Bụi Lý Chua Máu

Chương 11

Người ta đã quyết định rằng Erlendur, Sigurdur Óli và Elínborg sẽ phải tự thụ lý vụ Bí Mật Những Khúc Xương - theo như giới truy ền thông gọi nó. Cục điều tra hình sự không thể điều thêm thám tử một vụ không được ưu tiên như thế. Một vụ điều tra quy mô lớn về ma túy đang diễn ra khẩn trương nên ngốn rất nhiều thời gian và nhân lực, vì thế họ không thể cử thêm người vào vụ nghiên cứu lịch sử này được, theo đúng như lời ông giám đốc Hrólfur nói. Không ai có thể đảm bảo chắc chắn rằng nó có phải là một vụ liên quan đến tội phạm hay không.

Erlendur ghé qua bệnh viện vào sáng sớm hôm sau trên đường đến sở. Ông ngồi bên con gái hai tiếng đồng hồ. Tình trạng của con bé ổn định. Không có dấu hiệu nào cho thấy mẹ nó đã đến đây. Erlendur ngồi yên lặng như thế khá lâu, ngắm nhìn gương mặt gầy, xương xẩu của con gái và nhớ lại thời quá khứ. Ông cố gắng nhớ về khoảng thời gian ông ở cùng con bé khi nó còn rất nhỏ. Eva Lind mới lên hai tuổi bố mẹ nó đã ly hôn, và ông nhớ rằng con bé luôn nằm ngủ giữa hai người. Nó không muốn nằm ở cái cũi của mình vì họ chỉ sống trong một căn hộ rất nhỏ với một phòng ngủ đơn, một phòng khách và nhà bếp, nhà bếp kết hợp luôn trong phòng ngủ. Con bé leo ra khỏi cũi, nằm phịch xuống cái giường đôi và rúc vào giữa bố mẹ.

Ông nhớ hìn h ảnh con bé đứng trước cửa nhà mình, lúc đó đã đến tuổi vị thành niên, sau khi lần theo dấu vết của bố. Halldóra đã thẳng thừng từ chối không cho ông gặp mặt các con. Cứ khi nào ông sắp xếp để gặp chúng là bà lại chửi mắng ông thậm tệ và ông có cảm giác rằng mỗi lời bà nói ra đều là sự thật. Dần dần ông không còn gọi cho chúng nữa. Ông không gặp Eva Lind trong ngần ấy thời gian và đột ngột con bé đứng ở đó, trên ô cửa nhà ông. Bộ dạng của nó trông rất quen thuộc. Khuôn mặt nó giống bên n ội nhiều.

"Bố không mời con vào nhà sao?" con bé nói khi thấy bố nhìn mình chằm chằm một lúc lâu. Con bé mặc một chiếc áo da đen, quần bò rách rưới, môi tô son đen kịt. Móng tay sơn đen. Con bé hút thuốc và nhả khói qua mũi.

Trên mặt nó vẫn còn có nét trẻ con, gần như là tinh khôi.

Ông run lập cập. Giật mình. Rồi mời con bé vào nhà.

"Mẹ do dự khi thấy con nói là con sẽ đi gặp bố," con bé nói khi bước qua chỗ ông, kéo theo khói thuốc và ngồi phịch xuống cái ghế bành. "Bà ấy gọi bố là đồ tồi. Lúc nào cũng nói thế. Với con và Sindri Snaer. ‘Một thằng tồi khốn kiếp, thằng bố của chúng mày ấy.’ Và rồi: ‘Chúng mày cũng chỉ giống như ông ta thôi, một lũ tồi khốn nạn’."

Eva Lind phá ra cười. Nó tìm một cái gạt tàn để vứt điếu thuốc, nhưng Erlendur đã cầm lấy đầu lọc và dập tắt cho con bé.

“Tại sao …" ông bắt đầu, nhưng không thể nói hết câu.

"Con chỉ muốn đến th ăm bố," con bé nói. "Chỉ muốn xem bố trông như thế quái nào thôi."

"Vậy trông bố như thế nào?" ông hỏi.

Con bé nhìn bố.

"Giống như một đồ tồi vậy," nó đáp.

"Vậy chúng ta không khác nhau rồi," ông nói.

Con bé nhìn ông chằm chằm rất lâu và ông nghĩ rằng mình đã trông thấy nụ cười của con bé.

*

Khi Erlendur đến sở, Elínborg và Sigurdur Óli cùng ngồi xuống và kể rằng họ chẳng thu thập được thêm thông tin gì từ người chủ nhà hiện tại của ngôi nhà của Róbert. Theo như lời họ nói thì họ chưa bao giờ thấy có một người phụ nữ méo mó nào trên đồi cả. Vợ của Róbert đã chết cách đây mười năm. Họ có hai con. Người con trai sáu mươi tuổi chết cùng mẹ vào năm đó, còn một người phụ nữ bảy mươi tuổi đang chờ Elínborg gọi cho mình.

“Thế còn Róbert thì sao? Chúng ta có hỏi được thêm gì từ ông ta không?" Erlendur hỏi.

“Tối qua Róbert đã ra đi," Elínborg đáp, giọng nói đượm vẻ hối lỗi. "Ông ấy đã sống đủ rồi. Thật sự là như thế. Tôi nghĩ rằng ông ấy cũng không còn muốn sống nữa. Ông ấy tự gọi mình là một cây rau già úa đáng thương và vô dụng. Lạy Chúa, tôi ghét phải chết dần chết mòn trong bệnh viện như thế."

"Ông ấy đã viết được vài từ trong cuốn sổ ngay trước khi chết," Sigurdur Óli nói. "Cô ấy đã giết tôi. "

“Thôi đi, anh đùa hơi quá rồi đấy," Elínborg rên rỉ.

"Hôm nay cô không phải gặp anh ta nữa đâu," Erlendur nói và hất đầu về phía Sigurdur Óli. "Tôi và anh ta sẽ đến tầng hầm của Benjamín để tìm kiếm một vài dấu vết. "

"Ông mong tìm thấy gì ở đó cơ chứ?" Sigurdur Óli hỏi, nụ cười toe toét trên mặt lập tức chuyển sang nhăn nhó.

