Họ gặp nhau hàng ngày tại những quán cà phê ngoài trời ngập nắng hay đi lên những ngọn đồi dốc đứng trên chiếc xe Daimler của cô để ăn tại những nơi đảm bảo không bị ai để ý tới. Cô kể anh nghe về thời niên thiếu của mình tại Hamsphire và Eaton Place, về những chú ngựa con, về trường nội trú, về thế giới nhỏ bé yêu thương mà cô đã gắn bó suốt quãng đời tuổi trẻ cho tới khi lấy chồng. Cô kể anh nghe làm thế nào mà, ngay cả ở tuổi 12, cô đã cảm thấy đau ở khuỷu chân và đã biết cô sẽ cần một túp lều lớn hơn, vì sao mà cô chưa bao giờ hoài nghi rằng ở Riviera có thể có một giới xã hội nghiêm ngặt và khắt khe như cái xã hội cô đã bỏ lại đằng sau.
Cô kể về cậu bé trong làng cô thầm yêu trộm nhớ khi 15 tuổi và khi bố cô phát hiện ra mối quan hệ này ông đã nhốt cô vào nhà kho sau nhà và đánh cô rất đau bằng dây đeo quần.
‘Về tội cô đã trót yêu ư?’ Cô kể rất nhỏ và anh cố gắng che giấu mình quan tâm tới điều đó như thế nào.
‘Vì đã yêu một cậu bé không thuộc mẫu người mà ông thích. Tôi nghĩ tôi đã khiến mọi người trong gia đình khó chịu. Họ bảo tôi đã mang tai tiếng tới cho cả gia đình. Họ bảo tôi không có chút ý thức nào về đạo đức và nếu tôi không để ý giữ gìn tư cách thì không người đàn ông tử tế nào muốn cưới tôi hết.’ Cô phá lên cười, nhưng không hề có ý giỡn đùa. ‘Tất nhiên, việc bố tôi có nhân tình suốt mấy năm trời lại là một việc khác.’
‘Và sau đó là Laurence xuất hiện.’
‘Đúng vậy. Chẳng phải là tôi rất may mắn sao?’ Cô mỉm cười với anh một cách mỉa mai.
Anh trò chuyện với cô giống cái cách mọi người kể những bí mật cuộc đời cho bạn đi cùng toa trên một chuyến tàu: sự thân tình dựa trên sự thấu hiểu không cần nói ra lời rằng có thể họ sẽ không gặp nhau lần nữa. Anh kể về thời gian ba năm làm phóng viên thời sự chuyên về Trung Phi của tờ Nation, anh đã vui như thế nào trước cơ hội được đi đâu đó để giải thoát khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc của mình, mà đã không chuẩn bị tinh thần cần thiết để đương đầu với những sự tàn bạo anh được chứng kiến ở nơi này: nước Congo trên con đường tiến tới sự độc lập đã gây ra cái chết của hàng ngàn người. Hàng đêm anh tiêu phí thời gian tại Câu lạc bộ Leopoldsville dành riêng cho các phóng viên nước ngoài, chìm đắm trong rượu whisky, hay tệ hơn là với rượu làm từ lá cọ, cho tới khi những nỗi kinh hoàng mà anh chứng kiến và cơn sốt vàng da đánh anh gục hẳn. ‘Tôi suy sụp tinh thần,’ anh nói nhỏ, cố gắng nói theo cách cô lúc nãy, ‘mặc dù không ai dám nói ra điều đó, tất nhiên. Họ đổ tại tôi bị bệnh sốt vàng da và giục tôi quay về.’
‘Tội nghiệp Boot.’
‘Đúng vậy. Tôi lúc đó thật tội nghiệp. Đặc biệt là nó lại cho người vợ đã ly dị của tôi thêm lý do chính đáng nữa để không cho tôi gặp con trai mình.’
‘Và tôi thì lại đang nghĩ rằng chắc tại có vấn đề không thủy chung đây.’ Cô đặt tay lên vai anh. ‘Xin lỗi anh. Tôi chỉ đùa thôi. Tôi không có ý định nói lại chuyện này.’
‘Tôi làm cô chán rồi đúng không?’
‘Ngược lại. Ít khi tôi ngồi với người đàn ông nào thực sự muốn nói chuyện với tôi.’
Anh đã không uống khi ngồi bên cô và anh không còn cảm giác thèm bia rượu nữa. Bản thân cô chính là một thách thức mà anh vì nó đã quên rượu và thêm nữa, anh thích là chính mình khi ở cạnh cô. Anh đã nói rất ít trong thời gian gần đây khi ở Châu Phi do lo sợ có thể lộ những bí mật, lộ những điểm yếu trong anh, nên giờ đây anh thấy rất muốn nói. Anh thích cách cô nhìn anh khi anh nói, như thể cho dù anh nói ra điều gì cũng sẽ không làm thay đổi suy nghĩ của cô về anh, như thể những điều anh tâm sự với cô chắc chắn sau này sẽ không được dùng để chống lại anh.
‘Điều gì xảy ra với những phóng viên chiến trường trước anh, khi họ thấy mệt mỏi với quá nhiều phiền phức như thế?’ Cô hỏi.
‘Họ lui về ngồi tại góc phòng tối tăm của tòa soạn và làm người khác phát ngán với những câu chuyện kể về thời huy hoàng của họ,’ anh nói. ‘Hoặc nếu không thì họ ở lại chiến trường cho đến khi bị bắn chết.’
