Bức Thư Tình Cuối

Chương 6

Những người đàn bà tiếp tục gõ nhẹ. Cô chỉ có thể thấy họ từ cửa sổ phòng ngủ: một người tóc đen, một người tóc hoe đỏ, ngồi bên cửa sổ căn hộ góc tại lầu một. Họ gõ nhẹ vào ô cửa kính khi thấy bất kỳ một người đàn ông nào đi qua, họ vẫy tay và mời chào nếu anh ta dại dột nhìn lên.

Họ đã từng làm Laurence tức điên đầu. Đầu năm đã từng có một vụ liên quan được đem ra xử tại Tòa án Tối cao và quan tòa đã cảnh cáo những người phụ nữ này không được tiếp tục làm thế. Laurence cho rằng việc những người phụ nữ này lôi kéo mồi chài đã làm ảnh hưởng đến cả khu vực. Anh không thể hiểu vì sao chẳng có ai có động thái nào ngăn chặn những người này mặc dù họ ngang nhiên vi phạm pháp luật.

Jennifer thì hoàn toàn không quan tâm tới điều đó. Cô chỉ đơn giản thấy họ giống như những người tù trong lồng kính. Cô thậm chí một lần đã vẫy tay về phía họ, nhưng chỉ nhận được những cặp mắt ngó lơ vô hồn và cô vội vàng thu mình lại.

Ngoại trừ việc đó, còn thì các ngày của cô đều như nhau. Cô dậy sau khi Laurence dậy, pha cà phê cho anh, nướng bánh mì và nhặt báo từ hành lang vào phòng trong khi anh cạo râu và mặc quần áo. Thường thì cô vẫn dậy trước anh, chải tóc gọn gàng và trang điểm nhẹ để khi cô nhẹ nhàng đi lại trong bếp với chiếc áo khoác ngoài trông cô sẽ duyên dáng hơn, đặc biệt khi thỉnh thoảng anh vẫn liếc nhìn cô khi đang đọc báo. Sẽ dễ dàng hơn nhiều khi một ngày mới bắt đầu và biết chắc anh không phải thở dài hay giận dữ.

Anh rời bàn ăn sáng, để cô giúp anh mặc áo choàng, thường là khoảng sau tám giờ, tài xế của anh sẽ kín đáo gõ nhẹ vào cửa trước. Cô vẫy tay tạm biệt anh cho tới khi chiếc xe chạy khuất.

Mười phút sau đó bà Cordoza tới và bà giúp việc già sẽ pha cho họ một ấm trà nóng, đôi khi còn xuýt xoa về thời tiết giá lạnh, rồi cô xem lại một lượt những việc cần làm trong ngày hôm đó mà cô đã cẩn thận ghi ra. Ngoài những việc ngày nào cũng phải làm như hút bụi, lau dọn và rửa chén đĩa, còn có những việc khâu vá lặt vặt như: một chiếc khuy sắp bung khỏi cổ tay áo của ông Laurence hoặc một vài đôi giày cần lau sạch. Bà Cordoza có thể phải dọn tủ chén đĩa cho ngăn nắp, đánh bóng các đồ ăn bằng bạc, ngồi vào bàn ăn đang bừa bộn các loại báo trong khi cô tiếp tục kiểm tra những việc cần làm và nghe đài.

Rồi sau đó Jennifer đi tắm và mặc quần áo chỉnh tề. Có thể cô sẽ lang thang sang quán cà phê bên cạnh nhà cùng Yvonne, đưa mẹ cô ra ngoài thưởng thức một bữa trưa nhẹ, hay vẫy taxi đi vào trung tâm thành phố để sắm sửa cho mùa Giáng sinh sắp tới. Cô phải đảm bảo quay về nhà vào đầu giờ chiều. Thường khi đó cô sẽ có thêm một vài việc giao cho bà Cordoza làm: đi xe buýt vào thành phố mua đồ làm rèm cửa, tìm mua một loại cá đặc biệt mà Laurence rất thích ăn. Đôi khi cô còn hào phóng cho bà giúp việc nghỉ cả buổi chiều – cô muốn có một hoặc hai tiếng một mình tự do trong nhà, cô muốn có thời gian để lục tìm những bức thư.

Trong vòng hai tuần kể từ ngày cô tìm được bức thư thứ nhất, cô đã tìm được thêm hai bức thư nữa. Những bức thư này cũng được gửi tới hòm thư đặt ở bưu điện, nhưng rõ ràng đây là những bức thư dành cho cô. Vẫn nét chữ viết tay đó, vẫn giọng văn đầy cảm xúc và cách viết chân thành như vậy. Những ngôn từ dường như vang vọng từ một nơi sâu thẳm nào đó. Chúng nhắc lại những sự kiện dù cô không thể nhớ ra nhưng âm hưởng vẫn nằm đâu đó trong kí ức, giống như âm vang của một hồi chuông lớn sau khi ngừng đánh.

Các bức thư đều được ký với tên ‘B’. Cô đã đọc đi đọc lại những bức thư cho đến khi từng chữ khắc sâu trong tâm trí.

Gửi người yêu thương nhất,

Đã 4 giờ sáng. Cứ nghĩ đến việc anh ta trở về với em tối nay là anh không thể ngủ được. Ý nghĩ đó có thể làm anh phát điên, nhưng khi tưởng tượng cảnh anh ta nằm xuống cạnh em, anh ta có quyền chạm vào em và ôm em thì anh có thể làm bất kì điều gì để tước đoạt cái quyền đó cho anh.