"Chắc chắn là ông ta phải viết ra điều gì đó nếu cho thuê ngôi nhà. Chuyện đó không có gì phải bàn cãi. Chúng ta cần tên của những người từng sống ở đó. Cục Thống kê Quốc gia dường như khó có thể tìm ra nó cho chúng ta. Một khi có tên của họ rồi, chúng ta có thể tra cứu danh sách những người mất tích và xem có ai trong số họ còn sống hay không. Và chúng ta cần phân tích để xác định giới tính và tuổi tác ngay sau khi bộ xương được khai quật hoàn toàn."

"Róbert có nói đến ba người con," Elínborg nói. "Ít nhất thì một trong số họ phải còn sống chứ."

"Xem nào, đây là điều mà chúng ta cần quan tâm," Erlendur đáp.

"Và cũng không có gì nhiều: một gia đình năm người sống trong một ngôi nhà gỗ ở Grafarholt, hai vợ chồng với ba đứa con vào một thời điểm nào đó trước, trong hoặc sau chiến tranh. Họ là những người duy nhất sống trong ngôi nhà đó mà chúng ta biết, nhưng còn có những người khác có thể sống ở đó nữa. Do đó, cho đến bây giờ chúng ta chỉ có thể đoán rằng một trong số họ đã bị chôn ở đó, hoặc có ai đó liên quan đến họ. Và có một số người có quan hệ đến họ  chính là người phụ nữ mà Róbert còn nhớ, thường đến đó…"

“Thường đến và sau này, và bị méo mó," Elínborg nói nốt câu của ông. "Bị méo mó có thể hiểu là chân cô ta bị khập khiễng không?"

"Vậy tại sao lúc đó ông ta không viết là "bị què"?" Sigurdur Óli hỏi.

"Có chuyện gì xảy ra với ngôi nhà đó nhỉ?" Elínborg hỏi. "Không còn dấu vết nào của nó trên đồi cả."

"Có thể anh sẽ tìm ra điều đó cho chúng ta trong căn hầm của Benjamín hoặc từ cháu gái của ông ta," Erlendur nói với Sigurdur Óli. "Tôi đã quên bẵng đi không hỏi chuyện đó."

“Tất cả những gì chúng ta cần là tên của những người sống trong ngôi nhà đó và xem xét lại chúng trong danh sách những người mất tích trong thời gian đó, và đến lúc ấy tất cả sẽ được khớp lại với nhau. Chuyện đó không phải rất rõ ràng sao?" Sigurdur Óli nói.

"Chưa đâu," Erlendur đáp.

“Tại sao?"

"Anh chỉ mới nói đến những người được báo cáo là mất tích thôi."

"Còn ai mất tích mà tôi chưa nói đến nữa?"

"Những trường hợp mất tích mà không được trình báo. Anh không đảm bảo được là tất cả mọi người sẽ báo cho cảnh sát nếu có ai đó bị mất tích. Có một số người chuyển đến vùng nôn g thôn và chẳng còn ai nhìn thấy họ nữa. Có một số người rời bỏ đất nước và dần dần rơi vào quên lãng. Và còn có những người đi du lịch rồi bị chết cóng. Nếu chúng ta có danh sách của những người được trình báo là mất tích và chết trong khu vực này vào thời gian đó, chúng ta cũng cần kiểm chứng lại danh sách đó nữa. "

“Tôi nghĩ tất cả chúng ta có thể nhất trí rằng đây không phải là một trường hợp như thế," Sigurdur Óli nói với giọng đầy quyền uy và ngay lập tức nó bắt đầu tác động đến dây thần kinh của Erlendur. "Không thể có chuyện người đàn ông này, hay bất kỳ ai đang nằm dưới đó, bị đóng băng đến chết. Đó là một hành động có chủ ý. Có ai đó đã chôn anh ta xuống đó."

"Ðó chính xác là những gì tôi muốn nói," Erlendur - một pho từ điển sống về những thử thách của thiên nhiên hoang dã - đáp. "Ví dụ như ai đó bắt đầu khởi hành từ một trang trại. Lúc đó là vào mùa đông và theo như dự báo, thời tiết rất tồi tệ. Tất cả mọi người đều cố gắng ngăn cản anh ta. Tuy nhiên người này lại bỏ ngoài tai hết mọi lời khuyên can, cứ khăng khăng là mình sẽ làm được. Điều lạ lùng nhất trong câu chuyện về những người chết cóng là họ không bao giờ nghe những lời khuyên. Giống như thần chết đã dụ dỗ họ vậy. Dường như họ buộc phải chấp nhận số phận bi đát của mình. Như thể họ muốn chống lại số phận nhưng không được. Dù có thế nào đi chăng nữa.

Người đàn ông này nghĩ rằng mình sẽ thành công. Trừ khi cơn bão tan đi, tình hình sẽ tồi tệ hơn anh ta tưởng rất nhiều. Anh ta mất hết phương hướng và bị lạc. Cuối cùng, anh ta bị phủ dưới một đống tuyết và chết cóng. Đến lúc đó anh ta đã hoàn toàn mất dấu vết. Đó là lý do tại sao xác của anh ta không bao giờ được tìm thấy. Anh ta bị mất tích hoàn toàn."

Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nhau, không hiểu Erlendur định nói điều gì.

"Đó là một trường hợp mất tích điển hình ở Iceland mà chúng ta có thể giải thích và hiểu được, bởi vì chúng ta sống ở đất nước này và biết khi nào thời tiết bất ngờ chuyển sang xấu, biết câu chuyện về người khách bộ hành đó đôi khi được lặp lại một cách đều đặn mà không một ai thắc mắc. Đó là Iceland, người ta nghĩ thế, và lắc đầu. Tất nhiên, chuyện đó xảy ra thường xuyên hơn trong quá khứ khi mà hầu hết tất cả mọi người đều đi bộ. Có cả một bộ sách kể về chuyện đó; tôi không phải là người duy nhất quan tâm đến điều này. Các hình thức du lịch mới chỉ thực sự thay đổi trong vòng sáu mươi đến bảy mươi năm qua. Người ta thường bị mất tích, và mặc dù anh không bao giờ chấp nhận chuyện đó, anh vẫn hiểu được số phận của họ. Người ta thường không cho rằng những vụ mất tích đó có liên quan đến tội phạm hay cảnh sát. "

"Ý ông là gì?" Sigurdur Óli hỏi.