‘Thế anh thuộc loại nào?’
‘Tôi không biết.’ Anh nhướn mày nhìn cô. ‘Tôi chưa cảm thấy mệt mỏi với công việc.’
Anh nhanh chóng chìm đắm trong cuộc sống bình lặng êm đềm tại Riviera: những bữa trưa kéo dài, những khoảng thời gian dạo chơi ngoài phố, những cuộc tán gẫu tưởng chừng chẳng bao giờ chấm dứt với những người anh chỉ quen sơ sơ. Anh đang dần quen với những cuộc dạo bộ dài vào sáng sớm, tận hưởng gió biển, những lời chào thân thiện của người qua đường thân thiện. Anh thấy vô cùng thoải mái, cái cảm giác bao năm trời anh không có. Anh gạt qua một bên bức điện tín mới nhận từ Don, dọa anh sẽ phải chịu hậu quả nghiêm trọng nếu không sớm tìm được thông tin gì hữu ích để gửi về.
‘Anh không thích bài viết tôi mới gửi sao?’ anh hỏi Don.
‘Bài đó tốt rồi, nó đã được in trên mục doanh nghiệp thứ ba vừa rồi và bộ phận Kế toán muốn biết vì sao anh vẫn phải ở lại thêm 4 ngày để làm gì trong khi anh đã viết xong bài rồi.’
Cô đưa anh tới Monte Carlo, lượn ô tô vòng theo những cung đường chóng mặt của con đường ven núi. Anh nhìn đôi bàn tay tuy mảnh khảnh nhưng vững chắc của cô đặt trên vô lăng và tưởng tượng sẽ như thế nào nếu từng ngón tay đó ở trên môi anh. Anh được cô đưa tới một sòng bài và cảm thấy như mình là thượng đế khi chỉ với vài đồng bảng trong tay anh bỗng chốc thắng lớn với ván bài Ruler. Cô gọi món trai biển tại một quán cà phê ven biển, gỡ chúng ra khỏi vỏ một cách mê mẩn và không ngừng nghỉ, còn anh ngồi đó và không thể cất lời. Cô hút hồn anh, khiến anh không còn có khả năng suy nghĩ một điều gì cho tử tế, không những anh không thể suy nghĩ mà anh cũng không còn quan tâm đến điều gì nữa. Vào những khoảnh khắc khi chỉ còn lại một mình, anh suy nghĩ vẩn vơ về hàng triệu khả năng có thể xảy ra và anh ngạc nhiên khi nhận ra đã một thời gian rất dài anh chưa bị một người phụ nữ nào hút hồn như thế. Đơn giản vì cô thật đặc biệt và không bao giờ có thể là của anh.
Lẽ ra anh đã thôi không nghĩ về cô từ cách đây vài ngày. Nhưng trái tim anh lại lần nữa đập rộn ràng khi một lá thư tay được đút qua khe cửa phòng anh mời anh đi uống nước cùng cô tại Piazza, hay nếu không cùng nhau đi thăm thú Menton.
Điều này đâu có gì làm tổn hại đến anh đâu? Anh mới 30 tuổi và không thể nhớ lần cuối cùng anh thực sự cười đùa thư giãn như thế là từ bao giờ. Vì sao anh không tận hưởng những cuộc rong chơi vui vẻ mà những người khác coi là hiển nhiên. Những thói quen này từ lâu đã không còn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của anh khiến anh thấy mình như đang trong một giấc mơ.
Một buổi chiều ngày thứ Sáu, anh nhận được một bức điện tín nói rằng ở nhà đang mong chờ anh đã nhiều ngày: chuyến tàu về nhà của anh đã được đặt vào ngày mai và anh cần có mặt tài tòa soạn báo Nation vào sáng thứ Hai. Anh cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm khi đọc bức điện tín này: những gì xảy ra giữa anh và Jennifer Stirling đang đi sai hướng một cách kỳ lạ. Chưa bao giờ anh dành nhiều thời gian và tâm sức như thế cho một người phụ nữ mà anh không hề biết trước mối quan hệ đó sẽ đi tới đâu. Cái ý nghĩ rồi anh sẽ không được gặp lại cô nữa làm anh buồn bã, nhưng một phần trong anh vẫn muốn quay trở lại cuộc sống cũ với những thói quen hàng ngày và khai phá lại con người trong anh. Anh lấy cái val li từ trên giá xuống và để trên giường. Anh sẽ sắp xếp đồ đạc, gửi cho Jennifer một vài dòng ngắn gọn để cảm ơn cô về quãng thời gian vừa qua và bất kỳ lúc nào cô muốn đi ăn trưa với anh tại London, cô có thể gọi điện. Có lẽ nếu cô muốn gặp anh tại một nơi xa xôi nào đó, một nơi khác hẳn cuộc sống thiên đường nơi đây, cô rồi sẽ giống tất cả những người khác: một trò tiêu khiển thú vị.
Đúng lúc anh vừa xếp giầy vào va li thì chuông điện thoại phòng anh vang lên: quầy Tiếp tân báo có một quý bà đang đợi anh ở dưới sảnh.
‘Tóc vàng?’
‘Vâng, thưa ông.’
‘Làm phiền anh cho tôi nói chuyện với bà ấy.’