Em đã rất tức giận khi thấy anh say khướt tại quán rượu Alberto’s. Em gọi anh là kẻ buông thả và có lẽ phản ứng của anh lúc đó là không thể tha thức. Chúng ta đã làm tổn thương chính mình khi buông những lời chửi mắng, có thể những lời nói của anh lúc đó rất ngu ngốc và cay độc, nhưng những lời nói của em còn làm anh đau lòng hơn. Felipe đã mắng anh là một gã khờ khi để em đi, và anh ta đã đúng.

Anh viết cho em những điều này vì anh muốn em biết rằng anh sẽ cố gắng để trở thành người tử tế hơn. Không thể tin có lúc nào đó anh lại viết những câu chữ nghe có vẻ sáo rỗng như vậy. Nhưng đó là sự thật. Chính em đã khiến anh muốn trở thành một con người đẹp đẽ. Anh đã ngồi hàng giờ, chăm chăm nhìn chai whisky trước mặt và rồi năm phút trước anh đã đứng dậy, đổ toàn bộ đống rượu đáng nguyền rủa đó vào bồn rửa. Vì em, anh sẽ là một người tốt hơn. Anh sẽ sống tử tế với hy vọng em sẽ tự hào về anh. Nếu tất cả những gì chúng ta được phép là từng giờ, từng phút, anh muốn khắc ghi từng giây phút đó vào bộ nhớ của anh một cách tinh tế nhất để anh có thể nhớ về chúng mỗi lần tâm hồn anh vẩn đục.

Tình yêu của anh, em có thể chấp nhận anh ta, nếu em buộc phải làm thế, nhưng xin em đừng yêu anh ta. Làm ơn đừng yêu anh ta.

Người đàn ông ích kỷ của em,

B

Nước mắt cô trào dâng khi đọc đến những dòng cuối. Đừng yêu anh ta. Xin em đừng yêu anh ta. Mọi việc dường như trở nên rõ ràng hơn một chút: cái khoảng cách mà cô cảm nhận rất rõ giữa cô và Laurence hoàn toàn không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng. Đó là vì cô đã yêu một người đàn ông khác. Những bức thư nồng nàn say đắm: người đàn ông này trải lòng với cô theo cái cách mà Laurence không bao giờ có thể làm được. Người cô run lên, tim cô đập nhanh khi đọc những dòng thư. Cô thấy những lời lẽ này rất thân quen. Nhưng tất cả chỉ có thể, có những khoảng trống trong trí nhớ mà cô chưa thể lấp đầy.

Đầu cô quay cuồng với rất nhiều câu hỏi. Mối tình của cô với người đó kéo dài bao lâu. Nó xảy ra gần đây không. Cô đã ngủ với họ chưa? Có phải đó là lý do vì sao cô cảm thấy không hề có một chút xúc cảm về thể xác khi ở bên cạnh chồng cô?

Và, điều quan trọng nhất: người đàn ông ấy là ai?

Cô đọc đi đọc lại ba bức thư, cố tìm một manh mối nào đó. Cô không thể nhớ ra bất kỳ một ai cô quen có tên bắt đầu bằng chữ B, trừ Bill và người kế toán của chồng cô tên là Bernard. Cô chưa từng nghi ngờ rằng thật sự là cô chưa bao giờ yêu chồng cả. B có tới thăm cô tại bệnh viện vào những ngày cô chưa tỉnh và thấy mọi người lờ mờ di chuyển xung quanh? Anh có đang theo dõi cuộc sống của cô từ xa không? Anh đang đợi cô sẽ chủ động tìm đến với mình. Chắc chắn đã có một người đàn ông như thế. Chính anh ấy sẽ là chìa khóa giải tỏa tất cả những khó hiểu gần đây.

Ngày qua ngày, cô cố gắng hình dung hình ảnh của mình trước đây: người đàn bà đầy bí hiểm. Jennifer trước đây đã giấu những bức thư bí mật đó ở đâu? Đâu có thể là manh mối giúp cô tìm ra một Jennifer cũ? Hai trong số những bức thư cô tìm được từ chồng sách, bức thư còn lại được để cẩn thận trong một đôi tất dài cuộn tròn. Tất cả đều được giấu tại những nơi chồng cô không bao giờ có thể ngờ tới. Mình đã từng là một người thông minh, cô nghĩ. Rồi, với một chút không thoải mái cô lại nghĩ: mình đã từng là người ăn ở hai lòng.

‘Mẹ, ai đã lái xe chở con vào cái ngày con bị tai nạn?’ Cô hỏi mẹ mình trong một lần ăn trưa với bánh mì kẹp trên tầng cao nhất của tòa nhà John Lewis.

Mẹ cô nhìn xoáy vào cô. Nhà hàng chật cứng người, chất đầy các túi hàng mua sắm và áo khoác dày. Phòng ăn rộn ràng với tiếng cười và tiếng lách cách của bát đĩa.

Bà vội nhìn quanh trước khi quay sang Jennifer, như thể câu hỏi của cô chạm vào những điều quốc cấm. ‘Con yêu, có nhất thiết phải nhắc lại chuyện đó không?’

Jennifer nhấp một ngụm trà. ‘Con biết quá ít về những gì đã xảy ra với mình. Điều ấy có thể giúp con ghép lại phần nào những mảnh ký ức.’

‘Con đã suýt chết. Mẹ thực sự không muốn nghĩ về điều đó.’

‘Mà điều gì đã xảy ra vậy mẹ? Lúc đó con đang lái xe à?’

Mẹ cô có vẻ tập trung vào đĩa thức ăn trước mặt. ‘Mẹ thực sự không nhớ.’

