thế nào mà cô có mặt trên thế giới n ày, cô đã thôi không còn băn khoắn xem họ là ai từ lâu lắm rồi. Nhìn Grímur nói về cái đêm thác lo ạn ở nhà máy sản xuất khí đốt, cô có thể thấy sự th ỏa mãn bệnh ho ạn của hắn.
Tất cả những suy nghĩ này lướt qua đầu óc của cô khi cô nhìn Símon, và trong một thoáng cô như chực nói ra một điều quan trọng với thằng bé trước khi kịp đột ngột bảo nó không được đặt những câu hỏi liên miên như thế nữa.
Gần như cả thế giới đang sôi lên trong chiến tranh. Nó đã lan đến tất cả các con đường d ẫn đến phía bên kia ngọn đồi - nơi các đơn vị chiếm cứ của Anh bắt đầu cho xây các công trình trông giống nhưổ bánh mỳ mà họ gọi là doanh trại. Símon không hiểu từđó là gì. Bên trong các doanh trại được cho là chứa một thứ gì đó có tên khó hiểu không kém. Một cái kho quân sự.
Đôi khi nó cùng Tómas chạy lên đồi để xem binh lính. Họđã vận chuyển gỗ, xà nhà, tôn sóng, hàng rào, dây thép gai, xi m ăng, máy trộn xi m ăng và một xe ủi đất để dọn chỗ cho các doanh trại lên đồi. Họ cũng xây một cái boong- ke bao quát toàn bộ Grafarvogur, và một ngày, hai anh em trông thấy người Anh đưa một khẩu đại bác lên đồi. Khẩu súng được lắp vào boong- ke, cái nòng kh ổng lồ của nó chĩa thẳng lên trên phải đến vài m ét qua một khe h ở. Nhìn nó người ta có cảm tưởng kh ẩu sún g đã sẵn sàng bắn kẻ thù tan xác thành trăm mảnh. Họ đến để giúp Iceland chiến đấu ch ống lại qu ân Đức - những kẻ tuyên chiến và giết tất cả những người chúng bắt được, thậm chí là cả những đứa bé như Símon hay Tómas.
Những người lính dựng một hàng rào bao quanh tám doanh trại và xây một cái cổng có đề dòng ch ữ bằng tiếng Iceland "KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO". Một lính canh luôn b ồn g súng đứng ở một chòi gác ngay tại cổng. Họ không quan tâm đến hai đứa bé, còn hai đứa nó thì luôn chú ý giữ một khoảng cách an toàn. Khi đẹp trời, Símon và Tómas lại đưa chị chúng lên đồi, đặt chị xuống đám rêu để xem những người lính đang xây gì, chúng còn chỉ cho Mikkelína thấy cái nòng súng chĩa lên từ boong- ke. Mikkelína nằm xuống và nhìn mọi thứ xung quanh mình, nhưng con bé yên lặng và trầm mặc khiến Símon có cảm giác như chị nó sợ trước những gì mình trông thấy: bin h lính và kh ẩu đại bác kh ổng lồ.
Tất cả qu ân lính đều mặc quần áo kaki có thắt lưn g, ch ân đi những đôi ủng đen chuyên dụng cao đến mắt cá, một số còn đội m ũ bảo hiểm và đeo súng trường hoặc súng ng ắn trong bao. Khi trời ấm áp, họ cởi áo khoác và áo phông ra, cởi trần nằm phơi nắng. Các thao tác tập luyện quân sự diễn ra rất thường xuy ên trên đồi, khi đó các binh lính nằm giấu mình, ch ạy lên từ vị trí nấp, lao mình lên mặt đất và b ắn. Tiếng ồn ào và nh ạc nổi lên ở do anh trại vềđêm. Đôi khi họ bật một cái máy phát nh ạc lạo xạo còn tiếng hát thì loảng xo ảng. Có những lúc quân lính hát đến khu ya những bài hát của đất nước họ mà Símon biết là nước Anh, còn Grímur nói rằng đó là một đế chế.
Chúng kể ẹ nghe tất cả những gì đang diễn ra ở phía bên kia ngọn đồi, nhưng cô không chú tâm lắm. Tuy nhiên, có một lần, chúng đưa mẹ lên đỉnh đồi và cô quan sát doanh trại của quân Anh khá lâu, sau đó khi về nhà, cô nói về tất cả những sự nguy hiểm ở đó và cấm ba đứa không được lảng vảng quanh khu vực đó nữa, bởi vì chúng không bao giờ có thể biết được chuyện gì sẽ x ảy ra khi người ta có súng trong tay và cô thì không muốn chúng gặp bất kỳ một m ối ng uy hiểm nào.