Anh thoáng nghe thấy một âm sắc tiếng Pháp, rồi tiếng của cô, ngập ngừng nhẹ như hơi thở. ‘Là Jennifer đây. Tôi tự hỏi… liệu chúng ta có thể đi ra ngoài dạo chơi một chút không.’
‘Rất hân hạnh, nhưng tôi đang dở một vài việc. Cô có muốn lên đây ngồi chờ tôi một chút không?’
Anh vội vàng dọn phòng, đá khay đựng đồ vào gầm giường. Anh soạn lại đống giấy tờ bên cạnh máy chữ như thể anh đang bận rộn làm việc hàng tiếng rồi. Anh với tay lấy một chiếc sơ mi sạch nhưng chưa kịp khoác lên người thì nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ. ‘Thật là một sự ngạc nhiên thú vị,’ anh nói. ‘Tôi mới xong việc, mời cô vào.’
Cô lưỡng lự đứng ngoài hành lang. Bắt gặp anh với bộ ngực trần, cô quay mặt đi. ‘Anh có muốn tôi xuống dưới đợi không?’
‘Ồ, không. Làm ơn đợi tôi vài phút thôi.’
Cô bước vào và đi về phía giữa phòng. Cô mặc một chiếc đầm không tay màu vàng nhạt với chiếc cổ tàu. Đôi vai cô ửng hồng sau nhiều giờ lái xe dưới nắng. Mái tóc xõa ngang vai hơi rối, như thể cô vừa lái xe khá nhanh tới đây.
Mắt cô dừng lại trên giường, bừa bộn với rất nhiều giấy tờ tài liệu và một cái va li đang xếp dang dở. Cả hai rơi vào im lặng. Cô lên tiếng đầu tiên. ‘Anh không định mời tôi uống gì à?’
‘Ồ, xin lỗi. Tôi thật vô tâm.’ Anh gọi cho khách sạn mang lên một chai gin và tonic. ‘Chúng ta sẽ đi đâu đây?’
‘Đi đâu ư?’
‘Tôi có thời gian cạo râu không?’ Vừa nói anh vừa đi về phía phòng tắm.
‘Tất nhiên. Anh cứ thoải mái.’
Anh đã cố tình làm thế, để tạo ra một sự thân mật giữa hai người. Anh nhìn đã khá khẩm hơn rất nhiều: vẻ xanh xao nhợt nhạt đã không còn trên khuôn mặt anh, vết hằn nơi khóe mắt cũng đã được tẩy sạch. Anh vặn vòi nước nóng và ngắm cô qua tấm gương trong phòng tắm khi thoa xà bông lên cằm.
Cô có vẻ lơ đễnh và không để tâm. Khi dao cạo râu gần như xém cắt vào da, anh để ý đến thái độ của cô, bồn chồn và có vẻ hơi sốt ruột. ‘Cô có ổn không?’ Anh gọi với ra ngoài, từ từ rửa dao dưới vòi nước.
‘Tôi ổn.’ Cô đã uống gần hết nửa chai rượu và đang tiếp tục rót thêm vào cốc.
Anh đã cạo râu xong, lau khô mặt, xịt một ít dầu thơm sau khi cạo râu mà anh vừa mua từ cửa hàng dược phẩm. Mùi hương nồng nàn với tinh dầu cam vào hương thảo. Anh mặc áo và bẻ cổ áo cho thẳng. Anh yêu thích giây phút này, thời khắc của sự ham muốn và khả năng có thể đạt được ham muốn đó. Anh cảm thấy hoan hỉ một cách kì lạ. Anh bước ra khỏi phòng tắm và thấy cô đã ra ngoài ban công đứng. Trời đang dần tối, ánh sáng từ bờ biển tỏa sáng lấp lánh khi hoàng hôn buông xuống. Một tay cầm ly rượu, tay kia cô vòng nhẹ qua eo. Anh bước lại phía cô.
‘Tôi chưa quên nói hôm nay cô trông thật tuyệt vời.’ Anh cất tiếng. ‘Tôi thích sắc áo tỏa ra ở cô. Đó là -’
‘Ngày mai Larry về rồi.’
Cô rời ban công và quay mặt về phía anh. ‘Tôi nhận được tin lúc chiều nay. Chúng tôi sẽ bay trở lại London vào ngày thứ Ba.’
‘Thế hả,’ anh nói. Một vài sợi tóc vàng vương trên cánh tay cô. Gió biển thổi chúng bay lên rồi lại vương lại trên đó.
Anh nhìn lên và bắt gặp đôi mắt cô gắn chặt vào mắt anh. ‘Không phải là tôi không hạnh phúc.’ Cô nói.
‘Tôi biết điều đó.’
Cô chăm chú nhìn anh, đôi môi dễ thương của cô lúc này rất nghiêm nghị. Cô cắn chặt môi rồi quay lưng về phía anh. Cô đứng bất động.
‘Cái nút ở trên,’ cô nói.
‘Gì cơ?’
‘Tôi không thể tự cởi được.’
Có cái gì đó kích thích anh vô cùng. Cái cảm giác nhẹ nhõm khi biết rằng, cuối cùng điều ấy cũng đến, người đàn bà xuất hiện trong giấc mơ của anh hằng đêm, mê hoặc anh trên chính chiếc giường này hằng đêm, cuối cùng người đàn bà ấy cũng là của anh. Khoảng cách giữa cô và anh, sự xa cách của cô càng làm anh thêm phấn khích. Anh muốn cái cảm giác nhẹ nhõm này không chỉ là cảm giác, anh muốn thực sự cảm thấy nỗi đau và sự mệt mỏi đến kiệt sức của cái ước muốn không ngừng nghỉ kia được xoa dịu.