‘Nếu không phải con là người cầm lái thì chuyện gì đã xảy ra với người lái xe? Con bị chấn thương thì chắc hẳn người lái xe cũng bị thương.’

‘Mẹ không biết. Làm sao mẹ biết được? Chẳng phải Laurence luôn quan tâm đến nhân viên của mình sao? Mẹ nghĩ chắc người lái xe cũng không bị nghiêm trọng lắm đâu. Nếu anh ta cần điều trị chắc Laurence sẽ trả toàn bộ chi phí cho việc điều trị đó.’

Jennifer nhớ tới người lái xe đã chở cô từ bệnh viện về nhà: một người đàn ông khoảng lục tuần với dáng vẻ mệt mỏi, đầu hói và ria mép gọn gàng. Ông ta không có vẻ gì là mới bị chấn thương nghiêm trọng – và cũng không có vẻ là người tình của cô.

Mẹ cô để sang một bên phần bánh kẹp đang ăn dở. ‘Vì sao con không hỏi trực tiếp chồng con?

‘Con sẽ hỏi.’ Cô biết là mình sẽ không hỏi. ‘Anh ấy không muốn con cứ chìm đắm vào việc này.’

‘Mẹ nghĩ chồng con hoàn toàn có lý con yêu ạ. Con nên để tâm tới lời khuyên của chồng con.’

‘Mẹ có biết lúc đó con đang đi đâu không?’

Người phụ nữ lớn tuổi có vẻ bối rối, thậm chí hơi chút tức giận trước câu hỏi đột ngột này. ‘Mẹ không biết. Có thể là đi mua sắm. Này nhé, tai nạn xảy ra gần đường Marylebone. Mẹ tin là xe của con đã đâm vào một chiếc xe buýt. Hoặc là chiếc xe buýt đâm vào xe của con. Tất cả thật khủng khiếp, Jenny thân yêu ạ, lúc đó chúng ta đều chỉ mong làm sao con phục hồi được.’ Miệng bà mím chặt lại, và Jennifer hiểu rằng cuộc đối thoại đã đến lúc cần chấm dứt.

Tại một góc của nhà hàng, một người đàn bà trong chiếc áo khoác xanh thẫm đang chăm chú nhìn vào mắt một người đàn ông, người đang dùng một ngón tay vuốt lên mặt bà. Khi Jennifer quay sang lần nữa, cô thấy người đàn bà đưa ngón tay của người đàn ông vào miệng. Cử chỉ thân mật một cách tự nhiên như thế khiến cô cảm thấy như có một luồng điện bất chợt chạy qua người. Không ai trong nhà hàng để ý tới sự có mặt của cặp đôi này.

Bà Verrinder kín đáo lau miệng bằng khăn ăn. ‘Mà con quan tâm tới việc đó làm gì con yêu? Tai nạn xe cộ vẫn xảy ra hàng ngày. Càng nhiều ô tô, càng nguy hiểm. Mẹ không nghĩ có quả nửa số người lưu thông trên đường thực sự biết lái xe. Không phải như bố con. Bây giờ ông đã lái cẩn thận hơn rất nhiều.’

Jennifer có vẻ như không nghe bà nói.

‘Bây giờ con đã ổn rồi chứ? Mọi thứ tốt đẹp hơn rồi phải không?’

‘Con ổn.’ Jennifer trao cho mẹ cô một nụ cười tươi. ‘Con ổn mà.’

Thời gian này, mỗi khi cô và Laurence ra ngoài ăn tối hoặc uống nước, cô thấy mình quan tâm hơn tới bạn bè và người thân quen của anh. Khi một người đàn ông nào đó nhìn cô lâu hơn bình thường, cô thấy khó có thể đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Đó có phải là anh ta? Có điều gì đằng sau sự đón tiếp nồng hậu đó không? Đó có phải là một nụ cười cô từng biết?

Có ba người có khả năng là B, nếu thật sự B chỉ là một biệt hiệu. Đó là Jack Amory, giám đốc công ty chuyên về linh kiện ô tô, chưa lập gia đình, và luôn hôn tay cô một cách công khai mỗi khi gặp mặt. Nhưng mỗi lần làm vậy anh ta lại nháy mắt về phía Laurence và cô không hiểu đó có phải đơn thuần là sự chân thật chất phác hay là một kiểu lừa gạt.

Tiếp đến là Reggie Carpenter, anh họ của Yvonne, người có thói quen nói khoác trên bàn ăn. Tóc sẫm màu với đôi mắt biết cười, anh trẻ hơn so với tưởng tượng của cô về người đàn ông gửi thư cho cô, nhưng anh là một người quyến rũ, hài hước và dường như luôn sẵn sàng tư thế ngồi cạnh cô khi Laurence không ở đó.

Và sau đó là Bill, tất nhiên rồi. Bill, người kể những mẩu chuyện hài hước như thể chỉ để dành riêng cho cô, người thể hiện một cách công khai là luôn ngưỡng mộ cô, ngay cả trước mặt Violet. Rõ ràng anh ta có cảm tình với cô. Nhưng cô có cảm tình như thế với anh không?

Cô bắt đầu chú ý hơn tới bề ngoài của mình. Cô tới tiệm làm tóc thường xuyên hơn, mua quần áo mới, nói cười nhiều hơn, ‘gần giống với cô trước đây hơn’, như lời Yvonne nhận xét. Cô từng ẩn mình sau những người bạn gái trong suốt mấy tuần sau khi tai nạn xảy ra, nhưng giờ đây cô tự tin hơn, cô đưa ra những câu hỏi, đánh đổ một cách lịch sự nhưng rất quả quyết, cố tìm ra khe hở trong những bọc thép có thể cho cô câu trả lời. Thỉnh thoảng, cô đưa một vài manh mối vào chính câu hỏi, ví dụ cô hỏi một ai đó có thích whisky không, rồi chăm chú theo dõi mặt người đàn ông đó với một tia hy vọng nhận ra sự quen thuộc ở đó. Nhưng Laurence không bao giờ ở quá xa cô, và cô ngờ rằng ngay cả khi người nào đó nhận ra những manh mối cô cài vào, họ cũng khó có thể thể hiện cho cô thấy.