"Cả bài thuyết trình vừa rồi là về chuyện gì thế?" Elínborg cũng hỏi.

"Nếu như ngay từ đầu, những người đàn ông hay phụ nữ này không khởi hành từ một trang trại thì sao?"

"Ông đang muốn nói đến điều gì?" Elínborg hỏi.

"Nếu như người ta lại khai báo rằng những người này đã đi đến một khu đất hoang hoặc một trang trại khác hoặc đi thả lưới bắt cá ở một cái hồ nào đó và không bao giờ trở về nữa thì sao? Một cuộc điều tra sẽ diễn ra, nhưng người đó thì không bao giờ được tìm thấy và bị mất tích mãi mãi."

"Vậy là tất cả những người trong gia đình có âm mưu giết người này sao?" Sigudur Óli nói, nghi ngờ về giả thuyết của Erlendur.

“Tại sao lại không?"

"Vậylà anh ta bị đâm hoặc đánh hoặc bắn và bị chôn trong vườn sao?" Elínborg thêm vào.

"Cho đến một ngày Reykjavík phình ra quá lớn đến nỗi anh ta không thể yên nghỉ dưới đó được nữa," Erlendur nói.

Sigurdur Óli và Elínborg nhìn nhau rồi lại nhìn qua Erlendur.

"Benjamín Knudsen có một người vợ chưa cưới bị mất tích trong hoàn cảnh rất khó hiểu," Erlendur nói. Trong khoảng thời gian ngôi nhà được xây dựng. Người ta nói rằng cô ấy tự lao mình ra biển và Benjamín không bao giờ còn như trước nữa. Dường như trước đó ông ta có kế hoạch làm cách mạng cho việc kinh doanh lẻ ở Reykjavík, nhưng Benjamín đã hoàn toàn suy sụp khi cô gái biến mất và tham vọng làm giàu của ông ta tan thành mây khói."

"Theo như giả thuyết mới của ông thì cô ấy không hề biến mất phải không?" Sigurdur Óli hỏi.

"Có chứ, cô ấy đã biến mất. "

"Nhưng ông ta đã giết cô ấy. "

“Thực ra tôi thấy chuyện đó rất khó," Erlendur đáp. "Tôi đã đọc vài bức thư Benjamín viết cho vợ chưa cưới và thấy rằng ông ta không động đến một sợi tóc của cô ấy. "

"Vậy thì đó là vì ghen tuông rồi," Elínborg - một độc giả cuồng nhiệt của các câu chuyện tình - nhận xét. "Ông ta giết cô ấy vì lòng ghen tuông. Tình yêu của ông ta dành cho cô ấy có thể là thật. Chôn cô ấy dưới đó và không bao giờ quay trở lại đó nữa. Thế là hết. "

“Tôi đang nghĩ là," Erlendur nói, "chẳng lẽ việc một người đàn ông trẻ tuổi suy sụp khi biết người yêu của mình chết trên tay mình lại là quá đáng ư? Thậm chí nếu cô ấy tự tử thì sao? Tôi thấy rằng Benjamín là một người đàn ông đau khổ sau khi cô ấy mất tích. Có còn gì khác ngoài điều đó nữa hay không?"

"Ông ta có thể giữ một mớ tóc của cô ấy lắm chứ?" Elínborg phân vân. Erlendur nghĩ cô vẫn còn đang chìm đắm trong mớ ảo tưởng nhão nhoẹt. "Có thể là trong một khung ảnh hoặc một hộp lồng ảnh chẳng hạn," cô nói thêm. "Nếu ông ta yêu cô ấy đến thế."

"Một mớ tóc ư?" Sigudur Óli nh ắc lại.

"Ông ta thật là tối dạ," Erlendur nói khi đã bắt kịp được dòng suy nghĩ của Elínborg.

"Ý ông là gì, một mớ tóc ư?" Sigurdur Óli hỏi.

"Nó sẽ cho biết cô ta là ai, nếu như không còn lại dấu vết nào kh ác. "

"Ai cơ?" Sigurdur Óli nhìn hết người này đến người khác. "Hai người đang nói đến DNA ư?"

"Còn có một người phụ nữ trên đồi nữa," Elínborg nói. "Chúng ta phải lần ra cô ta."

"Người phụ nữ màu xanh lục," Erlendur trầm ngâm nói, rõ ràng là đang lẩm bẩm một mình.

"Erlendur," Sigudur Óli nói.

"Sao cơ?"

"Rõ ràng là cô ấy không thể có màu xanh được."

"Sigurdur Óli."

"Sao?"

"Anh nghĩ là tôi là một kẻ ngu ngốc lắm à?"

Điện thoại trên bàn Erlendur vang lên. Người gọi là Skarphédinn, nhà khảo cổ.

"Chúng tôi đang xuống gần đến nơi rồi," Skarphédinn nói. "Chúng tôi có thể khai quật toàn bộ bộ hài cốt trong vòng hai ngày nữa hoặc gần thế."

"Hai ngày cơ à!" Erlendur g ầm lên.

"Hoặc gần vậy. Chúng tôi vẫn chưa tìm ra thứ gì có vẻ như một vũ khí cả. Ông có thể nghĩ rằng chúng tôi đang làm việc quá tỉ mỉ, nhưng tôi cho là làm việc cẩn thận sẽ tốt hơn. Ông có muốn đến xem không?"

"Có, tôi đang trên đường đến đây," Erlendur đáp.

"Ông có thể mua một ít bánh ngọt trên đường đến đây không?" Skarphédinn nói, và Erlendur có thể tưởng tượng ra cái răng nanh màu vàng của ông ta.

"Bánh ngọt ư?"

"Bánh ngọt Đan Mạch ấy," Skarphédinn đáp.

