Ông bắt đầu nói chuyện về thời tiết, nhưng rồi nhanh chóng từ bỏ. Sau đó ông kể về Sigurdur Óli và nói về chuyện gần đây trông anh ta m ệt mỏi thế nào. Nhưng rồi cũng chẳng có gì nhiều để mà kể nữa. Ông cố gắng tìm chuyện về Elínborg để kể nhưng rồi lại thôi. Sau đó ông kể với con gái về vợ chưa cưới của Benjamín Knudsen, người bị cho là nhảy xuống biển tự tử, và về những bức thư tình mà ông tìm thấy ở tầng hầm của người thương nhân.
Ông nói với Eva Lind rằng mình đã gặp mẹ con bé ngồi bên giường bệnh của nó.
Sau đó ông yên lặng.
"Có chuyện gì giữa bố và mẹ cơ chứ?" Eva Lind có lần đã hỏi khi đến thăm ông. "Sao bố không nói gì?" Sindri Snaer đi cùng nó nhưng không ở lâu, để lại hai bố con họ với nhau khi bóng tối ập xuống. Lúc đó là tháng Mười hai, trên đài đang phát mấy bài hát Giáng sinh nên Erlendur tắt đi, nhưng Eva Lind lại bật lên và nói rằng nó muốn nghe chúng. Lúc đó con bé đang mang thai được mấy tháng rồi, thời gian ấy nó đã hoàn lương và như thường lệ, cứ mỗi lần ngồi xuống với bố, nó lại bắt đầu kể lể về gia đình mà nó không có. Sindri Snaer chưa bao giờ kể về chuyện đó, về mẹ nó, về chị nó hay về tất cả những chuyện chưa bao giờ xảy ra. Nó luôn yên lặng và lạnh nhạt khi bố nói chuyện với mình. Nó không quan tâm đến bố. Đó là sự khác nhau giữa Sindri Snaer và chị gái. Eva Lind muốn hiểu về bố rõ hơn và không ngần ngại khi quy trách nhiệm cho bố.
"Mẹ con ư?" Erlendur nói. "Chúng ta có thể tắt mấy cái bài hát Giáng sinh đó đi được không?"
Erlendur đang cố gắng đẩy lùi thời gian. Việc Eva luôn tìm kiếm sự thật trong quá khứ lúc nào cũng khiến ông rơi vào tình thế tiến tho ái lưỡn g nan. Ông không biết câu trả lời cho những câu hỏi liên quan đến cuộc hôn nhân ng ắn ngủi của họ, những đứa con của h ọ và tại sao ông lại ra đi. Ông không trả lời tất cả các câu hỏi của con bé, và đôi khi chuyện đó khiến cho nó tức giận. Cứ mỗi lần động đến chuyện gia đình là tính nó lại nóng như lửa.
"Không, con muốn ngh e nhạc Giáng sinh," Eva Lind nói, và Bing Crosby lại tiếp tục m ơ về một Giáng sinh trắng xóa. "Con chưa bao giờ nghe mẹ nói một điều gì tốt đẹp về bố, nhưng chắc hẳn là bà ấy đã nhìn thấy điều gì đ ó ở bố. Lần đầu tiên. Khi bố mẹ gặp nhau. Đó là cái gì?"
"Con đã hỏi bà ấy chưa?"
"Rồi. "
"Vậy bà ấy nói sao?"
"Chả nói gì cả. Thế có nghĩa là bà ấy sẽ phải nói điều gì đó tốt đẹp về bố và bà ấy không thể làm thế được. Không thể chịu được cái ý nghĩ là ở bố có một điều gì tốt đẹp. Đó là cái gì vậy? Tại sao hai bố mẹ lại như thế?"
"Bố không biết," Erlendur nói, và đú ng là như thế. Ông cố gắng thành thực. "Bố mẹ gặp nhau ở một vũ hội. Bố không biết.
Chuyện đó không được d ự trù từ trước. Nó cứ thế x ảy ra thôi."
"Lúc ấy trong đầu bố nghĩ gì?"