Nếu chồng cô nhận thấy một cuộc hội thoại nào đặc biệt quá dài và chi tiết giữa cô và một người đàn ông nào đó, anh sẽ không bình luận. Anh sẽ không bình luận nhiều. Kể từ cái đêm họ tranh cãi với nhau, anh chưa hề thân mật, về mặt thể xác, với cô một lần nào. Anh lịch sự và cách xa. Anh làm việc trễ, thường dậy sớm và ra khỏi nhà trước khi cô tỉnh giấc. Một vài lần cô đi ngang qua phòng ngủ phụ và thấy tấm ga trải giường nhàu nát, cô hiểu lại thêm một đêm nữa anh chọn ngủ riêng, một lời khiển trách trong im lặng. Cô biết mình phải cảm thấy ân hận về điều đó, nhưng càng ngày cô càng muốn có thêm thời gian tự do để thả mình vào thế giới riêng tư, nơi cô có thể lần tìm về mối tình đắm say cuồng nhiệt nào đó, nơi cô nhìn thấy mình qua ánh mắt của một người đàn ông rất tôn thờ cô.

Ở một nơi nào đó, cô tự nói với chính mình, B đang tồn tại. Và đang chờ cô.

*

‘Đây là những tài liệu cần ký, còn trên tủ hồ sơ có vài món quà tôi mới nhận sáng nay. Gồm một chai sâm-panh từ công ty Citroen, một thùng bánh kẹo từ công ty xi măng ở Peterborough và một hộp sô-cô-la từ những nhân viên kế toán của công ty. Tôi biết ông không thích những món này nên tự hỏi ông có muốn tôi phân phát cho mọi người trong công ty không? Tôi biết Elsie Machzynski đặc biệt khoái món kẹo mềm.’

Ông hầu như không ngẩng đầu lên. ‘Tốt thôi.’ Moira nhận thấy đầu óc ông Stirling hoàn toàn chẳng để tâm gì tới mấy món quà Giáng sinh.

‘Tôi hy vọng ông sẽ không lấy làm phiền về việc tôi đã chủ động chuẩn bị một số việc cho bữa tiệc Giáng sinh. Do ông quyết định sẽ tốt hơn nếu tổ chức tiệc Giáng sinh ngay tại công ty chứ không phải tại nhà hàng vì công ty bây giờ đã rộng hơn rất nhiều, vì vậy tôi đã gọi điện yêu cầu mang thức ăn tới cho bữa tiệc buffer.’

‘Tốt. Vào ngày nào vậy?’

‘Tối ngày 23. Sau khi làm việc xong. Hôm đó là vào thứ 6, ngay trước kỳ nghỉ lễ.’

‘Rất tốt.’

Vì sao ông có vẻ lơ đễnh như vậy? Đáng thương như vậy? Việc kinh doanh của công ty chưa bao giờ tốt hơn lúc này. Sản phẩm của họ luôn có nhu cầu cao trên thị trường. Mặc cho việc thắt chặt tín dụng do các báo đã dự đoán, công ty khai khoáng Acme Mineral and Mining vẫn là một trong những công ty có bảng cân đối thu chi tốt nhất cả nước. Không còn những lá thư khiếu nại, chỉ còn một vài lá thư gửi từ tháng trước vẫn còn ở trong ngăn kéo trên cùng mà bà chưa kịp đưa cho ông đọc.

‘Tôi nghĩ có thể ông cũng sẽ quan tâm tới -’

Ông bất chợt nhìn lên khi nghe âm thanh từ ngoài cửa vọng vào. Moira giật mình quay về phía hướng ông đang nhìn. Kìa cô ấy đang tới, cô đi ngang qua văn phòng, mái tóc lượn sóng tinh khiết ẩn dưới chiếc mũ tròn nhỏ màu đỏ, đúng màu đôi giày cô mang. Cô ta tới đây làm gì? Bà Stirling nhìn xung quanh như thể đang tìm kiếm ai đó, ông Stevens bên bộ phận kế toán chạy tới đưa tay ra bắt. Cô bắt tay ông và họ trao đổi vài câu trước khi cô kịp nhìn ngang qua văn phòng về phía ông Stirling và Moira đang đứng. Bà Stirling vẫy tay chào hai người.

Moira bất giác đưa tay lên vuốt tóc. Một vài phụ nữ luôn cố gắng chăm chút vẻ bề ngoài để lúc nào trông họ cũng như thể mới bước ra từ trang bìa tạp chí thời trang, và Jennifer Stirling là một trong những người như vậy. Moira thì không bận tâm lắm về điều đó: Bà luôn thích dành năng lượng tập trung vào công việc và đạt những thành tích lớn lao hơn. Nhưng thật khó mà không có một chút tị nạnh khi thấy người phụ nữ đó bước vào văn phòng, làn da mịn màng của cô tỏa sáng khi mới bước vào từ tiết trời giá lạnh bên ngoài, đôi hoa tai kim cương lấp lánh trên tai. Bà thấy mình giờ đây chẳng khác gì một gói quà Giáng sinh được đóng gói kỹ càng, một loại trang sức rẻ tiền khi đứng cạnh cô.