Thời gian cứ thế trôi đi, bỗng dưng một hôm doanh trại của quân Anh tràn ng ập binh lính Mỹ, gần như tất cả quân Anh đã rời đi. Grímur nói rằng họ bị đưa đi giết còn người Mỹ sẽ rất thảnh thơi ở Icelan d, chẳng cần phải lo gì hết.
Grímur nghỉ làm than, bây giờ hắn chuyển sang làm việc cho lính Mỹ trên đồi vì ở doanh trại đó có rất nhiều tiền, công việc phải làm ở đó cũng nhiều không kém. Một ngày, hắn đi bộ lên đồi và xin làm việc ở kho quân nhu, và không phải mất nhiều công sức, hắn được nhận vào làm ở đó và nhà ăn tập thể. Kể từ đó trởđi, b ữa ăn trong gia đình đã được cải thiện hơn một chút. Grímur mang về một cái hộp màu đỏ có chìa khóa bên cạnh. Hắn lấy chìa khóa m ở cái nắp hộp ra và dốc ng ược nó xuống, ngay lập tức một tảng thịt màu hồng có ph ủ nước thịt đông trong suốt rơi xuống cái đĩa. T ảng thịt rung rinh và có vị m ặn rất n gon.
“Thịt giăm- bông," Grímur nói. "Chính hiệu Hoa Kỳ đấy."
Símon chưa bao giờ được ăn thứ gì ngon như thế trong đời. Lúc đầu nó chẳng b ăn khoắn lắm về chuyện tại sao món ăn đó lại xu ất hiện ở nhà mình, nhưng nó thấy vẻ mặt lo lắng của mẹ khi Grímur mang về nhà một thùng chứa đầy hộp thịt và giấu chúng trong nhà. Đôi khi Grímur đi Reykjavík, mang theo h ẳn một bao tải chứa đầy những chiếc hộp như thế và nhiều lo ại hàng hóa khác nữa mà Símon không biết là gì. Khi trở về, hắn đổ tiền ra mặt bàn rồi đếm, những lúc như thế Símon thấy hắn rất hạnh phúc - điều màtừ trước tới nay Símon chưa từng chứng kiến. Grímur không còn quá h ằn học với mẹ chúng nữa, không nói về nhà máy sản xu ất khí đốt, và hắn còn xoa đầu Tómas nữa.
Thời gian cứ thế trôi đi, lúc này trong ngôi nhà của h ọđã ng ập đầy các món hàng hóa của M ỹ: thuốc lá, thực ph ẩm đóng hộp, hoa quả, và thậm chí là cả bít tất ni- lông mà theo như mẹ chúng nói, đó là niềm m ơ ước của tất cả phụ nữở Reykjavík.
Chẳng có món đồ nào ở nhà họ được lâu. Có một lần Grímur mang về nhà một cái gói nhỏ với mùi thơm điếc mũi nhất mà Símon từng được ngửi. Grímur mở nó ra cho cả nhà cùng thử và nói rằng đó là thứ mà người Mỹ nhai suốt, như là bò nhai cỏ vậy. "Chúng mày không được nuốt, sau một lúc phải nhổ nó ra rồi lấy một miếng mới." Símon, Tómas, và thậm chí cả Mikkelína cũng được hắn đưa một miếng nhỏ màu hồng thơm phức. Chúng nhai lấy nhai để, sau đó nhổ bã ra và lại được lấy thêm miếng nữa.
"Cái này có tên là kẹo cao su," Grímur nói.
Grímur nhanh chóng học được cách nói chuyện bằng tiếng Anh và kết bạn với lính. Thỉnh thoảng khi họ được nghỉ, Grímur lại mời họ về nhà chơi, và mỗi lần như thế, Mikkelína lại phải giam mình trong nhà kho ch ật chội, hai thằng con trai phải chải tóc đàng hoàng, còn mẹ chúng phải mặc váy tử tế và ra trình diện. Những người lính đến chơi cư x ử rất lịch thiệp, họ chào cả nhà bằng những cái bắt tay siết chặt, tự giới thiệu về mình và cho kẹo mấy đứa nhỏ. Sau đó họ ngồi chè chén với nhau. Tàn cuộc, họ lên xe Jeep về Reykjavík và sau đó mọi thứ trong ngôi nhà lại chìm vào yênắng, bởi vì ngoài họ ra chẳng còn ai đến đây chơi nữa.