Erlendur sập mạnh điện thoại, bảo Elínborg đi cùng mình đến Grafarhort và cử Sigurdur Óli đến tầng h ầm của Benjamín để cố tìm kiếm điều gì đó về ngôi nhà gỗ - ngôi nhà mà người thương nhân đã xây nhưng không còn quan tâm gì đến nó nữa sau khi cuộc đời ông rơi vào bếtắc.

Trên đường đến Grafahort, Erlendur vẫn còn vẩn vơ nghĩ đến những người mất tích và chết trong những cơn bão tuyết. Ông nhớ đến câu chuyện về Jón Austman. Ông ta bị chết cóng, có lẽ là ở Blöndugil năm 1780. Con ngựa của ông ta bị phát hiện với cái cổ họng bị xé toạc, nhưng tất cả những gì còn lại của Jón chỉ là một bàn tay.

Nó được bao bọc trong một cái găng tay len màu xanh.

*

Bố của Símon là con quái vật xuất hiện trong tất cả những cơn ác mộng của nó. Theo trí nhớ của nó thì luôn là như vậy. Thằng bé sợ con quái vật hơn mọi thứ trên đời, và khi nó tấn công mẹ mình, tất cả những gì mà Símon có thể nghĩ đến là trở thành người bảo vệ mẹ. Nó tưởng tượng ra một cuộc chiến đấu tất yếu giữa một bên là chàng hiệp sĩ oai dũng và bên kia làmột con rồng khè ra lửa. Giống như trong các câu chuyện phiêu lưu, chàng hiệp sĩ luôn đánh bại con quái vật, còn trong những giấc mơ của mình, Símon chưa bao giờ chiến thắng.

Con quái vật trong giấc mơ của Símon có tên là Grímur. Nó không bao giờ là người Cha thân yêu của thằng bé, chỉ là Grímur mà thôi.

Símon tỉnh dậy khi Grímur lần ra ba mẹ con họ trong khu tập thể của nhà máy chế biến cá ở Siglufjördur, nó nghe thấy tiếng ông ta thì thào vào tai mẹ nó về việc ông ta sẽ đưa Mikkelína lên núi và giết chị. Nó nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt mẹ, và nó thấy mẹ nó đột nhiên mất tự chủ, lao người vào đầu giường và bất tỉnh. Sau đó Grímur bình tĩnh lại. Nó thấy lúc Grímur tát liên tục vào mặt mẹ nó để gọi mẹ tỉnh dậy. Thằng bé ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc phát ra từ Grímur, nó vùi mặt vào tấm nệm. Sợ quá, Símon cầu xin Jesus hãy mang nó lên thiên đàng ngay lập tức.

Símon không nghe thấy Grímur thì thào gì với mẹ nó nữa. Chỉ nghe thấy tiếng mẹ khóc thút thít. Đầy kìm nén, giống như tiếng của một con thú bị thương hòa cùng những tiếng rủa xả của Grímur. Qua khe mắt, thằng bé thấy Mikkelína nhìn chằm chằm vào bóng tối trong nỗi hoảng sợ không thốt thành lời.

Símon đã thôi cầu xin vị Chúa của mình, thôi không còn nói chuyện với "người anh em tốt Jesus" nữa, dù mẹ nó có nói rằng không được đánh mất niềm tin vào Ngài. Tuy không bị mẹ thuyết phục nhưng Símon cũng đã không còn nói với mẹ về hành động b ất tín của mình. Qua biểu hiện của mẹ, nó có thể thấy rằng mình đã làm mẹ ph ật lòng. Nó biết sẽ không có một ai, thậm chí là tất cả các vị thần thánh trên đời, có thể giúp mẹ nó chống lại được Grímur. Theo như những điều mà nó nghe được, Chúa là đấng sáng tạo quyền năng và toàn trí ở cả thiên đường và mặt đất, Chúa đã tạo ra Grímur cũng giống như tất cả mọi người, Chúa để cho con quái vật đó sống và hành hạ mẹ mình, kéo tóc mẹ lôi quanh sàn bếp và khạc nhổ vào mặt mẹ. Và đôi khi Grímur còn đánh cả Mikkelína, "con què khốn kiếp", hắn ta gọi như vậy trong lúc đánh đập và nhạo báng chị nó. Thỉnh thoảng hắn đánh cả nó, đá đít hoặc đấm nó, có lần Rrímur đánh mạnh quá đến mức nó bị bật một cái răng hàm trên và chảy máu.

"Lạy người anh em tốt Jesus, người bạn của trẻ em …"

Grímur đã sai lầm khi cho rằng Mikkelína chậm phát triển trí tuệ. Símon có cảm giác rằng chị mình thông minh hơn tất cả mọi người trong nhà cộng lại. Nhưng chị ấy chẳng bao giờ nói nửa lời. Thằng bé chắc chắn rằng chị mình có thể nói, nhưng chỉ là không muốn nói mà thôi.

Chắc chắn chị nó đã ch ọn cách yên lặng, vì cái cách mà Mikkelína sợ Grímur cũng giống y như hai anh em nó, có thể còn hơn thế vì đôi lúc Grímur nói đến chuyện ném Mikkelína vào đống rác cùng với cái xe đẩy tạm bợ của chị nó. Dù gì Mikkelína cũng là "kẻ vô dụng" và Grímur đã chán ng ấy việc cứ phải nhìn một "con què" ăn thức ăn do hắn làm ra mà chẳng được tích sự gì, ngoại trừ việc trở thành một gánh nặng. Hắn nói rằng Mikkelína đã biến họ thành một cái nhà kho nực cười, cả gia đình và cả hắn nữa, chỉ vì Mikkelína là một con què.

Grímur chắc chắn Mikkelína có thể nghe thấy những điều này, và hắn đã cười sằng sặc khi thấy vợ hắn cố gắng một cách yếu ớt để át đi những lời chửi rủa. Mikkelína chẳng nề hà gì việc bị hắn ta quát mắng hay sỉ nhục, nó chỉ không muốn mẹ phải chịu đựng kh ổ sở vì mình. Símon có thể thấy điều đó khi nhìn chị. Giữa Mikkelína và nó có mối quan hệ rất gắn bó, gắn bó hơn rất nhiều so với Tómas - một đứa khó hiểu và chỉ thui thủi một mình.