‘Chào bà Stirling,’ Moira lịch sự nói.

‘Xin chào,’ cô trả lời.

‘Thật là một niềm vui bất ngờ.’ Ông Stirling đứng dậy chào cô, hơi lấy làm ngạc nhiên nhưng có lẽ ông khá hài lòng về sự xuất hiện của cô. Giống như một cậu học trò yêu đơn phương bất chợt được cô bạn gái cùng trường mà cậu ta yêu thầm trộm nhớ tới thăm.

‘Tôi có thể đi không?’ Moira thấy khó xử, khi đứng giữa hai người. ‘Tôi có một vài tài liệu phải -’

‘Ồ không, không cần phải thế. Tôi chỉ ghé qua đây vài phút thôi.’ Cô quay về phía chồng. ‘Em có việc đi ngang qua đây và chợt nghĩ nhân tiện vào hỏi xem tối nay anh có về nhà muộn hay không. Nếu anh về muộn, em có thể chạy qua nhà Harrisons chơi một chút. Họ đang tập tành pha chế các loại rượu.’

‘Anh… Được rồi, em cứ qua đấy đi. Nếu về sớm anh sẽ tới gặp em ở đó luôn.’

‘Thế thì tốt quá,’ cô nói. Người cô phảng phất mùi thơm nước hoa Nina Ricci. Tuần trước Moira cũng đã thử mùi hương này ở trung tâm thương mại D.H.Evans nhưng không mua vì thấy khá mắc. Giờ bà thấy tiếc vì đã không mua nó.

‘Em sẽ cố gắng không về trễ.’

Bà Stirling dường như chưa vội đi ngay. Cô đứng trước mặt chồng nhưng có vẻ quan tâm nhìn quanh văn phòng và nhìn những người đàn ông đang làm việc. Cô chăm chú theo dõi họ với tất cả sự tập trung có thể. Cứ như thể cô chưa từng đến văn phòng này bao giờ vậy.

‘Đã khá lâu rồi em chưa tới đây,’ chồng cô nói.

‘Đúng vậy. Em nghĩ là vậy.’

Một phút im lặng giữa hai người.

‘Ồ, mà người lái xe cho anh tên gì?’

Ông cau mày. ‘Lái xe của anh?’

Cô khẽ nhún vai. ‘Em nghĩ có thể anh muốn em lo quà Giáng sinh cho nhân viên của anh.’

Ông có vẻ bối rối. ‘Quà Giáng sinh? Eric là nhân viên ở bên cạnh anh lâu năm nhất. Anh sẽ mua cho anh ta một chai rượu brandy. Anh đã làm việc này trong suốt 20 năm rồi. Thỉnh thoảng Simon thay thế Eric, nhưng anh ta không uống rượu nên anh sẽ trả thêm cho anh ta một chút trong tiền lương cuối năm. Anh nghĩ em không cần mất thời gian bận tâm về chuyện này.’

Bà Stirling có vẻ thất vọng ra mặt. ‘Nếu vậy, hãy để em giúp anh. Em sẽ đi mua rượu,’ cô nói dứt khoát, giữ chặt chiếc túi đeo vai trước ngực.

‘Em quả thật… chu đáo quá,’ ông nói.

Cô liếc quanh văn phòng một lần nữa rồi quay lại phía ông. ‘Mà thôi, em nghĩ chắc anh đang bận lắm. Em chỉ định tạt qua đây một chút. Rất vui khi được gặp anh… và…’ Cô ngập ngừng.

Moira thấy tự ái khi vô tình bị cô gạt qua một bên. Họ đã gặp nhau bao nhiêu lần trong năm năm qua? Và cô thậm chí không lấy làm phiền lòng khi không thể nhớ được tên bà.

‘Moira,’ ông Stirling nhắc cô khi thấy sự im lặng giữa hai người bắt đầu trở nên không thoải mái.

‘Ồ, bà Moira. Tất nhiên rồi. Rất vui được gặp lại bà.’

‘Tôi sẽ quay lại ngay.’ Ông Stirling nói vọng lại khi tiễn vợ ra ngoài cửa. Moira dõi theo hai người khi họ trao đổi thêm một vài chuyện nữa, cô vẫy tay tạm biệt chồng và khuất sau cánh cửa.

Người thư ký hít một hơi thật sâu, cố không để ý tới họ nữa. Ông Stirling đứng bất động một lúc khi vợ ông rời khỏi tòa nhà.

Hầu như không nhận thức mình đang làm gì, Moira bước vội ra khỏi phòng ông và đi nhanh về phía bàn làm việc của mình. Bà lấy chìa khóa từ trong ví và mở ngăn kéo bàn, lục đống tài liệu chất đầu trong đó cho tới khi tìm thấy vật cần tìm. Bà trở lại phòng ông Stirling trước khi ông quay trở lại.

Ông đóng cửa phòng, liếc nhìn lần nữa qua bức tường kính của căn phòng như thể hy vọng vợ ông sẽ quay lại. Dường như ông dịu lòng và thoải mái hơn. ‘Vậy là,’ vừa nói ông vừa ngồi xuống. ‘bà vừa nhắc tới bữa tiệc Giáng sinh cho công ty. Bà đã chuẩn bị một vài thứ rồi.’ Một nụ cười thoáng qua trên môi ông.

Ngực bà thắt lại đến khó thở. ‘Thật ra, thưa ông Stirling, đây là chuyện khác.’

Ông vừa rút ra một tài liệu và chuẩn bị ký. ‘Được rồi. Cái gì vậy?’