Erlendur không trả lời. Ông nghĩ về những đứa trẻ không bao giờ biết mặt cha mẹ, không b ao giờ khám phá ra mình thực sự là ai. Chúng b ước vào đời mà không hề biết một chút gì về cha mẹ chúng. Không bao giờ khám phá ra những bí mật riên g tư của họ, kết quả là bố mẹ chúng cũng là người lạ như b ao người khác chúng gặp trên đường đời. Ông băn khoắn không hiểu làm thế nào mà những người làm cha làm mẹđó có thể bỏ rơi con cái của mình như thế, để rồi tất cả những gì mà chúng học được là từ cuộc sống chứ không phải từ tình yêu thương thực sự.
"Lúc đó trong đầu bố nghĩ gì thế?" câu hỏi của Eva Lind khơi ra những nỗi đau mà nó luôn luôn chỉ trích.
"Bố không biết," Erlendur đáp và giữ khoảng cách với nó giống như mọi lần. Con bé cảm nhận được điều đó. Có thể nó làm thế để xem ông phản ứng thế nào, để chắc chắn hơn, để cảm nhận xem khoảng cách giữa bố với mình xa đến đâu và mình hiểu bố được đến đâu.
"Chắc chắn là bố cũng đã nhìn thấy điều gì đó ở mẹ."
Làm sao mà con bé hiểu được khi ngay cả bản thân ông có lúc cũng còn không hiểu?
"Bố mẹ gặp nhau ở một vũ hội," ông nhắc lại. "Bố không mong là chuyện đó có kết quả gì trong tương lai. "
"Và rồi bố bỏ đi."
"Bố không bỏđi," Erlendur nói. "Chuyện không phải như thế. Nhưng cuối cùng bố đã ra đi và mọi chuyện kết thúc. Bố mẹ không làm chuyện đó… Bố không biết. Cóthể không có cách nào đúng cả. Nếu có, bố mẹ cũng không tìm ra."
"Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc," Eva Lind nói.
"Không," Erlendur nói. Ông vẫn đang nghe Bing Crosby hát trên đài. Qua khung cửa sổ, ông lặng ngắm những bông tuyết lớn rơi xuống mặt đất. Rồi ông nhìn con gái, những quầng thâm quanh mắt nó, cái khuyên trên mũi nó, đôi giày quân đội nó gác trên bàn uống nước, những vết cáu bẩn trong móng tay nó, cái bụng kẹp lép bên dưới cái áo phông đen của nó đang bắt đầu phình ra.
"Mọi chuyện không bao giờ kết thúc cả," ông nói.
Höskuldur Thórarinsson sống ở căn hộ dưới tầng hầm trong ngôi nhà riêng trang nhã của con gái mình ở Árbaer, ông ta trông có vẻ hài lòng với số phận của mình. Đó là một người đàn ông nhỏ con, linh lợi với mái tóc bạc và chòm râu bạc quanh cái miệng nh ỏ. Ông ta mặc một chiếc áo lao động kẻ ca- rô và quần nhung màu be. Elínborg đã tìm ra ông ta. Trong sổ đăng ký quốc gia không có nhiều người có tên là Höskuldur đã qua độ tuổi về hưu. Cô gọi điện cho hầu hết những người đó, họ sống ở khắp nơi trên toàn Iceland, và người đàn ông đặc biệt có tên là Höskuldur ở Árbaer này đã nói cho cô biết, chắc chắn là ông ta đã thuê nhà Benjamín Knudsen, về người đàn ông tội nghiệp dễ mến ấy. Höskuldur vẫn còn nhớ ngôi nhà đó rất rõ mặc dù ông ta không ở đó lâu.
Erlendur và Elínborg ngồi trong phòng khách của Höskuldur, ông ta pha cà phê và mời họ. Sau đó ba người ngồi nói chuyện phiếm. Höskuldur kể rằng ông ta sinh ra và lớn lên ở Reykjavík, sau đó ông th an phiền về việc những kẻ bảo thủ khốn kiếp đã bóp ngh ẹt cuộc sống của những người được trợ cấp như thế nào, nhìn nhận họ như thể họ là một lũ vô công rồi ngh ề không thể tự nuôi sống bản thân mình vậy. Erlendur quyết định không để cho ông ta nói dông dài thêm nữa.
