Một cuộc kiểm tra đơn giản cũng đã chỉ ra rằng chồng cô ta đã có tên trong sổ cảnh sát, mặc dù không phải là vì bạo lực. Hắn ta đang chờ án tù vì tội trộm cướp và buôn ma túy. Có lần hắn ta đã phải ngồi tù do nhiều tội nhỏ góp lại. Một trong số đó là ăn cắp trong các cửa hàng.
Erlendur ngồi trong xe một lúc lâu để theo dõi cửa ra vào của ngôi nhà. Ôn g cố nhịn không hút thuốc và đang chu ẩn bị lái xe đi thì cánh cửa m ở ra. Một gã đàn ông bước ra, khói thuốc lá mờ mịt, hắn ta búng điếu thuốc vào khu vườn phía trước. Hắn cao tầm thước, dáng người đô con, tóc đen, dài, mặc đồ đen từ đầu đến chân. Hình dáng hắn giống h ệt như mô tả trong hồ sơ của cảnh sát. Khi hắn đã biến mất ở góc đường, Erlendur lặng lẽ lái xe đi.
Con gái Róbert đón Elínborg ở cửa ra vào. Elínborg đã gọi điện từ trước. Người phụ nữ đó tên là Harpa, bà ta ngồi cố định trên chiếc xe đẩy, đôi chân teo tóp và khô héo, nhưng thân mình và hai tay vẫn còn khỏe mạnh.
Elínborg có đôi chút ngỡ ngàng nhưng cô không nói gì. Harpa mỉm cười và mời cô vào nhà. Bà để cửa mở, Elínborg theo sau và đóng cửa lại. Ngôi nhà nhỏ nhưng ấm áp, được xây phù hợp với điều kiện của chủ nhân.
"Tôi rất tiếc về chuyện của bố bà, " Elínborg nói trong lúc đi theo bà vào phòng khách.
"Cảm ơn cô," người phụ nữ ngồi trên xe lăn đáp. "Ông ấy đã già lắm rồi. Tôi mong là mình không thọ đến thế. Tôi không ghét điều gì bằng việc cuối đời trở thành một bệnh nhân trong bệnh viện, chờ mòn mỏi để được ra đi. Chết dần chết mòn trong đó."
"Chúng tôi đang điều tra về những người từng sống trong ngôi nhà gỗ ở Grafarholt, bên mạn Bắc," Elínborg nói. "Không cách xa nhà bà lắm. Trong thời chiến hoặc khoảng thời gian đó. Chúng tôi đã nói chuyện với bố bà ngay trước khi ông ấy mất và ông ấy có nói rằng ông biết một gia đình sống ở đó, nhưng đáng tiếc là ông ấy không thể nói thêm được gì nữa. "
Elínborg nhớ lại cái mặt nạ trên mặt Róbert, sự hụt hơi và đôi tay xanh xao của ông ta.
"Cô nói rằng các cô đã tìm thấy một vài khúc xương," Harpa nói trong lúc vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trước trán. "Chương trình thời sự có đưa tin. "
"Phải, chúng tôi phát hiện ra một bộ xương ở đó và đang cố gắng điều tra xem người đó là ai. Bà có nhớ gia đình mà bố bà nhắc đến không?"
"Hồi chiến tranh lan đến Iceland, tôi mới có bảy tuổi, " Harpa nói. "Tôi nhớ những người lín h ở Reykjavík. Chúng tôi sống trong n ội thành, nhưng tôi không biết tất cả chuyện đó là gì. Họ cũng ở trên đồi, phía Namấy. Họ cho dựng doanh trại và boong- ke. Trên boong- ke có một khe hở dài, nòng của một khẩu đại bác chĩa ra ở đó. Tất cả những điều đó rất ấn tượng. Bố mẹ bảo anh em tôi không được đến gần chỗ đó. Tôi nhớ mang máng là có hàng rào bao quanh đó. Dây thép gai thì phải. Chúng tôi không đi bằng đường đó nhiều lắm. Phần lớn thời gian chúng tôi ở trong ngôi nhà bố xây, chủ yếu là vào mùa hè, và dĩ nhiên là chúng tôi biết rất ít về hàng xóm xung quanh."
"Bố bà nói rằng trong ngôi nhà đó có ba đứa trẻ. Có thể họ ngang tầm tuổi bà." Elínborg liếc nhìn xuống cái xe đẩy của Harpa. "Có thể bà không đi lại nhiều."