Anh đỡ ly rượu từ tay cô, và đôi tay ấy của cô lùa vào tóc, vuốt ngược lên chiếc cổ trần thanh mảnh. Anh tuân theo sự chỉ dẫn không lời, dùng tay vuốt lên làn da mịn màng của cô. Những ngón tay anh lóng ngóng, vụng về vội vã. Anh dõi theo chúng một cách vô định, lóng ngóng cởi chiếc khuy áo bằng lụa và khi anh cởi được chiếc khuy, anh thấy rõ các ngón tay anh đang run lên. Anh đứng yên và lặng ngắm chiếc cổ để trần của cô: nó ở ngay trước mặt anh, hơi cúi về phía trước một chút, như một lời mời chào. Anh thèm khát được đặt môi lên đó, anh đã có thể tưởng tượng mùi vị của làn da mong manh dễ vỡ đó. Ngón tay cái của anh nhẹ nhàng dừng lại nơi cổ cô và mơ tưởng về những gì đang chờ đợi phía trước. Cô thở nhẹ với đôi chút căng thẳng, nhẹ tới mức anh chỉ cảm thấy mà không nghe thấy. Và bỗng nhiên có gì đó trong anh khiến anh ngừng lại.
Anh nhìn xuống phía dưới, nơi mái tóc vàng sậm của cô chạm vào da, nơi những ngón tay thon thả của cô vẫn đang giữ lại. Và anh hiểu, với một niềm tin khủng khiếp, rằng điều gì sắp xảy ra.
Anthony O"Hare nhắm chặt mắt, và rồi, với sự thong thả một cách tế nhị, anh kéo lại váy cho cô. Anh bước lùi lại một chút.
Cô bối rối, chắc hẳn nghĩ xem anh đang làm gì, vì sao cô vẫn chưa cảm nhận được làn da của anh ở trên người cô. Rồi cô quay lại, một bàn tay vẫn để trên cổ, và cô hiểu điều gì đang xảy ra. Cô nhìn anh, mặt cô biến sắc.
‘Tôi xin lỗi,’ anh ấp úng, ‘nhưng tôi – tôi không thể.’
‘Ôi…’ Cô lùi lại, đưa tay che miệng, cổ cô ửng đỏ. ‘Lạy Chúa.’
‘Không. Cô không hiểu rồi, Jennifer. Điều đó không có nghĩa là…’
Cô đẩy anh sang một bên, vơ vội chiếc túi và trước khi anh kịp giải thích thêm, cô vặn tay nắm cửa và chạy dọc theo hành lang.
‘Jennifer!’ Anh hét lên. ‘Jennifer! Nghe tôi giải thích!’ Nhưng cô đã đi khuất khi anh chạy ra tới cửa.
Chuyến tàu của Pháp chậm chạp lê qua những vùng quê khô hạn để tới Lyon, như thể nó hiểu anh đang cần một khoảng thời gian rất dài để suy ngẫm về tất cả những sai lầm mà anh mắc phải, về những điều anh không thể thay đổi dù anh muốn. Một đôi lần anh muốn sang toa ăn uống mua cho mình một ly whisky lớn, anh dõi nhìn theo người phục vụ khéo léo lách qua từng toa tầu, cầm trên tay một chiếc khay bạc với rất nhiều ly nước và rượu rót sẵn, trông anh ta như một diễn viên ba lê với những bước gập và chạy, chỉ cần một cái với tay là anh đã có thể có một ly rượu giải khuây. Nhưng anh đã không làm thế và anh biết chắc điều gì đã khiến anh quyết định như vậy.
Đêm tới, anh ngả lưng trên chiếc giường nằm trên tàu, bỏ ra khỏi đầu hình ảnh người phục vụ đi đi lại lại. Khi chiếc tàu lừng lững tiến vào bóng đêm đen đặc, anh bật đèn ngủ và lấy ra một cuốn sách ai đó đã để lại trong khách sạn. Anh đọc đi đọc lại một trang sách, chẳng hiểu chúng viết về cái gì và cuối cùng vứt sang một bên một cách bực tức. Anh có mang theo một tời báo bằng tiếng Pháp nhưng không gian chật hẹp đến mức anh không thể giở toàn bột trang báo ra đọc, mà chữ thì lại quá mờ dưới ánh sáng yếu ớt của toa tàu. Anh lơ mơ ngủ, rồi lại tỉnh, và khi nước Anh càng tới gần, anh càng thấy tương lai của mình như một đám mây xám xịt.
Cuối cùng, khi bình minh dần lên, anh lấy ra một chiếc bút và mẩu giấy. Anh chưa bao giờ viết thư cho một người phụ nữ, ngoại trừ mấy dòng cảm ơn ngắn gọn anh gửi cho mẹ mỗi lần nhận được quà của bà, hay thư gửi cho Clarrisa để hỏi về vấn đề tài chính và lần gần đây nhất là bức thư xin lỗi gửi Jennifer. Giờ đây, chìm đắm trong đau khổ và ám ảnh bởi sự tự ái tột cùng hiển hiện trong mắt Jennifer trước khi cô lao ra khỏi cửa, hiểu rằng anh có thể sẽ chẳng bao giờ gặp lại cô lần nữa, anh quyết định viết thật lòng mình, hy vọng có thể giải thích phần nào để cô hiểu anh.