‘Cái này tôi nhận được cách đây hai hôm.’ Bà đưa ông một phong bì được viết tay bên ngoài. ‘Tại hòm thư bưu điện ông chỉ cho tôi.’ Thấy ông không nói gì, bà thêm, ‘Tôi đã luôn kiểm tra hòm thư đó như ông yêu cầu.’

Ông nhìn chằm chằm vào chiếc phong bì, rồi ngẩng lên nhìn bà, sắc mặt ông thay đổi nhanh đến mức bà nghĩ ông sắp bất tỉnh đến nơi. ‘Bà có chắc là đúng hòm thư đó? Điều này không thể xảy ra.’

‘Nhưng -’

‘Chắc hẳn bà lấy nhầm từ một hòm thư khác.’

‘Chắc chắn là tôi không nhầm. Hòm thư số mười ba. Tôi dùng tên bà Stirling, như ông… gợi ý.’

Ông mở phong bì, rồi khom người trên bàn khi đọc lướt qua bức thư. Bà đứng đối diện ông, không muốn tỏ ra là một người tò mò, và bà nhận ra không khí trong phòng đã trở nên nặng nề từ lúc nào. Điều bà lo sợ đã xảy ra.

Khi nhìn lên, ông dường như đã già đi chục tuổi.

Ông hắng giọng, tay vò nát bức thư và ném mạnh vào thùng đựng giấy lộn dưới bàn. Trông ông thật dữ tợn. ‘Coi như bức thư này bị thất lạc. Không ai được biết về điều này. Bà hiểu chứ?’

Bà lùi lại một bước. ‘Vâng, thưa ông Stirling. Tất nhiên rồi.’

‘Giờ bà hãy ra bưu điện và yêu cầu đóng hòm thư này lại.’

‘Bây giờ ư? Tôi còn phải hoàn thành nốt mấy giấy tờ kiểm toán để gửi cho -’

‘Bà cần làm trong chiều nay. Làm bất kỳ cái gì bà thấy cần thiết. Để đóng hòm thư đó lại. Bà hiểu chứ?’

‘Vâng, thưa ông Stirling.’ Bà kẹp đống tài liệu trong tay và bước ra khỏi phòng ông. Bà lấy vội túi xách và áo khoác, sẵn sàng đi thẳng đến bưu điện.

Jennifer muốn về nhà. Cô cảm thấy mệt, chuyến thăm của cô tới văn phòng chẳng đem lại kết quả gì mà trời lại bắt đầu mưa khiến các khách bộ hành đi như chạy trên vỉa hè, cổ áo dựng đứng và đầu cúi gằm xuống đường. Nhưng sau khi từ chỗ làm việc của chồng trở ra, cô biết mình không thể quay về ngôi nhà trống vắng đó lúc này.

Cô bước xuống vỉa hè và vẫy một chiếc taxi cho tới khi cô thấy ánh màu vàng của chiếc taxi đang lao về phía cô. Cô bước vào xe, gạt những giọt mưa từ chiếc áo khoác đỏ. ‘Anh có biết nơi nào tên là Alberto không?’ Cô hỏi trong khi người lái xe ngả người ra sau về phía khung cửa sổ chắn giữa hai người.

‘Nó nằm ở phía nào của London?’ Anh ta hỏi lại.

‘Xin lỗi, tôi không biết. Tôi cứ nghĩ là anh biết.’

Người lái xe cau mày. ‘Có một câu lạc bộ tên là Alberto’s ở Mayfair. Tôi có thể đưa bà đến đó, nhưng tôi không biết giờ này nó đã mở cửa chưa.’

‘Không sao,’ cô nói và ngả lưng vào ghế.

Chỉ mất 15 phút để tới đó. Chiếc xe dừng lại và người lái xe chỉ tay về phía đối diện bên kia đường. ‘Đó là nơi mang tên Alberto duy nhất mà tôi biết,’ anh ta nói. ‘Tôi không chắc đó có phải là nơi bà đang tìm hay không.’

Cô lấy tay xoa tấm kính trên xe và xăm xoi nhìn sang bên kia đường. Một tấm rào chắn bằng kim loại xung quanh lối xuống hầm, những bậc thang đi xuống bị che khuất. Một tấm biển cũ kỹ đề tên quán, hai bên cửa là hai chậu cây thủy tùng bụi bặm.

‘Quán đó ư?’

‘Có phải đó là nơi bà cần tìm?’

Cô cố nở một nụ cười. ‘Ồ, tôi sẽ sớm biết ngay thôi.’

Cô trả tiền và một mình đứng đó, trong làn mưa mỏng manh, trên vỉa hè. Cảnh cửa dẫn vào quán khép hờ, được chặn lại bởi một thùng đựng rác. Vừa bước vào, cô bị tấn công bởi đủ thứ mùi từ mùi rượu, mùi khói thuốc ám lâu ngày, mùi mồ hôi và cả nước hoa. Cô chỉnh mắt cho quen dần với ánh sáng mờ ảo trong quán. Bên trái cô phòng giữa đồ trống không và không có ai, trên quầy để một chai bia và một chùm chìa khóa. Cô đi dọc theo dãy hành lang hẹp dẫn tới một cánh cửa đôi và khi cô đẩy cửa vào, một căn phòng rộng thênh thang hiện ra, ghế được xếp trên những chiếc bàn tròn trước một sân khấu nhỏ. Len lỏi quanh những chiếc bàn đó là một người phụ nữ đứng tuổi đang hút bụi, thỉnh thoảng lầm bầm có vẻ không hài lòng ra mặt. Một quầy rượu chạy dọc theo bức tường. Đằng sau đó là một phụ nữ đang hút thuốc và nói chuyện với một người đàn ông đang xếp các chai rượu lên dãy kệ bóng loáng. ‘Hượm đã,’ người phụ nữ nói khi bất chợt thấy cô. ‘Ta có thể giúp gì cô em?’