Người mẹ biết rằng Mikkelína không hề bị chậm phát triển trí tuệ hay thể chất. Cô thường xuyên luy ện tập cùng con bé, nhưng chỉ vào những lúc Grímur không có nhà. Cô giúp con kh ởi động đôi chân, nhấc cánh tay cứng ngắc, quắt queo bị vặn vào phía trong của nó lên và lấy thuốc mỡ mình tự chế từ th ảo dược trên đồi để xoa bóp nửa người bị liệt cho con. Người mẹ thậm chí còn cho rằng một ngày nào đó con mình có thể đi lại được. Cô vòng tay con bé quanh người mình và dìu nó đi chập chững tới lui trên sàn nhà, giục giã nó, động viên nó.

Người mẹ luôn nói chuyện với Mikkelína giống như với một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cô còn yêu cầu Símon và Tómas cũng phải làm như thế. Cô chưa bao giờ loại con bé ra khỏi những công việc mà mấy mẹ con họ cùng làm mỗi khi Grímur ra ngoài. Mẹ và con gái luôn luôn hiểu lẫn nhau. Và các em của nó cũng hiểu nó như thế, hiểu từng cử chỉ, từng biểu hiện trên khuôn mặt của nó. Nói chuyện là việc không cần thiết, thậm chí n ếu Mikkelína biết về ngôn ngữ, con bé cũng không bao giờ sử dụng. Cô đã dạy nó đọc và nó còn ưa thích đọc sách hơn cả việc được đưa ra ngoài sưởi nắng.

Và rồi một ngày lời nói của Mikkelína bắt đầu bật ra, một ngày mùa hè sau khi thế giới lâm vào cảnh chiến tranh và quân đội Anh đến dựng lều trên đồi, khi ấy Símon đưa Mikkelína vào nhà tránh nắng. Cả ngày hôm đó con bé sôi động khác thường, nó lắc lư cái đầu, há miệng và thè lưỡi ra ngoài. Símon đang chuẩn bị đặt chị lên chiếc đi- v ăng trong bếp vì trời đã sắp tối và bắt đầu trở lạnh thì bất thình lình con bé phát ra tiếng nói khiến mẹ nó giật mình đến nỗi đánh rơi cả cái đĩa vào bồn rửa bát và vỡ tan tành. Quên khuấy đi nỗi hoảng sợ của con bé sau sự vụng về đó, cô quay lại và nhìn con không chớp mắt.

"EMAAEMAAA," Mikkelína nhắc lại.

"Mikkelína!" mẹ thốt lên đầy kinh ngạc.

"EMAAEMAAA," Mikkelína hét lên, lắc đầu quầy quậy đầy phấn khích khi thấy mình đã làm được.

Người mẹ từ từ đi lại chỗ con bé như thể không tin nổi vào tai mình, sau đó nhìn con, miệng há hốc, còn Símon dường như thấy mắt mẹ ầng ậng nước.

"Maammmmaa," Mikkelína nói. Cô bế nó từ tay Símon rồi chầm chậm và nhẹ nhàng đặt nó lên giường, xoa xoa vào đầu con bé. Trước đây Símon chưa bao giờ thấy mẹ nó khóc, mặc cho Grímur có làm gì với mẹ đi chăng nữa, mẹ cũng không bao giờ khóc. Mẹ nó chỉ kêu thét vì đau, gọi người cứu, van xin ông ta dừng tay lại hoặc là chịu đòn trong câm lặng, nhưng Símon chưa bao giờ thấy mẹ khóc.

Nghĩ rằng mẹ thất vọng, nó vòng tay quanh người mẹ, nhưng mẹ lại bảo nó đừng lo lắng. Đây là điều tuyệt vời nhất mà mẹ từng có trong đời. Thằng bé chắc chắn rằng mẹ nó khóc không phải chỉ vì sức khỏe của Mikkelína mà còn vì nỗ lực của chị nó nữa. Và điều này làm mẹ nó hạnh phúc hơn tất thảy những gì mẹ nó cho phép mình cảm nhận được từ trước đến giờ.

Đó là chuyện cách đây hai năm, và Mikkelína đã dần dần bổ sung thêm vào vốn từ vựng của mình, giờđây con bé đã nói được cả câu hoàn chỉnh, mặt nó giống như một củ cải lớn, thè lưỡi ra và lắc đầu ngu ầy ngu ậy một cách điên cuồn g khiến họ nghĩ rằng cái đầu sẽ rơi ra khỏi cơ thểốm yếu quặt quẹo của con bé mất. Grímur không biết rằng con bé nói được. Mikkelína không bao giờ hé miệng khi có hắn ta ở nhà và người mẹ cũng giấu hắn, bởi vì chưa bao giờ cô để hắn m ảy may chú ý gì đến con bé, thậm chí là thành quả tuy ệt vời như thế. Mẹ con họ giả vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra hay thay đổi. Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ nó nói một cách rất thận trọng với Grímur về việc họ phải tìm người giúp đỡ Mikkelína. Nói rằng con bé có thể trở nên linh hoạt và khỏe mạnh hơn theo thời gian, và nó tỏ ra có năng khiếu học.Nó có thể đọc và đang học viết bằng bàn tay lành.

"Nó là một con què," Grímur đáp. "Đừng bao giờ nghĩ rằng nó có thể làm được gì khác hơn ngoài một con què. Và đừng bao giờ nhắc đến nó trước mặt tao nữa."

Vậy nên cô thôi không nói nữa, bởi vì cô tuân theo từng lời nói của hắn. Nguồn giúp đỡ duy nhất mà Mikkelína nhận được là từ mẹ nó, Símon và Tómas khi hai anh em nó bế chị ra ngoài và chơi đùa cùng chị.