Người thân yêu nhất đời anh,
Anh đã không có cơ hội để giải thích cho em hiểu, khi em rời bỏ anh nhanh như vậy. Anh muốn em hiểu rằng không phải anh từ chối em. Chỉ đơn giản vì em là một giấc mơ xa vời mà anh chưa bao giờ có thể nghĩ có thể thành sự thật. Sự thật là em không phải người đàn bà có chồng đầu tiên anh làm tình với. Em biết hoàn cảnh của anh rồi đó, và đúng là, những mối quan hệ như thế cũng khá là phù hợp với cuộc sống của anh. Anh không muốn quá gần gũi với một ai cả. Khi chúng ta lần đầu gặp nhau, anh từng muốn nghĩ rằng em cũng sẽ là một mối quan hệ như thế.
…Chính vì lý do đó, anh đã cài khuy áo em lại. Và cũng vì lý do đó anh đã thức trắng hai đêm, căm giận bản thân mình vì đã làm một điều tử tế duy nhất từ trước tới nay.
Hãy tha thứ cho anh.
B
Anh cất lá thư cẩn thận vào túi áo ngực, và cuối cùng anh đã có thể chợp mắt.
Don dụi điếu thuốc, chậm rãi đọc bản thảo đánh máy của một chàng trai trẻ tuổi kiên nhẫn đứng đợi ông bên cạnh bàn và đổi chân liên tục. ‘Đến từ song hôn anh còn không biết cách viết. Đó là chữ o, không phải chữ a.’ Rồi ông lấy bút chì gạch không thương tiếc ba dòng đầy chữ. ‘Phần mở đầu này dở tệ. Anh có một người đàn ông cưới tới ba người đàn bà tên là Hilda, cả ba chỉ cách nhau hai dặm. Cái hay của câu chuyện là ở chỗ đó. Vậy mà cái cách anh viết… tôi thà đọc Hansard viết về hệ thống thoát nước của thành phố còn hay hơn.’
‘Xin lỗi, ông Franklin.’
‘Xin lỗi cái quái gì. Anh viết lại cho tử tế đi. Bài này dự định cho lên số báo sớm mà giờ đã là bốn giờ kém 20 rồi. Chuyện quái quỷ gì xảy ra với anh vậy? “Sang hôn”! Anh có muốn học hỏi kinh nghiệm của ông O"Hare đây không? Anh ta đã ở châu Phi lâu tới mức không biết cách viết như thế là đúng hay sai.’ Rồi ông vứt trả lại tập bản thảo về phía chàng trai trẻ, người vội đón lấy tập bản thảo và nhanh chóng rời văn phòng.
‘Thế cái phóng sự chết tiệt tôi giao cho anh hoàn thành tới đâu rồi? “Những bí mật của giới Giàu có và Nổi tiếng của xã hội Riviera” ấy?’
‘Nó sắp hoàn thành rồi,’ Anthony nói dối.
‘Anh nên làm nhanh lên. Tôi đã dành nửa trang báo cho phóng sự đó vào thứ 7. Đợt vừa rồi anh đi có thoải mái không?’
‘Cũng ổn.’
Don nghiêng đầu săm soi. ‘Có vẻ như thế thật. Dù sao tôi cũng có một tin tốt lành dành cho anh đây.’
Cửa sổ văn phòng ám đầy khói thuốc đến mức bất kỳ ai vô tình dựa vào chúng cũng khiến cánh tay áo vàng khè. Anthony lơ đễnh nhìn qua đống bàn giấy bừa bộn trong phòng làm việc. Hai ngày hôm nay anh thơ thẩn trong văn phòng với bức thư luôn giữ bên mình, tự hỏi có cách nào để có thể đưa tận tay cho cô. Lúc nào anh cũng mường tượng ra gương mặt cô, ánh mắt đau khổ tột cùng khi nhận ra những điều cô mong muốn chỉ là một sai lầm.
‘Tony?’
‘Sao cơ?’
‘Tôi có tin tốt cho anh đây.’
‘Ồ, thế hả?’
‘Tôi đã nói chuyện với bộ phận Tin tức Quốc tế và họ muốn tôi cử một ai đó tới Baghdad. Công việc cần làm là bám theo một nhân viên làm tại sứ quán Ba Lan mà họ cho rằng có thể là một siêu điệp viên. Một phóng sự đầy khó nhằn đấy anh bạn. Anh có thể phải vắng mặt khoảng một hay hai tuần gì đó.’
‘Tôi không thể đi ngay bây giờ.’
‘Anh cần thêm một hay hai ngày?’
‘Tôi có một vài công việc riêng phải giải quyết.’
‘Tôi có cần phải bảo người Algieri ngừng bắn chỉ vì anh có vài việc cá nhân phải thu xếp? Anh có đùa tôi không đấy, O"Hare?’
‘Vậy thì hãy cử người khác đi. Tôi rất tiếc, Don.’
Chiếc bút bi trong tay Don bắt đầu quay vòng không kiềm chế. ‘Tôi không hiểu. Anh đi lại như kẻ rỗi hơi trong văn phòng, phàn nàn là anh cần phải được đi thực tế để có một bản tin “thực sự”, vì thế tôi cho anh một cơ hội mà tôi cá là Peterson sẵn sàng chặt đứt cánh tay anh ta để có được cơ hội đó, vậy mà bỗng nhiên anh lại muốn ngồi tại bàn giấy viết tin.’