"Ồ, chắc chắn rồi," Harpa nói, gõ gõ khớp ngón tay vào chiếc xe đẩy. "Về sau chuyện này mới x ảy ra. Hồi ba mươi tuổi tôi bị tai nạn xe hơi. Tôi không nhớ có đứa trẻ nào trên đồi cả. Tôi nhớ những đứa khác ở những ngôi nhà khác, nhưng không nhớ đứa nào trên đó. "
"Có mấy bụi cây lý chua gần chỗ ngôi nhà cũ nơi chú ng tôi phát hiện ra bộ xương. Bố bà có nói đến một cô gái thường đến đó, sau n ày, tôi nghĩ vậy. Cô ấy đến đó rất nhiều lần … Tôi nghĩ rằng ông ấy nói thế… có thể mặc đồ màu xanh lục và cô ấy bị méo mó."
"Bị méo mó ư?"
"Ông ấy đã nói vậy, hoặc đúng ra là viết vậy."
Elínborg lấy ra tờ giấy mà Róbert đã viết và đưa nó cho Harpa.
"Hình như đây là thời gian mà bà vẫn còn sở hữu ngôi nhà đó," Elínborg nói. "Tôi biết là bà đã bán nó sau năm 1970."
"1972," Harpa nói.
"Bà có để ý thấy người phụ nữ này không?"
"Không, và tôi chưa bao giờ nghe thấy bố tôi nói về cô ấy. Tôi rất tiếc vì không giúp được gì cho cô, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy và không biết gì về cô ấy cả, mặc dù tôi có nhớ những người sống ở nơi mà cô nói đến."
"Bà có hiểu ý của bố bà khi ông ấy nói là ‘bị méo mó’ không?"
"Đúng như ý nghĩa của nó thôi. Ông ấy luôn nói những gì mình nghĩ, chẳng có gì khác cả. Ông ấy là một người rất kỹ tính. Một người đàn ông tốt. Tốt với tôi. Nhất là sau vụ tai nạn xảy đến với tôi. Và khi chồng tôi bỏ rơi tôi - ông ta chịu đựng chuyện đó khoảng ba năm sau vụ tai nạn, rồi ông ta ra đi."
Elínborg nghĩ rằng mình đã thấy một nụ cười, nhưng chẳng có nụ cười nào hiện lên trên mặt bà ta cả.
Nhân viên Đại sứ quán Anh chào đón Erlendur với phép lịch sự và sự đứng đắn chu ẩn mực đến m ức ông gần như phải cúi đầu cảm ơn ông ta. Người này nói rằng mình là thư ký. Ông ta mặc một bộ vest đẹp hoàn hảo, đi giày da đen kêu kin kít, thân hình gầy và cao kỳ lạ, nói tiếng Iceland chuẩn không ch ê vào đâu được làm Erlendur rất thích vì ông nói và nghe tiếng Anh rất kém. Ông thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra rằng nếu có ai đó cảm thấy một chút gì không thoải mái trong cuộc trò chuyện của họ thì người đó là viên thư ký.
Văn phòng làm việc cũng đẹp hoàn hảo như chính người thư ký vậy, nó khiến Erlendur nghĩ đến nơi làm việc của chính mình, lúc nào trông nó cũng như vừa bị đánh bom. Viên thư ký - "Hãy cứ g ọi tôi là Jim," ông ta nói - mời ông ngồi.
"Tôi rất thích tác phong tho ải mái của người Iceland các ông," Jim nói.
"Ông ở đây đã lâu chưa?" Erlendur hỏi, không hiểu sao mình lại cư x ử giống như một bà già ở một tiệc trà.
"Vâng, gần được hai mươi năm rồi," Jim gật đầu. "Cảm ơn ông đã hỏi th ăm. Và khi Thế chiến thứ hai nổ ra, nó là mối quan tâm đặc biệt của tôi. Ý tôi là Thế chiến thứ hai ở Iceland ấy. Tôi đã bảo vệ luận án Thạc sĩ về chủ đề này ở Trường Kinh tế h ọc London. Khi ông gọi điện hỏi về những doanh trại ở đó, tôi nghĩ là mình có thể giúp được phần nào."
"Ông nói tiếng Iceland rất sõi đấy!"
"Cảm ơn ông, vợ tôi là người Iceland."
"Vậy những doanh trại đó là thế nào?" Erlendur hỏi, đi thẳng vào chủ đề chính.