Símon tránh bố càng xa càng tốt, nhưng dần dần hắn ta b ắt nó phải đi cùng mình. Khi Símon lớn lên, thằng bé có vẻ hữu ích đối với Grímur nên hắn đưa nó lên Reykjavík và bắt nó khuân đồ dự trữ về nhà. Chuyến đi lên thành phố mất hai tiếng đồng hồ, họ xuống Grafarvogur, qua cầu ở Ellidaár và đi men theo các quận Sund và Laugarnes. Đôi lúc họ đi theo dốc đến Háaleiti và đi qua Sogamýri. Símon đi cách Grímur khoảng bốn năm bước, còn hắn thì không bao giờ hé răng nói nửa lời hay để ý gì đến thằng bé cho đến khi tống lên người nó cả đống đồ rồi bắt nó tải về nhà. Quãng đường về nhà mất ba hoặc bốn tiếng đồng hồ, phụ thuộc vào sức nặng của đống hàng mà Símon phải vác. Đôi lúc Grímur ở lại thành phố và không về đồi trong nhiều ng ày liền.

Khi chuyện đó xảy ra, cả nhà họ bừng lên một niềm v ui khôn tả.

Trên đường đến Reykjavík, Símon phát hiện ra một đặc điểm của Grímur mà nó mất kh á lâu để cố gắng tìm hiểu màvẫn không hiểu hết. Ở nhà, Grímur cáu kỉnh và hung tợn, hắn gh ét người khác nói chuyện với mình, khi buộc phải nói, hắn ăn nói tục tĩu và gọi vợ con bằng nh ữn g cái tên thô bỉ. Hắn bắt vợ con phải phục tùng tất cả mọi nhu cầu của mình và chửi mắng những ai không làm tròn nhiệm vụ. Nhưng khi tiếp xúc với người ngoài, con quái vật dường như náu mình sau lớp vỏ và lại trở thành một con người thực thụ. Trong chuyến đi đầu tiên của Símon đến Reykjavík, nó nghĩ rằng Grímur sẽ cư xử giống như với mẹ con nó ở nhà, lúc nào cũng cằn nhằn và đấm, thụi. Nó rất sợ chuyện đó, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra. Mà ng ược lại. Đầy bất ngờ, Grímur muốn làm vừa lòng tất cả mọi người. Hắn ta nói chuyện râm ran với người lái buôn, cúi rạp đầu chào kính cẩn với tất cả những người đến cửa hàng. Hắn ta gọi tên họ một cách trịnh trọng, thậm chí còn mỉm cười, bắt tay họ nữa. Đôi lúc Grímur tình cờ gặp những người hắn ta quen, hắn cười lên ha hả chứ không phải là điệu cười khàn khàn kỳ cục và khô khốc thường bật ra khi phỉ báng vợ mình. Khi mọi người chỉ vào Símon, Grímur đưa tay lên đầu thằng bé và nói "Vâng, con trai tôi đấy, lớn tướng rồi." L ần đầu Símon cúi đầu né tránh vì sợ bị đòn, nhưng Grímur lại đùa cợt với người ta về điều đó.

Símon phải mất rất nhiều thời gian mới hiểu ra sự hai mặt kỳ cục của Grímur. Nó không thể nhận ra được v ẻ b ề ngoài lạ lùng của bố nó. Nó không thể hiểu được tại sao Grímur có thể là một người như thếở nhà nhưng khi ra đường hắn lại làmột con người hoàn toàn khác. Símon không thể hiểu được tại sao hắn lại có thể bợ đỡ, khúm núm và cúi đầu lịch sự đến thế, trong khi đó ở nhà hắn ta giống như một người có quyền uy tối thượng, ban ra sự sống và cái chết. Khi Símon nói lại chuyện này với mẹ, bà chỉ lắc đầu chán n ản và nhắc nhở thằng bé, y như mọi khi, là phải cảnh giác với Grímur, chú ý không được kích động hắn. Không cần biết ai là người làm hắn ta điên lên, Símon, Tómas hay Mikkelína, hay chuyện gì xảy ra khi Grímur không ở nhà khiến hắn ta lồng lộn, Grímur luôn luôn đánh đập vợ mình.

Đôi khi những vụ đánh đập xảy ra cách nhau mấy tháng liền, thậm chí là cả năm trời, nhưng có khi chúng lại diễn ra khá thường xuyên, thậm chí là hàng tuần. T ần suất giận dữ của hắn cũng biến đổi khôn lường. Có khi là một quả đấm bất thình lình, có khi hắn rơi vào cơn thịnh nộ không kiểm soát nổi đến nỗi đánh vợ gục xuống sàn và đá cô không thương tiếc.

Đè nặng lên cả gia đình không chỉ là bạo hành về thân thể. Ngôn ngữ mà hắn ta dùng giống như một cái roi quất vào mặt.

Tất cả đều là những lời đả kích thậm tệ nh ắm vào Mikkelína, rằng nó là một con què vô tích sự, rồi ng uy ền rủa Tómas là một thằng chuyên đái dầm vào ban đêm và chửi bới Símon hành động chẳng khác nào một thằng con hoang lười như hủi. Kể cả những điều mẹ nó bị buộc phải nghe trong khi m ấy anh em nó cố gắng bịt tai lại để tránh.

Grímur không thèm đếm xỉa gì đến chuyện con cái chứng kiến hắn đánh đập hay sỉ nhục vợ bằng những từ sắc như dao cạo.

Thời gian còn lại, hắn gần như không bao giờ chú ý gì đến chúng, cư xử cứ như thể không còn ai tồn tại ngoài hắn. Thỉnh thoảng lắm hắn mới chơi bài với hai đứa con trai và thậm chí còn để Tómas thắng. Đôi lúc, vào ngày Chủ nh ật, cả nhà họ kéo nhau lên Reykjavík và hắn còn mua kẹo cho chúng nữa. Rất hiếm khi Mikkelína được cho đi cùng, và trong những lần như thế, Grímur bố trí nhờ một chiếc xe tải chở than đá để khỏi phải bế con bé từ trên đồi xuống. Trong những chuy ến đi rất hiếm hoi và cách nhau rất xa ấy, Símon có cảm giác bố nó gần như là một con người thực sự, gần như là một người cha.