‘Tôi đã nói rồi, tôi rất tiếc.’
Don há hốc mồm. Ông đứng dậy một cách nặng nề, đi ngang qua văn phòng và tiến về phía cửa ra vào. Sau đó ông quay lại chỗ ngồi. ‘Tony, đây sẽ là một phóng sự hay. Anh sẽ bị nó hút hồn ngay lập tức đấy. Hơn thế nữa, anh cần phóng sự này. Anh cần chứng tỏ cho họ thấy là họ có thể tin tưởng anh.’ Rồi ông ghé sát mặt vào anh. ‘Anh không còn hứng viết nữa hả? Có phải anh muốn chuyển sang những đề tài nhẹ nhàng hơn?’
‘Không phải thế. Tôi chỉ… Chỉ là hãy cho tôi thêm một hai ngày nữa.’
Don ngồi xuống, đốt thêm một điếu thuốc và rít lên một cách ồn ào. ‘Lạy Chúa tôi,’ ông nói. ‘Đó hẳn là vì một mụ đàn bà.’
Anthony không nói gì.
‘Chắc chắn rồi. Anh đã gặp một người đàn bà nào đó. Có chuyện gì vậy? Anh không thể đi đâu cho đến khi anh làm tình xong với cô ta ư?’
‘Cô ấy đã có chồng.’
‘Từ khi nào anh lại có suy nghĩ tử tế như vậy?’
‘Cô ấy là… Đó là vợ của… Stirling.’
‘Và?’
‘Và cô ấy là một người quá tử tế.’
‘Đối với anh chồng? Đừng nói với tôi điều đó.’
‘Đối với tôi. Tôi không biết phải làm gì tiếp.’
Don ngửa mặt nhìn trần nhà.
‘Ồ, một sự cắn rứt lương tâm? Hèn chi mấy ngày nay anh trông thật thảm hại.’ Ông lắc đầu, nói như thể có ai đó đang cùng ngồi trong căn phòng nhỏ. ‘Tôi không tin điều đó. Với ai thì có thể, chứ không thể là với O"Hare.’ Rồi ông để lại chiếc bút bi trên bàn bằng đôi bàn tay mũm mĩm. ‘Thôi được rồi. Đây là việc anh cần làm lúc này. Hãy tìm gặp cô ta ngay lập tức, hãy làm việc anh cần làm, hãy bày tỏ với cô ta anh ham muốn mãnh liệt như thế nào. Rồi đúng giờ có mặt trên chuyến bay xuất phát trưa mai. Tôi sẽ báo văn phòng là anh đã đi từ tối nay. Sao, anh thấy thế nào? Khi về hãy viết cho tôi một vài phóng sự cho tử tế.’
‘“Bày tỏ công khai ham muốn mãnh liệt”? Ông thật lãng mạn một cách cổ điển. Không còn cách diễn tả nào hay hơn ư?’
Anthony cảm nhận sự hiện diện của bức thư trong túi áo ngực. ‘Tôi nợ ông lần này,’ anh nói.
‘Anh nợ tôi tám mươi ba lần, con trai ạ,’ Don gầm gừ.
Không mấy khó khăn để tìm ra địa chỉ nhà Stirling. Anh đã chụp lại trang thông tin Ai là Ai, và kia, ngay dưới cùng là vần ‘m: Jennifer Louisa Verrinder, sinh năm 1934’. Tối hôm đó, sau giờ làm việc, anh phóng xe như bay tới Fitzrovia và đậu tại bãi đỗ chỉ cách ngôi nhà sơn trắng vài bước.
Đó là một ngôi biệt thự theo kiểu kiến trúc thời nhiếp chính với hàng cột trụ đỡ mái vòm phía trước. Toàn bộ ngôi nhà toát lên vẻ sang trọng của một văn phòng tư vấn trên đường Harley. Anh ngồi trong xe và tự hỏi cô đang làm gì đằng sau những tấm rèm kia. Anh tưởng tượng cô cầm một tờ tạp chí trên tay, lơ đãng nhìn ra khoảng không trong phòng và nghĩ về giây phút cô hoàn toàn mất kiểm soát trong căn phòng khách sạn tại Pháp. Khoảng gần sáu giờ rưỡi, một người phụ nữ trung niên mở cửa và đi ra ngoài, khoác lên người chiếc áo choàng, bà ngước nhìn như thể muốn kiểm tra trời có mưa hay không. Bà buộc chặt chiếc mũ che mưa lên đầu và bước vội dọc theo phố. Những tấm rèm được kéo ra bởi một ai đó và buổi chiều oi ả đang dần chuyển tối, còn anh vẫn kiên nhẫn ngồi trong chiếc Hillman, nhìn chằm chằm vào căn nhà số ba mươi hai.
Anh vừa định bỏ đi thì cửa trước bật mở. Anh ngồi thẳng người khi thấy cô bước ra ngoài. Đã gần 9 giờ tối. Cô mặc một chiếc đầm trắng không tay, trên vai khoác hờ một chiếc khăn mỏng và cô cẩn trọng bước từng bước xuống bậc thang, như thể cô không tin vào đôi chân của mình. Stirling đi ngay sau cô, nói điều gì đó mà Anthony không thể nghe thấy, chỉ thấy cô gật đầu. Cả hai bước vào chiếc ô tô màu đen. Khi chiếc xe vừa lướt đi thì Anthony cũng nhanh tay khởi động xe mình. Anh bám sát theo họ, chỉ cách một chiếc xe.