“Tại sao ông lại chuyển đến ngọn đồi? Ở đó không phải là khá thôn dã so với Reykjavík sao?"
"Chắc chắn là thế rồi," Höskuldur nói khi rót cà phê vào cốc. "Nhưng không còn cách nào khác cả. Ngày ấy anh không thể tìm nổi một chỗ trú thân ở bất cứđâu tại Reykjavík. Su ốt chiến tran h, người ta ở nhồi ở nhét trong những căn phòng bé tí. Đột nhiên, tất cả những người nhà quê đều có thể lên thành phố để kiếm tiền chứ không còn phải nhận những cục sữa đông và một chai rượu nữa. Họ cũng có thể ngủ trong các căn lều nếu buộc phải làm như vậy. Giá nhà cao ngút trời nên tôi phải chuyển lên đồi. Những khúc xương mà các ông tìm thấy là gì vậy?"
"Ông chuyển lên đồi khi nào?" Elínborg hỏi.
"Hồi đó là khoảng năm 194 3, tôi nghĩ vậy. Hay năm 44 gì đó. Hình như lú c ấy là mùa thu. Giữa cuộc chiến tranh."
"Ông sống ở đó bao lâu?"
"Tô i ở đó trong vòng một năm. Cho đến mù a thu năm sau."
"Ông sống một mình sao?"
"Với vợ tôi. Ellý già thân yêu. Bà ấy qua đời rồi."
"Bà ấy mất năm nào?"
"Cách đây ba năm. Các ông nghĩ là tôi chôn bà ấy trên đồi à? Tôi trông giống loại người đó lắm sao?"
"Chúng tôi không tìm được ghi chép nào về những người từng sống ở đó cả," Elínborg nói mà không trả lời câu hỏi của ông ta. "Về ông hay bất kỳ ai cũng không. Ông không đăng ký cư ngụ tại đó."
"Tôi không thể nhớ nổi chuyện đó như thế nào nữa. Chúng tôi chẳng bao giờ đăng ký cả. Chúng tôi là những k ẻ vô gia cư. Những người khác luôn luôn sẵn sàng trả giá cao h ơn chúng tôi, sau đó tôi nghe nói về ngôi nhà gỗ của Benjamín nên tôi đã nói chuyện với ông ấy. Những người thuê nhà ở đó vừa mới chuyển đi nên ông ấy làm phúc cho tôi."
"Ông có biết những người thuê nhà đó là ai không? Những người đến trước ông ấy?"
"Không, nhưng tôi nhớ rằng ngôi nhà hoàn toàn sạch sẽ khi chúng tôi đến đó." Höskuldur uống nốt cốc cà phê, lại rót đầy rồi nh ấp thêm một ngụm. "Sạch như chùi."
"Ông nói ‘sạch như chùi’ nghĩa là gì?"
"Tôi nhớ là Ellý đã đặc biệt nhận xét vềđiều đó. Bà ấy thích thế. Mọi thứ đều được lau chùi, đánh bóng và chẳng có lấy một hạt bụi. Cứ như là đến ở một khách sạn vậy. Không phải là chúng tôi thô lỗ gì đâu, xin hai vị nhớ cho. Nhưng chỗđó được lau chùi sạch sẽ lạ lùng. Chắc chắn là đã có một bà nội trợ nào đó rất giỏi làm công việc của mình, Ellý của tôi nói vậy."
"Vậy ông chưa bao giờ nhìn thấy một dấu hiệu b ạo lực hay điều gì đó tương tự à?" Erlendur hỏi, từ đầu đến giờ ông mới lên tiếng. "Ví d ụ như vết máu trên tường chẳng h ạn?"
Elínborg nhìn ông. Chẳng lẽ Erlendur đang trêu tức ông ta sao?
"Máu ư? Trên tường ư? Không, chẳng thấy vết máu nào cả."
"Vậy là mọi thứ đều ng ăn nắp?"
"Mọi thứ đều ngăn nắp. Chắc chắn là vậy."
"Hồi ông đến có bụi cây nào gần nhà không?"
"Có những bụi cây lý chua, có đấy. Tôi nhớ chúng rất rõ vì chúng trĩu quả vào mùa thu đó, chúng tôi còn lấy quả làm mứt nữa."