Có vài lần Símon nhìn nhận bố mình không giống như một kẻ bạo ngược, ông ta bí ẩn và khó hiểu. Một lần hắn ngồi uống cà phê ở bàn ăn trong lúc quan sát Tómas chơi trên sàn nhà, hắn xoa xoa bàn tay lên mặt bàn và bảo Símon mang cho mình một cốc cà phê khác khi nó đang chuẩn bị lẻn ra khỏi bếp. Và khi Símon rót cà phê cho hắn, hắn nói:

"Cứ nghĩ về chuyện đó là tao lại phát điên lên."

Símon dừng tay lại, hai tay bê lấy bình cà phê và đứng bên cạnh bố.

"Phát điên lên được," hắn nói trong lúc tay vẫn xoa xoa trên mặt bàn.

Símon chầm chậm lùi về đằng sau và đặt cái bình xuống mặt lò nướng.

Nhìn Tómas chơi trên sàn, Grímur nói:

"Tao phát điên lên khi nghĩ rằng mình không thể lớn tuổi hơn thằng đó."

Símon chưa bao giờ tưởng tượng ra bố nó trông như thế nào nếu trẻ hơn, hay là có gì khác. Giờ đây, đột ngột, bố nó trở thành một đứa trẻ cũng giống như Tómas, và một khía cạnh hoàn toàn mới mẻ trong tính cách của bố nó được bộc lộ.

"Mày và Tómas là bạn bè phải không?"

Símon gật đầu.

"Phải không?" hắn nhắc lại, và Símon nói "Vâng."

Bố nó vẫn xoa cái bàn.

"Chúng tao cũng đã từng là bạn."

Sau đó hắn im lặng.

"Người phụ nữ đó," cuối cùng Grímur nói. "Tao đã bị gửi đến đó. Lúc bằng tuổi Tómas bây giờ. Ở đó rất nhiều năm." Hắn lại im lặng.

"Và chồng cô ấy."

Hắn thôi không xoa mặt bàn nữa mà xiết chặt tay lại.

“Thằng chó đẻ ấy. Thằng chó đẻ khốn kiếp ấy."

Símon ch ầm chậm lùi ra sau. Sau đó bố nó dường như đã lấy lại bình tĩnh.

"Ngay cả tao cũng không hiểu chuyện đó," Grímur nói. "Và tao không thể kiểm soát được nó."

Hắn uống hết cà phê, đứng lên, đi vào phòng ngủ và đóng cửa. Trên đường đi, hắn nhấc Tómas từ sàn nhà lên và đưa nó đi cùng mình.

Thời gian trôi đi, Símon cảm thấy có sự thay đổi ở mẹ nó khi nó dần lớn lên, trưởng thành hơn và cảm thấy có trách nhiệm hơn. Chuyện đó xảy ra không nhanh chóng giống như khi Grímur đột ngột lột xác và trở thành một người bình thường; ngược lại, mẹ nó đã thay đổi từ từ và ít một, trong khoảng thời gian nhiều năm. Và nó nhận ra ý nghĩa đằng sau sự thay đổi đó, trong nó dấy lên một cảm giác muốn phủ nhận tất cả. Cảm giác của nó càng ngày càng rõ rệt rằng sự thay đổi của mẹ nó rất nguy hiểm, không thua kém gì so với Grímur, và chắc chắn nó phải có trách nhiệm can thiệp trước khi quá muộn. Mikkelína thì quá yếu còn Tómas thì còn quá nhỏ. Một mình nó cũng cóthể giúp được mẹ.

Símon khó có thể hiểu được sự thay đổi này, càng không hiểu thay đổi như thế có nghĩa là gì, nhưng nó dần dần để ý đến chuyện đó nhiều hơn trong khoảng thời gian Mikkelína phát ra được tiếng nói đầu tiên. Sự tiến bộ của Mikkelína khiến mẹ nó vui m ừn g khôn xiết. Có đôi lúc trông cô d ường như mất hẳn vẻ u uẩn thường ngày, cô cười và ôm tất cả các con vào lòng. Thời gian sau đó cô dạy Mikkelína học cách nói và vui sướng trước những tiến triển thậm chí là nhỏ nhất của con gái.

Nhưng chẳng bao lâu sau, mẹ nó lại trở về thói quen như cũ, như thể là sự u uất trước đây rời bỏ cô bây giờ lại quay trở lại với cường độ mạnh hơn rất nhiều lần. Đôi khi cô ngồi bên giường, nhìn chằm chằm vào khoảng không nhiều giờ liền sau khi đã lau chùi từng hạt bụi trong ngôi nh à nhỏ bé của họ. Cô nhìn trừng trừng không ch ớp, hai mắt lim dim trông thật khổ sở, gương mặt sầu thảm, đầy cô độc. Có lần, sau khi Grímur đấm vào mặt cô xong và lao ra ngoài, Símon thấy mẹ nó cầm con dao thái thịt, lòng bàn tay ng ửa lên và lướt nhẹ lưỡi dao quanh cổ tay. Khi thấy con nhìn mình, cô mỉm cười nhăn nhó và đặt con dao trở lại vào ngăn kéo.

"Mẹ lấy dao ra làm gì thế?" Símon hỏi.

"Mẹ kiểm tra xem nó có sắc không ấy mà. Ông ấy luôn yêu cầu dao phải được mài thật sắc."

"Ở thành phố trông ông ấy khác hẳn," Símon nói. "Ông ấy chẳng cáu giận chút nào."

"Mẹ biết."

"Ở đó ông ta rất vui vẻ, lại còn cười nữa mẹ ạ."

"Ừ."

“Tại sao ở nhà ông ấy lại không như thế nhỉ? Với chúng ta ấy?"

"Mẹ không biết. Ông ấy không thấy thoải mái cũng nên."

"Con ước là ông ta không như thế này. Con ước ông ta chết đi."

Mẹ nó nhìn nó.

"Không được nói thế. Con đừng nói n ăng giống như ông ta. Con không được nghĩ như thế. Con không giống ông ta và sẽ không bao giờ giống hết. Cả con và Tómas. Không bao giờ. Con nghe rõ chưa? Con không được phép. "

Símon nhìn mẹ.