Jennifer cảm thấy cái nhìn soi mói của người phụ nữ về phía cô. Một cái nhìn không lấy gì làm thân thiện. ‘Quán đã mở cửa chưa ạ?’

‘Chúng tôi có vẻ là đang mở cửa ư?’

Cô ôm chặt chiếc túi trước ngực, bỗng nhiên thấy bồn chồn. ‘Xin lỗi. Tôi sẽ tới một dịp khác vậy.’

‘Cô đang tìm ai vậy, tiểu thư?’ Người đàn ông lúc nãy mới lên tiếng. Anh ta có mái tóc sẫm màu, óng mượt, làn da xanh xao phù nề, loại da của những người uống quá nhiều rượu và ít được hưởng thụ khí trời tự nhiên bên ngoài.

Cô chăm chú nhìn anh, cố tìm hiểu xem có thấy điều gì quen thuộc không. ‘Trước đây đã bao giờ… đã bao giờ anh thấy tôi ở đây chưa?’ Cô hỏi.

Anh nhìn cô một cách thích thú. ‘Chưa nếu cô nói tôi chưa từng bao giờ.’

Người phụ nữ ngẩng đầu lên. ‘Chúng tôi có trí nhớ rất tồi về những khuôn mặt xuất hiện ở đây.’

Jennifer bước thêm vài bước về phía quầy rượu. ‘Anh chị có biết ai tên là Felipe không?’

‘Cô là ai?’ Người phụ nữ hỏi.

‘Tôi – điều ấy không quan trọng.’

‘Vì sao cô muốn tìm hiểu về Felipe?’

Khuôn mặt hai người bỗng lạnh tanh. ‘Chúng tôi có một người bạn chung,’ cô giải thích.

‘Vậy thì bạn cô chắc hẳn phải kể với cô rằng rất khó có thể liên lạc với Felipe.’

Cô bặm môi, tự hỏi làm sao có thể giải thích cho hợp lý. ‘Đó không phải là người bạn mà tôi thường xuyên liên lạc -’

‘Anh ta đã chết rồi, cô gái ạ.’

‘Gì cơ?’

‘Felipe. Anh ta đã chết. Cái quán này bây giờ đã chuyển giao cho người khác. Chúng tôi có một loạt giấy tờ ở đây nói rằng anh ta mắc nợ người này người kia và chắc tôi nên nói luôn để cô biết là cô không thể moi được gì từ chúng tôi đâu.’

‘Tôi đến đây không phải -’

‘Trừ khi cô cho chúng tôi thấy giấy ghi nợ của Felipe với chữ ký của anh ta.’ Người phụ nữ lúc này mới chăm chú nhìn quần áo, đồ trang sức của Jennifer và cười tự mãn, như thể cô ta đã biết vì sao Jennifer tới đây. ‘Gia đình anh ta chiếm giữ toàn bộ bất động sản của anh ta. Và những gì còn lại. Bao gồm cả người vợ,’ cô ta nói một cách khinh miệt.

‘Tôi không có gì liên quan tới cá nhân Felipe. Rất tiếc về những mất mát của anh chị.’ Jennifer lịch sự nói. Rồi rất nhanh cô bước ra khỏi quán và leo lên bậc thang bước ra ngoài trời với màu xám đục.

Moira lục đống hộp đựng đồ trang trí cho đến khi thấy thứ bà đang tìm, sau đó bà phân loại và bắt đầu sắp xếp. Bà gài hai sợi dây kim tuyến mỗi bên cánh cửa. Bà mất gần nửa tiếng đồng hồ để gỡ chuỗi giấy trang trí đã bị bung rời từ năm trước, rồi sau đó dán chúng thành vòng hoa trên mỗi chiếc bàn làm việc. Dây được giăng ngang trên tường và ở trên đó bà treo tất cả thiếp chúc mừng do các đối tác gửi. Trên các bóng đèn bà trang trí những sợi dây bằng thiếc óng ánh mờ ảo và bà cẩn thận xếp chúng không quá gần các bóng đèn đề phòng hỏa hoạn.

Bên ngoài trời đã dần tối, con đường chạy dài dưới ánh sáng trắng bạc. Nhân viên văn phòng công ty Acme Mineral và Mining tại London lần lượt ra về, theo đúng thứ tự bao năm họ đã làm ở đây. Đầu tiên là Phyllis và Elsie, hai nhân viên đánh máy, những người luôn rời văn phòng đúng năm giờ, dù bề ngoài họ chả có vẻ gì chăm chăm đếm thời gian để về đúng giờ. Sau đó đến David Moreton phòng Kế toán và theo sau là Stevens, người thường tạt ngang quán rượu góc đường đối diện làm vài ly whisky trước khi về nhà. Những người khác về theo từng nhóm nhỏ, quấn mình trong chiếc áo khoác dầy và khăn quàng của họ trên giá để ở góc văn phòng, một vài người còn vẫy tay tạm biệt bà khi đi ngang qua phòng của ông Stirling. Felicity Harewood, người chịu trách nhiệm về bảng lương của nhân viên, sống cách nhà của Moira chỉ một bến xe buýt nhưng chưa bao giờ buồn gợi ý đi chung chuyến xe buýt cùng bà. Khi Felicity mới vào công ty vào tháng năm, Moira đã nghĩ sẽ thật thú vị nếu có ai đó cùng đi chung đường về với mình để bà có thể trò chuyện, người bà có thể trao đổi công thức làm các loại món ăn hay chỉ đơn giản là tán gẫu về những việc xảy ra trong ngày trên chuyến xe 274 đầy mùi ẩm mốc. Nhưng Felicity rời văn phòng mà chưa lần nào nhìn về phía chỗ ngồi của bà. Có một lần bà và cô ta tình cờ đi chung trên một chuyến xe, cô dán chặt mắt vào cuốn tiểu thuyết trong suốt cả chuyến đi dù Moira gần như tin chắc rằng cô ta biết mình chỉ ngồi cách bà hai dãy ghế.