Họ đi không xa. Chiếc xe đỗ ngay cửa sòng bài Mayfair. Cô sửa lại váy áo rồi bước vội vào trong, chiếc khăn choàng được bỏ ra khỏi vai. Khi chắc chắn Stirling đã bước vào trong, anh đánh chiếc Hillman tới đỗ ngay đằng sau chiếc xe màu đen. ‘Làm ơn tìm chỗ đỗ cho tôi,’ anh vội vàng nói với người gác cổng có vẻ mặt đầy ngờ vực, vứt cho anh ta chùm chìa khóa và dúi vào tay anh ta tờ mười siling.
‘Thưa ngài, làm ơn cho tôi xem thẻ thành viên?’ Anh bị một người đàn ông mặc đồng phục sòng bài giữ lại khi đang cố lách người vào sảnh. ‘Thẻ thành viên thưa ngài?’
Nhà Stirling chuẩn bị bước vào thang máy. Anh chỉ có thể thấy cô thấp thoáng trong đám đông. ‘Tôi cần nói chuyện với một người. Chỉ hai phút thôi.’
‘Thưa ngài, tôi e rằng tôi không thể để ngài vào mà không có -’
Anthony lôi tất cả những gì anh có trong túi áo ra, từ ví tiền, chìa khóa nhà, hộ chiếu – anh dúi tất cả vào tay người đàn ông đang cố giữ anh lại. ‘Hãy giữ lấy – giữ tất đi. Tôi hứa tôi sẽ quay trở lại trong hai phút.’ Và khi người đàn ông ấy còn đang há hốc mồm chưa hiểu gì, anh đã lách mình qua đám đông và kịp nép mình vào thang máy ngay khi cửa thang máy đóng lại.
Stirling đứng ngay bên phải anh. Anh kéo vành mũ sụp xuống một chút đủ che mặt, và khi chắc chắn anh ta không thể nhận ra mình, anh len ra phía sau cho tới khi lưng chạm vào tường thang máy.
Tất cả mọi người đều quay mặt về phía cửa thang máy. Stirling, lúc này đang đứng trước mặt anh, mải mê nói chuyện với một ai đó có vẻ là người quen. Anthony nghe ông ta nói về thị trường, về khủng hoảng tín dụng và người kia thì thầm lại một cách đồng tình. Anh nghe rõ tiếng tim đập mạnh, mồ hôi túa ra sau lưng. Cô đeo một chiếc xắc nhỏ và đôi tay đeo găng trắng, mặt cô bất động, chỉ có vài sợi tóc tơ vàng rớt xuống vai từ búi tóc của cô là cho thấy cô là hiện thực chứ không phải là một thiên thần hiện hình nào đó.
‘Tầng hai.’
Cửa thang máy mở, hai người bước ra và một người bước vào. Những người còn lại miễn cưỡng dịch chuyển để nhường chỗ cho người mới vào. Stirling vẫn nói chuyện, giọng ông lên xuống trầm bổng rất ấn tượng. Đó là một buổi tối ấm áp và trong không gian nhỏ hẹp của thang máy, Anthony có thể cảm nhận rõ hơi thở của những người xung quanh, mùi nước hoa và kem dưỡng thể Brylcreem vương vấn trong không khí.
Anh ngẩng đầu lên một chút và dán chặt mắt vào Jennifer. Cô chỉ cách anh chưa tới một bước, gần tới mức anh có thể cảm nhận mùi hương từ người cô tỏa ra và từng nốt tàn nhang lấm tấm trên cổ cô. Anh tiếp tục nhìn cô chăm chú, cho tới khi cô hơi ngoảnh lại – và thấy anh. Mắt cô mở to, má cô ửng đỏ. Chồng cô vẫn mải mê nói chuyện.
Cô nhìn xuống nền nhà, rồi lại nhìn Anthony, ngực cô phập phồng thấy rõ, chứng tỏ việc anh xuất hiện ở đây đẫ khiến cô sốc như thế nào. Mắt họ gặp nhau, và trong vài giây ngắn ngủi đó, anh đã nói với cô tất cả. Anh nói với cô rằng cô là vật thể đáng ngạc nhiên nhất anh từng gặp. Anh nói với cô rằng cô đã hiện về trong từng giờ khắc anh thức và rằng mọi cảm giác, trải nghiệm anh đã từng có trong cuộc đời này cho tới thời điểm anh gặp cô là vô nghĩa và chẳng có gì quan trọng so với việc anh được gặp cô.
Anh nói rằng anh yêu cô.
‘Tầng 3’
Cô chớp mắt và họ rời khỏi mắt nhau khi một người đàn ông phía sau đi vào giữa họ và bước ra khỏi thang máy. Giữa họ lúc này hầu như không có khoảng cách. Anthony thọc tay vào túi áo lấy bức thư ra. Anh bước sang phải một bước rồi dúi bức thư vào tay cô từ đằng sau chiếc áo choàng to của một người đàn ông đang ho. Chồng cô lắc đầu không đồng tình điều gì đó với người đồng hành, rồi cả hai cười không có vẻ gì đùa cợt. Trong một khoảnh khắc, Anthony nghĩ có lẽ cô sẽ không đưa tay ra nhận bức thư của anh, nhưng rồi bàn tay đeo găng nhẹ nhàng luồn ra phía sau và bức thư biến mất vào chiếc xắc của cô.