Tuy nhiên, thông thường, những người lính đi thẳng đến Reykjavík rồi đến đêm lại quay về và ca hát. Tiếng họ la hét và gọi nhau í ới làm náo động cả ng ọn đồi, và có một hai lần tiếng súng vang lên nhưng không phải là tiếng đại bác vì, theo như Grímur nói, điều đó có nghĩa là: "Bọn Đức quốc xã khốn kiếp đang ở Reykjavík và chúng sẽ giết tất cả chúng ta trong nháy mắt." Hắn thường đến thành phố với bọn lính cảđêm và khi trở về, hắn hát những bài hát Mỹ. Símon chưa bao giờ nghe Grímur hát trước mùa hè năm đó.
Có một lần, Símon chứng kiến một sự lạ.
Hôm đó, có một người lính Mỹđi lên đồi, tay cầm một cần câu, dừng lại ở bờ hồ Reynisvatn và quăng dây câu cá hồi. Sau đó anh ta xuống đồi, cầm theo cần câu và huýt sáo suốt dọc đường đến hồ Hafravatn, rồi anh ta quanh quẩn ở đó cả ngày. Hô m đó là một ngày mùa hè đẹp trời, anh ta đi quanh hồ và thả câu bất cứ khi nào thấy thích. Thay vì câu được nhiều cá, anh ta lại có vẻ thích được ở bên hồ trong tiết trời đẹp như thế hơn. Anh ta ngồi xuống, hút thuốc và tắm nắng.
Đến khoảng ba giờ, dường nhưđã nghỉ ngơi đủ, anh ta thu dọn cần câu v à cái túi đựng ba con cá hồi rồi đi bộ lên đồi. Nhưng thay vì đi qua ngôi nhà, anh ta dừng lại và nói điều gì đó mà Símon không hiểu. T ừ đầu đến giờ thằng bé đã theo dõi sát sao mọi cử động của anh ta và lúc này nó đan g đứng ở cửa chính.
"Bố mẹ cháu có ở nhà không?" người lính mỉm cười hỏi Símon bằng tiếng Anh và ngó vào bên trong. Cứ mỗi khi đẹp trời là cửa nhà lại m ở. Tómas đã đưa Mikkelína ra khoảng đất nắng sau nhà và đang nằm ở đó cùng chị. Người mẹđang dọn dẹp ở trong nhà.
Símon không hiểu người lính nói gì.
"Cháu không hiểu à?" Người lính nói. "Tên chú là Dave. Chú là người Mỹ."
Hiểu rằng tên anh ta là Dave, Símon g ật đầu.
Dave giơ cái túi ra trước mặt thằng bé, để xuống đất, m ở nó ra và lấy ra ba con cá hồi.
"Chú cho cháu cái này. Cháu có hiểu không? Cho nhà cháu đấy. Chúng rất ng on đấy!"
Símon nhìn Dave chằm chằm không hiểu gì. Dave mỉm cười, phô ra hàm răng trắn g bóng. Anh ta thấp và gầy, khuôn mặt xương, mái tóc dày màu đen chải gọn gàng sang một b ên.
"Mẹ cháu có nhà không?" anh ta hỏi. "Hay bố cháu cũng được?"
Símon ng ơ ngác. Dave cởi cúc túi áo, lấy ra một quy ển sổ màu đen và lật nhanh đến trang cần tìm. Anh ta b ước lại chỗ Símon và chỉ vào một câu trong đó.
"Cháu có biết đọc không?"
Sím o n đọc cái câu mà Dave ch ỉ tay vào. Nó hiểu được vì câu này viết bằng tiếng Iceland, nhưng bên dưới là một cái gì đó của nước ngoài mà nó không hiểu được. Dave đọc to câu viết bằng tiếng Iceland, cẩn thận hết sức có thể.
"My name is Símon," nó mỉm cười và nói. Dave còn cười to hơn. Anh ta tìm một câu khác và chỉ cho Thằng bé xem.
"Quý cô có khỏe không?" Símon đọc.
"Phải, nhưng không phải là quý cô, hỏi cháu cơ mà," Dave cười to, nhưng Símon không hiểu. Dave tìm một từ khác và đưa cho Símon xem. "Mẹ," Símon đọc to, và Dave chỉ vào nó kèm theo một cái g ật đầu.