Ông Stirling về lúc 7 giờ kém 15. Cả buổi chiều ông đứng ngồi không yên và tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Ông gọi điện cho giám đốc nhà máy mắng mỏ về tỷ lệ nghỉ ốm cao, ông hủy cuộc họp lúc 4 giờ chiều. Ông liếc nhìn bà khi thấy bà trở về từ bưu điện như muốn chắc chắn là bà đã làm cái việc ông yêu cầu, rồi quay trở về với công việc của mình.

Moira kéo hai cái bàn để không sang phòng cạnh phòng kế toán. Bà trải khăn trải bàn chuyên dùng cho các dịp lễ và đính xung quanh cạnh bàn các dãy trang trí. Mười ngày nữa đây sẽ là khu vực ăn buffet, còn trong khoảng thời gian từ đây đến đó, chiếc bàn này có thể tận dụng để làm nơi để quà cho các đối tác gửi tới và hòm thư Giáng sinh mà các nhân viên có thể để những thiệp chúc mừng họ muốn gửi cho đồng nghiệp.

Khoảng gần 8 giờ tối mọi việc cũng xong. Moira kiểm tra lại lần nữa khu văn phòng trống vắng, bà thực sự đã khiến toàn bộ không gian ở đây thật lóng lánh và ấm áp không khí lễ hội. Bà vuốt lại váy, hài lòng mường tượng vẻ ngạc nhiên thích thú của các nhân viên trong công ty khi họ bước qua cửa vào sáng mai.

Moira không được trả thêm tiền để làm những việc này, nhưng bà hiểu chỉ cần bà cố gắng thêm chút xíu, chăm chút thêm chút xíu mọi việc sẽ khác. Những thư ký khác trong công ty thường nghĩ công việc của một trợ lý riêng chỉ đơn giản là đánh máy các công văn giấy tờ và sắp xếp tài liệu cho gọn gàng. Thực ra vai trò của một trợ lý còn nhiều hơn thế. Họ không những phải làm sao để mọi việc trong văn phòng luôn vận hành trơn tru mà còn để nhân viên trong công ty luôn cảm thấy như mình là một phần… của mái nhà chung. Một hòm thư Giáng sinh và một không gian trang trí ấm áp chính là sợi dây kết nối công ty và là nơi mọi người mong muốn được quay trở lại.

Cây thông Giáng sinh nhỏ mà bà dựng lên ở góc phòng giờ trông đã đẹp hơn rất nhiều. Để cây thông này ở nhà bà đúng là chẳng để làm gì vì chỉ có bà ngắm nó. Để nó ở đây sẽ có rất nhiều người được cùng thưởng thức. Và nếu ai đó tình cờ khen thiên thần vô cùng xinh xắn trên đỉnh cây thông, hoặc những quả cầu trang trí bằng pha lê nhỏ xinh, bà có thể bảo họ rằng đó từng là sở thích của mẹ bà.

Moira khoác áo choàng lên người. Bà lấy túi, quàng khăn, cẩn thận để chiếc bút máy và bút chì gọn gàng trên bàn sẵn sàng cho buổi làm việc sáng mai. Bà bước vào phòng ông Stirling, chìa khóa sẵn trên tay chuẩn bị khóa cửa. Rồi, vội liếc ra phía ngoài cửa, bà nhẹ bước vào phòng ông và tìm dưới bàn làm việc của ông thùng đựng giấy lộn.

Bà chỉ mất một giây để tìm ra bức thư viết tay đó. Bà hơi lưỡng lự trước khi nhặt nhó lên, và sau khi nhìn lại lần nữa qua bức tường kính để đảm bảo chỉ có duy nhất bà trong văn phòng, bà để bức thư trên bàn vuốt thẳng những nếp nhăn và bắt đầu đọc.

Bà đứng bất động một lúc rất lâu.

Rồi bà đọc lại lần nữa.

Tiếng chuông đồng hồ bên ngoài điểm 8 giờ. Giật mình bởi tiếng chuông, Moira vội rời phòng ông Stirling, để sọt giấy lộn ra ngoài cửa phòng để sáng hôm sau nhân viên lau dọn đến lấy rác và bà khóa cửa. Bà để bức thư vào dưới đáy ngăn kéo làm việc của mình, khóa lại và cho chìa khóa vào túi xách.

Lần đầu tiên trong đời, chiếc xe buýt đưa bà tới Streatham dường như không hề chạy. Moira Parker có quá nhiều thứ để suy nghĩ.

Anh rất cảm kích trước những lời em nói. Nhưng anh hy vọng khi đọc bức thư này em sẽ hiểu được sự hối lỗi ân hận về việc anh đã đối xử với em và cả về con đường mà anh đã lựa chọn. Mối quan hệ của anh với âm luôn bị mọi người xét nét. Anh ước gì anh không phải mất tới ba năm mới phát hiện ra cái tưởng là một mối tình lãng mạn cuối cùng lại kết thúc thế này.

Thư một người đàn ông gửi một người đàn bà.