"Mẹ kể về bố của chị Mikkelína cho con nghe đi," nó nói. Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ kể về người đàn ông đó với Mikkelína và nó cố gắng hình dung ra xem mẹ nó sẽ như thế nào nếu ông ấy không chết và để lại mẹ nó một mình. Nó tưởng tượng mình là con của người đàn ông đó, hình dung ra một gia đình mà bố nó không phải là con quái vật, ông ấy là một người bạn, một người thân luôn hết lòng yêu thương con cáicủa mình.

"Ông ấy chết rồi," mẹ nó đáp, giọng đầy tiếc nuối. "Và chỉ thế thôi."

"Nhưng ông ấy khác," Símon nói. "Mẹ sẽ sống khác."

"Nếu như ông ấy không chết ư? Nếu như Mikkelína không bị ốm ư? Nếu mẹ không gặp bố con ư? Nghĩ như thế thì có ích gì cơ chứ?"

“Tại sao ông ấy lại luôn cáu giận như vậy hả mẹ?"

Thằng bé cứ hỏi đi hỏi lại điều này. Đôi khi mẹ nó trả lời, đôi khi mẹ nó chẳng nói câu nào như thể chính cô cũng đã cố tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó trong nhiều năm ròng mà chưa bao giờ giải đáp được. Cô chỉ nhìn chằm chằm vào khoảng không, chìm đắm vào thế giới riêng của mình và tự nói một mình đầy buồn bã và xa vắng, như thể là mình có nói hay làm gì đi chăng nữa cũng chẳng ích gì.

"Mẹ không biết. Mẹ chỉ biết rằng chúng ta không có lỗi gì hết. Đó không phải là lỗi của chú ng ta. Mọi chuyện là tại ông ta cả. Lúc đầu mẹ tự đổ lỗi ình, cố gắng tìm xem mình có làm gì sai trái khiến ông ta tức giận không, và mẹđã cố gắng thay đổi điều đó. Nhưng mẹ không bao giờ hiểu được nguyên nhân đó là gì, và mẹ có làm gì đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì khác cả. Mẹđã không còn tự trách mình nhiều năm rồi và mẹ không muốn con, Tómas hay Mikkelína nghĩ rằng vì mình mà ông ta cư xử như vậy. Ngay cả khi ông ta nguyền rủa hay sỉ nhục các con cũng thế. Đó không phải là lỗi của các con."

Bà nhìn Símon.

"Cái thứ sức m ạnh nhỏ bé mà ông ta có trên đời này là cai trị chúng ta, và ông ta không bao giờ có ý định từ bỏ nó. Không bao giờ."

Símon nhìn vào cái ngăn kéo đựng dao.

"Chúng ta không làm được gì sao mẹ?"

"Không. "

"Mẹ định lấy dao làm gì thế?"

"Mẹ nói với con rồi mà. Mẹ chỉ kiểm tra xem nó sắc đến đâu thôi. Ông ta muốn dao trong nhà phải thật sắc."

Símon tha thứ cho việc mẹ nó nói dối, vì nó biết rằng bà đang cố gắng, như bà vẫn luôn như thế, bảo vệ ông ta, che chở cho ông ta và tìm cách để cho cuộc sống gia đình khủng khiếp của họ ít ảnh hưởng b ởi ông ta nhất.

*

Buổi tối hôm đó, khi Grímur về đến nhà, người ngợm đen thui vì bụi than, tinh thần hắn thoải mái đến kỳ lạ. Hắn kể cho vợ điều gì đó hắn nghe được ở Reykjavík. Grímur ngồi xuống ghế đẩu, bảo vợ mang cà phê cho mình và nói rằng người ta nhắc đến tên cô trong xưởng làm việc của hắn. Hắn không hiểu tại sao, nhưng những người thợ m ỏ nói rằng cô là một trong số những đứa trẻ được sinh ra sau ngày tận thế ở nhà máy sản xuất khí đốt.

Cô xoay lưng về phía Grímur và không nói năng gì. Símon đứng cạnh bàn còn Tómas và Mikkelína đã ra ngoài.

"Ở nhà máy sản xuất khí đốt ư!?"

Sau đó Grímur cười khùng khục. Đôi khi hắn ho ra những cục đờm đen kịt vì bụi than, quanh miệng, mắt và tai, chỗ nào cũng một màu tối thui.

"Trong một cuộc vui điên cuồng ở một cái kho chứa ga khốn kiếp!" hắn quát lên.

"Không phải đâu," cô nhẹ nhàng nói, và Símon rất ng ạc nhiên vì rất ít khi nó thấy mẹ nó phản đối những gì Grímur nói. Nó nhìn mẹ chằm chằm, cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.

"Bọn chúng làm tình và uống say túy lúy suốt đêm vì chúng nghĩ ngày tận thế đã đến, và đó là lý do tại sao mày được sinh ra, đồ đĩ ạ."

"Họ nói dối đấy," cô nói, kiên quyết hơn lúc trước, nhưng vẫn không nhìn lên mà chỉ tập trung vào công việc của mình ở bồn rửa bát. Lưng cô vẫn xoay về phía Grímur, hai bờ vai nhỏ bé nhô lên như thể cô muốn trốn vào giữa chúng.

Grímur thôi không cười nữa.

"Mày gọi tao là thằng nói láo phải không?"

"Không," cô nói, "nhưng chuyện đó không đúng. Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi."

Grímur đứng lên.

"Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi," hắn nhại lại lời cô.

"Em biết thời gian người ta xây cái kho chứa ga mà. Em được sinh ra trước đó."

"Tao lại không nghe thấy thế. Tao nghe nói là mẹ mày là một con điếm còn bố mày là một gã lang thang, bọn chúng đã vứt mày vào thùng rác sau khi đẻ ra mày."

Lúc đó ngăn kéo đang mở, cô nhìn chằm chằm xuống đó và Símon thấy mẹ nó liếc nhìn con dao thái thịt toản. Cô nhìn Símon rồi lại nhìn xuống con dao, và đó là lần đầu tiên nó tin rằng mẹ nó có khả năng sử dụng con dao đó.