"Ở đâu?" Dave hỏi bằng tiếng Iceland, và Símon hiểu là anh ta đang hỏi về mẹ mình. Símon ra hiệu cho Dave đi theo mình và dẫn anh ta vào bếp, nơi mẹ nó đang ngồi vá tất ở bàn. Cô mỉm cười khi thấy Símon bước vào, nhưn g khi thấy người đàn ông lạ đi sau thằng bé, nụ cười của cô kh ựng lại, cô làm rơi cái tất và nhảy lên ghế. Dave, lúc này cũng lùi lại, b ước về phía trước và xua tay rối rít.
"Xin lỗi," anh ta nói. "Tôi rất xin lỗi. Tôi không muốn làm kinh động đến cô."
Mẹ Símon lao đến chỗ bồn rửa bát và nhìn chằm chằm xuống dưới như thể không dám nhìn lên.
"Símon, con hãy đưa anh ta ra ngoài đi, Símon," cô nói.
"Vâng, tôi sẽ đi," Dave nói. "Không có gì đâu. Tôi xin lỗi.
Tôi đi đây. Xin cô, tôi…"
"Sím on, đưa anh ta đi," người mẹnh ắc lại.
Lún g túng trước phản ứng của mẹ, Símon hết nhìn người này
lại nhìn người kia, sau đó nó thấy Dave đi khỏi b ếp ra ngoài sân.
“Tại sao con lại làm thế với mẹ?" cô nói và quay sang Símon. "Con dám đưa một người đàn ông vào đây. Tại sao con lại làm thế?"
"Con xin lỗi," Símon nói. "Con tưởng là chuyện đó cũng bình
thường. Tên chú ấy là Dave."
"Anh ta muốn gì?"
"Chú ấy muốn cho chúng ta cá," Símon nói. "Những con cá chú ấy câu được ở h ồ. Con nghĩ chuyện đó cũng bình thường thôi. Chú ấy chỉ muốn cho chúng ta cá thôi mà."
"L ạy Chúa, chết mất thôi! Ôi Chúa ơi, chết mất thôi! Con không bao giờ được làm như thế nữa. Không bao giờ! Mik kelína và Tómas đâu?"
"Ở sau nhà ạ."
"Chúng không sao chứ?"
“Tất nhiên rồi mẹ. Mikkelína muốn sưởi nắng."
"Con không bao giờ được làm như thế nữa," cô nhắc lại trong
lúc đi ra chỗ Mikkelína. "Con nghe rõ chưa? Không bao giờ."
Cô đi ra chỗ góc nhà và thấy người lính đang đứng chỗ Tó mas và Mikkelína, anh ta nhìn chằm chằm vào cô bé đầy bối rối. Mik kelína ngh ển cổ lên xem ai đang đứng trước mặt mình. Con bé không thể nhìn thấy khuôn mặt của người lính vì anh ta đứng quay lưng về phía mặt trời. Người lính nhìn mẹ cô bé, rồi lại nhìn Mik kelína đang qu ằn quại trên mặt đất.
"Tôi …" Dave ấp úng. "Tôi không biết chuyện này," anh ta nói. "Tôi xin lỗi. Thực sự xin lỗi. Đây không phải là việc của tôi. Tôi xin lỗi. "
Sau đó anh ta quay người và bước đi thật nhanh, họ nhìn theo bóng anh ta cho đến khi nó dần biến mất trên đồi.
"Các con không sao chứ?" người mẹ hỏi trong lúc quỳ xuống bên Mikkelína và Tómas. Lúc này cô đã bình tĩnh hơn khi thấy rõ ràng là người lính không làm gì h ại bọn trẻ cả. Cô b ế Mik kelína lên, đưa nó vào nhà và đặt nó trên chiếc đi- văng trong bếp. Símon và Tómas đi theo mẹ.
"Dave không phải là người xấu," Símon nói. "Chú ấy khác."
"Tên anh ta là Dave à?" người mẹ hỏi trống rỗng.
"Dave," cô nh ắc lại. "Cái tên đó cũng gần như Davíd trong tiếng Iceland phải không?" cô hỏi, gần như là hỏi chính mình chứ không phải ai khác. Và lúc ấy chuyện đó xảy ra, một chuyện hết sức kỳ lạ đối với Símo n.
Mẹ nó mỉm cười.
Tómas lúc nào cũng bí hiểm, lặng lẽ như một kẻ cô độc vậy, nó có v ẻ nhút nhát và hay xấu hổ, thuộc típ người trầm. Mùa đông năm trước, dường như Grímur đã thấy điều gì đó ở thằng bé khiến hắn ta quan tâm đến nó hơn là Símon. Hắn chú ý đến thằng bé và đưa nó vào một phòng khác. Khi Símon hỏi em xem bố vừa nói với nó chuyện gì, Tómas chẳng nói nửa lời, nhưng Símon cứ khăng kh ăng hỏi, nên sau một hồi nịnh nọt em, nó biết rằng h ọđã nói chuyện về Mikkelína.