"Ông không trồng chúng sao? Hay là vợ ông, bà Ellý ấy?"
"Không, chúng tôi không trồng. Khi chúng tôi đến thì đã thấy chúng ở đó rồi."
"Ông có thể hình dung ra bộ xương đó là ai không?" Erlendur hỏi.
"Đó là lý do tại sao các ông đến đây à? Để xem tôi có giết ai không chứ gì?"
"Chúng tôi cho rằng bộ xương đó bị chôn ở trên đồi trong thời gian chiến tranh hoặc gần như thế. Nhưng ông không bị tình nghi giết người. Hoàn toàn không. Ông có bao giờ nói chuyện với Benjamín về những người từng thuê nhà trước ông không?"
"Tình cờ thôi," Höskuldur đáp. "Có một lần khi tôi đang trả tiền thuê nhà và khen ngợi về sự sạch sẽ tuyệt đối mà những người thuê nhà trước đó để lại. Nhưng dường như ông ấy không quan tâm cho lắm. Một người đàn ông bí ẩn. Mất vợ. Nghe nói bà ấy tự gieo mình xuống biển."
"Vợ chưa cưới thì đúng hơn. Họ chưa kết hôn. Ông có nhớ những doanh trại của quân đội Anh trên đồi không? Hoặc của Mỹ hồi cuối chiến tranh ấy?"
"Quân đội Anh đã rút đi sau vụ chiếm đóng năm 1940. Họ cho dựng doanh trại ở phía bên kia quả đồi và có một khẩu đại bác để chống lại quân Reykjavík. Tôi luôn luôn nghĩđó chỉ là một trò đùa, nhưng Ellý bảo tôi rằng đừng có lấy đó làm trò cười. Sau đó quân Anh đi và quân Mỹ đến tiếp quản. Hồi tôi đến đó, họ cũng dựng lều trại trên đồi. Quân Anh đã bỏđi nhiều năm trước đó rồi."
"Ông có biết họ không?"
"Không biết một chút nào. Họ chỉ biết họ với nhau thôi. Họ không bốc mùi như quân Anh, Ellý của tôi nói thế. Họ sạch sẽ và tử tế hơn nhiều. Lịch sự nữa. Lịch sự hơn người Anh nhiều lắm. Y như trong phim ấy. Kiểu như Clark Gable hay Cary Grant vậy."
Cary Grant là người Anh, Erlendur nghĩ, nhưng ông chẳng buồn tranh cãi với cái ông- biết- tuốt ấy. Ông thấy Elínborg cũng lờđi không để ý.
"Họ cũng dựng những doanh trại chắc chắn hơn nữa, " Höskuldur kh ẳng định chắc nịch. "Những doanh trại của h ọ tốt hơn nhiều so với của người Anh. Người Mỹ đổ sàn bê tông chứ không dùng ván lót sàn mục rữa như người Anh. Thật là một nơi ở lý tưởng. T ất cả những thứ mà người Mỹ động vào làm đều tốt hơn và khéo léo hơn rất nhiều."
"Ông có biết sau khi ông và bà Ellý rời khỏi ngôi nhà, ai đã đến thuê nó không?" Erlendur hỏi.
"Có, chún g tôi đưa họđi quanh ngôi nhà. Anh ta làm việc tại một nông trại ở Gufunes, có một vợ và hai con cùng với một con chó. Họ là những người rất d ễ m ến, nhưng dù có cố đến mấy tôi cũng không thể nào nhớ nổi tên họ."
"Ông có biết gì về những người sống ở đó trước ông không? Những người đã coi sóc ngôi nhà thật cẩn thận ấy?"
"Tôi chỉ biết những điều mà Benjamín nói khi tôi khen ngợi việc ngôi nhà của ông ấy được giữ gìn cẩn thận và nói rằng Ellý với tôi cũng đặt ra những tiêu chuẩn cao như vậy."
Erlendur vểnh tai lên nghe còn Elínborg ngồi ng ay người lại trên ghế. Nhưng Höskuldur chẳng nói gì thêm.
"Sao cơ?" Erlendur hỏi.