"Vâng, tôi không có nhiều thời gian, nhưng tôi đã tìm được một số báo cáo của Đại sứ quán về những doanh trại chúng tôi cho dựng trong chiến tranh. Chúng ta có thể sẽ cần đến nhiều thông tin hơn. Ông có thể quyết định điều đó. Có hai doanh trại ở chỗ mà hiện nay là sân golf Grafahort."
Jim lấy ra một số giấy tờ trên bàn và đọc lướt qu a chú ng.
"Ở đó còn có, không biết các ông gọi là gì, một cái công sự. Hay là một boong- ke? Một cái tháp. Một khẩu đại bác khổng lồ. Một trung đội từ Tiểu đoàn 12 ở Tyneside Scotland giữ vị trí ở khẩu đại bác, nhưng tôi vẫn chưa tìm ra ai sống trong các doanh trại cả. Tôi nghĩ rằng đó là một kho quân sự. Tôi không biết tại sao nó lại được đặt trên đồi, nhưng có các doanh trại và boong- ke khắp nơi trên đó, trên đường đến Mosfellsdalur, ở Khôngllafjö rd ur và Hvalfjördur."
"Chúng tôi đang băn khoăn về một người bị mất tích trên đồi, như tôi đã trao đổi với ông qua điện thoại. Ông có biết liệu có người lính nào bị mất tích hay bị trình báo là mất tích không?"
"Ông cho rằng bộ xương mà các ông tìm thấy có thể là một người lính Anh sao?"
"Có thể không phải như vậy, nhưng chúng tôi cho rằng bộ xương bị chôn ở đó trong thời kỳ chiến tranh và nếu như người Anh từng ở khu vực đó thì rất có khả năng đó là một trong số họ."
"Tôi sẽ kiểm tra điều đó giúp ông, nhưng tôi không biết họ giữ những tài liệu đó bao lâu. Tôi nghĩ rằng người Mỹđã tiếp quản doanh trại cũng như tất cả những thứ khác sau khi chúng tôi để lại năm 1941. Phần lớn quân đội của chúng tôi được đưa sang các nước khác, nhưng không phải là tất cả."
"Vậy là người M ỹđã cai quản doanh trại đó?"
"Tôi sẽ xem lại chuyện đó. Tôi có thể trao đổi với tòa đại sứ Mỹ và xem họ nói gì. Điều đó sẽ đỡ phiền cho ông hơn."
"Các ông từng có quân cảnh ở đây."
"Chính xác. Đó có thể là điểm khởi đầu thuận lợi nhất. Chuyện này sẽ mất vài ngày đấy. Có thể là hàng tuần."
"Chúng tôi có nhiều thời gian mà," Erlendur nói và nghĩ đến Sk arp hédinn.
Lục lọi trong đống tài sản của Benjamín, Sigurdur Óli chán phát ngấy lên được. Elsa chào anh ta khi m ở cửa, chỉ đường cho anh ta đến tầng hầm và để anh ta ở đó, rồi anh ta mất bốn tiếng đồng hồ mở tất cả các tủ ly, ng ăn kéo và vô số hộp mà không biết đích xác là mình đang tìm cái gì. Bergthóra choán hết tâm trí của anh. Anh băn khoăn không biết cô có còn cuồng dâm khi anh trở về nhà giống như mấy tuần gần đây không. Anh đã quyết định sẽ hỏi thẳng cô xem liệu có lý do đặc biệt nào giải thích cho sự ham muốn anh đột ngột của cô không, và liệu có phải tất cả chỉ vì cô muốn có con không. Nhưng câu hỏi đó, anh biết, có nghĩa là sẽ dẫn đến một vấn đề khác mà đôi lần họđã nói chuyện nhưng chẳng đi đến đâu: đã đến lúc họ tổ chức một đám cưới với đầy đủ nghi lễ và những thủ tục thích h ợp chưa?