"Ông ta nói gì với em về chị Mikkelína?" Símon hỏi.
"Không có gì đâu," Tómas đáp.
"Có, ông ấy có nói. Nói gì nào?" Símon hỏi.
"Không mà," Tómas nói, khuôn mặt nó thoáng vẻ bối rối như thểđang cố gắng giấu anh điều gì đó.
"Nói cho anh biết đi. "
"Em không muốn. Em không muốn ông ta nói chuyện với em. Em không muốn ông ta làm thế."
"Em không muốn ông ta nói chuyện với emà? Vậy ý em là em không muốn ông ta nói ra những điều đó phải không? Ý em là thế phải không?"
"Em chẳng muốn gì cả, thế thôi," Tómas đáp. "Và anh cũng đừng có nói chuyện với em nữa. "
Nhiều tu ần và tháng trôi qua, Grímur thể hiện sự quan tâm của mình đối với thằng con út bằn g nhiều cách khác nhau. Mặc dù Símon không bao giờ góp mặt vào cuộc trò chuyện của họ, vào một buổi tối cuối hè nó đã phát hiện ra điều mà họđang làm. Grímur đang chờ để lấy hàng từ một người lính có tên là Mike. Mike có một chiếc xe jeep riêng và họ d ự định sẽ chất hàng lên đó để đem lên thành phố bán. Người mẹđang nấu những đồ ăn lấy từ doanh trại. Mikkelína đang nằm trên giường.
Símon để ý thấy Grímur đẩy Tómas đến chỗ Mikkelína, hắn thì thào vào tai nó và mỉm cười giống như khi nhận xét đầy ác ý về hai thằng bé. Mẹ chún g thì không để ý còn Símon thì không thực sự hiểu chuyện gì đang x ảy ra cho đến khi Tómas đến chỗ Mikkelína (Grímur thì không ngừng giục giã nó) và nói:
"Đồ chó cái."
Sau đó nó chạy lại chỗ Grímur khiến hắn cười hả hê và vỗ nhẹ vào đầu Thằng bé.
Símon nhìn ra bồn rửa bát chỗ mẹ nó đang đứng. Dù chắc chắn đã nghe thấy nhưng lúc đầu cô vẫn không cử động và không có phản ứng gì, như thể đang cố lờđi chuyện đó. Ngo ại trừ việc thằng bé để ý thấy một tay mẹ nó vẫn đang cầm dao gọt vỏ khoai tây, những khớp ngón tay của cô hằn lên trắng bệch khi cô xiết chặt cán dao. Sau đó cô từ từ quay lại, tay vẫn cầm dao và nhìn Grímur chằm chằm.
"Đó là điều mà anh không bao giờ được làm," cô nói, giọng run run.
Grímur nhìn cô, điệu cười toe toét khựng lại trên mặt.
"Tao á?" Grímur nói. "Ý mày là sao, không bao giờ được làm ư? Tao chẳng làm gì cả. Thằng bé làm đấy chứ! Tómas con trai tao làm đấy chứ!"
Người mẹ bước một bước đến gần chỗ Grímur, tay vẫn nắm chặt cán dao.
"Để Tómas được yên."
Grím đứng lên.
"Mày định làm gì với con dao đó?"
"Đừng có làm thế với thằng bé," cô nói, và Símon cảm thấy mẹ nó đang chùn lại. Nó nghe tiếng xe jeep bên ngoài.
"Ông ta đến rồi," Símon hét lên. "Mike đến rồi."
Grímur nhìn qua cửa sổ rồi lại nhìn người vợ, trong một thoáng không khí căng thẳng chùng xuống. Cô đặt dao xuống. Mike xuất hiện ở bậc cửa. Grímur mỉm cười.
Đêm hôm đó khi quay về hắn đánh vợ bất tỉnh. Buổi sáng hôm sau, mắt cô tím bầm, còn chân thì đi cà nhắc. Mấy đứa trẻ nghe tiếng bố chửi bới khi đấm mẹ thùm thụp. Tómas bò đến giường Símon và nhìn anh qua màu đen kịt của bóng tối, nó choáng váng, miệng lẩm bẩm liên hồi như thể làm như thế sẽ xóa bỏ được những chuyện đã diễn ra.
" …xin lỗi, em không cố ý, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…"