"Những điều ông ấy nói ư? Đó là về người vợ." Höskuldur ngừng lại một lúc và nhấp một ngụm cà phê. Erlendur sốt ruột chờ ông ta kết thúc câu chuyện. Sự sốt sắng của ông không qua nổi mắt của Höskuldur, và ông ta biết rằng vị thám tử này đang phải van xin mình.
"Chuyện đó rất thú vị, chắc chắn là như vậy," Hö skuldu r nói. Cảnh sát sẽ k hôn g đi khỏi đây với hai bàn tay trắng đâu. Ông ta lại nh ấp thêm một ngụm cà phê nữa và lừng chừng rất lâu.
Lạy Chúa tôi, Elínborg nghĩ. Lão già này có định lảng sang chuyện khác không đây? Mình đã phải chịu đựng quá đủ những kẻ hủ lậu hoặc là chết một cách khốn kh ổ vì mình hoặc là ra vẻ phách lối với mình rồi.
"Ông ấy nghĩ rằng người chồng đã hành hạ vợ mình."
"Hành hạ ư?" Erlendur nh ắc lại.
"Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ? Bạo hành gia đình phải không?"
"Anh ta đánh vợ à?" Erlendur nói.
"Đó là Benjámin nói vậy. Kẻ vô lại đó đánh vợ và con mình. Tôi chưa bao giờ đụng một ngón tay vào Ellý."
"Ông ta có nói cho ông biết tên của họ kh ôn g?"
"Không, mà nếu ông ấy có nói thì tôi cũng quên lâu rồi. Nhưng ông ấy có nói một điều mà từ đó tới bây giờ tôi chưa từng quên. Ông ấy nói rằng cô ta - vợ người đàn ông ấy - được sinh ra trong một nhà máy sản xuất khí đốt ở Raudarárstígur. Ở mạn dưới Hlemmur. Ít nhất đó cũng là những gì người ta nói. Cũng giống như kiểu người ta nói rằng Benjamín giết vợ mình ấy mà. À ý tôi là vợ chưa cưới ấy."
"Benjamín? Nhà máy sản xuất khí đốt? Ông đang nói đến chuyện gì thế?" Erlendur đã hoàn toàn mất ph ương hướng. "Người ta nói rằng Benjamín giết vợ chưa cưới của mình ư?"
"Có một số người nghĩ vậy. Vào hồi đó ấy. Tự ông ấy cũng nói vậy."
"Rằng ông ta giết cô ấy à?"
"Rằng người ta nghĩ là ông ấy đã làm gì đó với cô ấy. Ông ấy không nói rằng mình giết vợ chưa cưới. Ông ấy chưa bao giờ nói thế. Tôi không hiểu về ông ấy một chút nào. Nhưng ông ấy chắc chắn rằng người ta nghi ngờ mình và tôi nghe nói là vì ghen tuông gì đó."
"Chuyện ngồi lê đôi mách sao?"
“Tất nhiên rồi. Chúng tôi rất giỏi chuyện đó. Giỏi buôn chuyện về những điều xấu xa mà người khác làm."
"Hượm một chút, chuyện về nhà máy sản xuất khí đốt là thế nào?"
"Đó là lời đồn đại hay hớm nhất. Ông chưa nghe qua chuyện đó à? Người ta nghĩ rằng ngày tận thế của trái đất sắp đến nên họ đã tổ chức một đêm trụy lạc ở nhà máy đó. Sau đó thì có mấy đứa trẻ được sinh ra và người phụ nữ này là một trong số họ, hoặc đó là suy nghĩ của Benjámin. Họ được gọi là những đứa trẻ của ngày tận thế."
"Ông đang đùa tôi đấy à?"
Höskuldur lắc đầu.
"Đó là vì sự xuất hiện của sao chổi. Người ta nghĩ rằng nó sẽ va vào trái đất. "
"Sao chổi nào cơ?"
"Sao chổi Halley, tất nhiên là thế rồi!" ông- biết- tuốt gần như quát lên vì tức giận trước sự ngu độn của Erlendur. "Sao chổi Halley ấy! Người ta nghĩ là nó sẽ va vào trái đất và tất cả sẽ bị tiêu hủy bởi lửa địa ngục!"