Câu hỏi đó cháy bỏng trên môi cô giữa những nụ hôn nồng nàn cô phủ lên anh. Anh vẫn còn suy nghĩ về vấn đề đó và luôn luôn né tránh trả lời. Suy nghĩ của anh như sau: họđang sống cùng nhau rất tốt, tình yêu của họ đang nảy nở, tại sao lại phải phá hủy nó bằng việc kết hôn? T ất cả đều nhặng xị. Một bữa tiệc toàn đàn ông trước khi cưới. Đi trên lối đi ở giáo đường. Tất cả khách khứa. Những chiếc bao cao su bơm phồng trong bộ váy cô dâu. Thật là lỗi thời không thể tả. Bergthóra không muốn có một đám cưới thông thường vớ vẩn. Cô ấy nói về pháo hoa và những kỷ niệm đẹp để sưởi ấm tuổi già. Sigurdur Óli lầm b ầm, nghĩ rằng bây giờ vẫn còn quá sớm để nghĩ đến chuyện cưới xin. Vậy là vấn đề vẫn cứ bế tắc, rõ ràng là Sigurdur Óli phải tự quyết định chuyện đó và anh không biết mình cần gì, ngoại trừ việc không có đám cưới trong nhà th ờ và không làm tổn thương Bergthóra.
Cũng như Erlendur, khi đọc được những bức thư của Benjamín, anh cảm nhận được tình yêu và sự mến mộ chân thành của ông dành cho cô gái mà bỗng dưng một ngày biến mất trên đường phố Reykjavík và bị cho là đã rơi xuống biển. "Tình yêu của anh. Em thương yêu. Anh nhớ em quá."
Tất cả tình yêu đó, Sigurdur Óli nghĩ.
Nó có khả năng giết người không?
Có cả núi giấy tờ liên quan đến của hàng của Knudsen, và khi Sigurdur Óli đã mất hết mọi hy vọng tìm ra thứ gì đó khả quan thì anh lôi ra được một tờ giấy từ ngăn kéo chứa tài liệu. Trên tờ giấy có ghi:
Höskuldur Thórarinsson.
Đã trả trước tiền thuê nhà ở Grafaholt.
8 kró nur1.
Benjamín Knudsen đã ký.
Erlendur đang trên đường rời đại sứ quán thì điện tho ại kêu.
"Tôi tìm thấy một người thuê," Sigurdur Óli nói. "Tôi nghĩ vậy."
"Thuê cái gì cơ?" Erlendur hỏi.
"Thuê ngôi nhà gỗ. Tôi đang ra khỏi tầng hầm của Benjamín. Chưa bao giờ tôi thấy một cái đống lổn ngổn kinh khủng như thế trong đời. Tôi tìm thấy một tờ giấy ám chỉ rằng một người nào đó tên là Höskuldur Thórarinsson đã trả tiền thuê nhà ở Grafarh ort."
"Höskuldur ư?"
"Phải. Thórarinsson."
"Ngày tháng ghi trên tờ giấy là gì?"
"Không có ngày tháng gì cả. Thực ra nó chỉ là một hóa đơn của cửa hàng của Knudsen. Hóa đơn thuê được viết ở đằng sau. Và tôi còn tìm thấy những hóa đơn có thể là về vật liệu xây dựng ngôi nhà nữa. Tất cả đều tính phí cho cửa hàng và những hóa đơn có ghi năm 19 38. Có thể ông ta bắt đầu xây ngôi nhà trong khoảng thời gian đó hoặc là đang xây dở nó."
1 Đơn vị tiềntệ của Iceland.
"Vợ chưa cưới của ông ta mất tích khi nào nhỉ?"
"Chờ một chút, tôi đã ghi lại rồi." Erlendur chờ trong lúc Sigurdur Óli kiểm tra lại. Anh ta ghi chép lại nội dung các cuộc họp - một công việc mà chưa bao giờ Erlendur biến nó trở thành một thói quen.
Ông có thể nghe thấy tiếng Sigudur Óli lướt qua các trang giấy và quay trở lại chiếc điện thoại.
"Bà ta biến mất năm 1940. Vào mùa xuân."
"Vậy là Benjámin xây nhà đến khoảng thời gian đó, sau đó dừng lại và cho thuê."
"Và Höskuldur là một trong số những người thuê nhà."
"Anh có tìm được gì về nhân vật Höskuldur này không?"
"Chưa, vẫn chưa. Chúng ta bắt đầu với người này chứ?"
Sigurdur Óli hỏi, hy vọng được thoát khỏi tầng h ầm.
"Tôi sẽ điều tra về ông ta," Erlendur nói, và Sigudur Óli chán nản khi ông nói thêm: "Kiểm tra xem anh có tìm thêm được gì về ông ta hay bất kỳ ai trong đống rác ấy không. Nếu có một giấy tờ, rất có thể là sẽ có nhiều hơn thế."