‘Tầng 4,’ người trực thang máy gọi to. ‘Đã tới nhà hàng.’
Tất cả mọi người trừ Anthony bước ra ngoài. Stirling liếc sang phải, có vẻ giờ ông đã nhớ ra sự hiện diện của vợ, và ông nắm tay vợ, không phải một cử chỉ tình cảm lãng mạn gì mà chỉ để kéo cô nhanh ra ngoài. Anthony nhanh chóng nhận ra điều đó. Cửa thang máy đóng lại sau lưng cô, để lại anh một mình và người trực thang máy tiếp tục hô to ‘Tầng trệt,’ thang máy từ từ đi xuống.
Anthony không hề hy vọng sẽ có một sự trả lời. Anh thậm chí không thèm kiểm tra hòm thư riêng cho tới lúc anh rời khỏi nhà vào tối muộn và phát hiện hai bức thư nhét dưới tấm thảm chùi ngoài cửa. Anh nửa đi nửa chạy trên vỉa hè đông đúc, chật cứng các bác sĩ và bệnh nhân vừa rời khỏi bệnh viện St Bartholomew, chiếc va li hành lý liên tục đập vào chân. Anh cần có mặt ở sân bay Hearthrow lúc hai giờ rưỡi và anh không biết làm sao có thể tới đó cho kịp. Những nét chữ viết tay của cô làm anh sững sờ và anh còn hoảng hốt hơn khi biết giờ đã là mười hai giờ kém mười, mà anh thì đang ở tít đầu bên kia của London.
Công viên Postman. Buổi trưa.
Taxi biến đi đâu hết. Một nửa quãng đường anh leo lên tàu điện ngầm, còn lại anh chạy bộ. Chiếc sơ mi anh mất công là phẳng phiu giờ bết chặt vào người, tóc rũ rượi trước trán. ‘Xin lỗi,’ anh càu nhàu khi bị một người phụ nữ đi giày cao gót chắn đường. ‘Làm ơn cho tôi qua.’ Một chiếc xe buýt xịt khói ngay trước mặt anh và anh nghe thấy người phụ lái rung chuông để xe chạy tiếp. Anh chần chừ khi thấy một dòng người đổ xuống vỉa hè, anh cố gắng thở và nhìn đồng hồ. Đã 12 giờ 15 phút. Chắc chắn là cô không còn kiên nhẫn đợi anh nữa.
Anh đang làm cái quái quỷ gì vậy? Nếu anh lỡ chuyến bay này, Don sẽ nghĩ anh tiếp tục chơi bời với những Đám cưới vàng và các Dịp lễ hội khác trong mười năm tới. Họ sẽ nghĩ anh không đủ khả năng đương đầu với những phóng sự khó và có lý do chính đáng để giao lại đề tài cho Murfett hay Phipps.
Anh chạy dọc theo phố King Edward, thở dốc. Anh đã ở khu ốc đảo yên tĩnh nhỏ xinh ngay giữa lòng thành phố. Công viên Postman là một khu vườn nhỏ, được xây dưới triều đại Victoria để tưởng nhớ những người anh hùng. Anh đi chậm lại về phía trung tâm của công viên, cố gắng nhớ lại.
Trước mặt anh là một làn sóng xanh di động. Bình tĩnh nhìn lại, anh nhận ra đó là những người đưa thư trong đồng phục xanh, người nằm dài trên cỏ, người tản bộ, người thì xếp hàng ngồi trên những chiếc ghế dài và thơ thẩn đọc những dòng chữ tưởng nhớ khắc trên đó. Những người đưa thư của thành phố đang tận hưởng một buổi trưa ngập nắng với vẻ chất phác bình dị đặc trưng, họ vừa ăn bánh mì kẹp vừa tán gẫu và thư giãn dưới bóng râm lốm đốm của tán cây.
Anh đã có thể thở đều. Thả hành lý xuống cạnh chân, anh rút chiếc khăn tay và lau mồ hôi trên trán, rồi anh chầm chậm nhìn quanh một vòng, ánh mắt anh vượt qua những bụi dương xỉ lớn, bức tường của nhà thờ và nhìn về phía bóng râm đổ xuống của toàn nhà văn phòng bên cạnh. Anh tìm kiếm chiếc đầm màu lục trang trí bằng ngọc quý, mái tóc vàng óng ánh.
Cô không có ở đây.
Anh nhìn đồng hồ. Mười hai giờ hai mươi. Cô hẳn đã đến và đi. Cũng có thể cô đã đổi ý. Có thể Stirling đã đọc được bức thư đó. Anh sực nhớ tới bức thư thứ hai anh đã tìm thấy dưới tấm thảm chùi chân, bức thư của Clarissa, mà anh đã đút vội vào túi áo khi rời khỏi nhà. Anh lôi ra và đọc lướt. Chưa bao giờ anh đọc những bức thư viết tay của Clarissa mà không nghe thấy tiếng thở dài não lòng của cô hay không tưởng tượng ra cảnh cô cài chặt nút áo choàng và khuy cổ mỗi khi nhìn thấy anh, như thể cô sợ anh có thể làm gì đó bậy bạ nếu thấy da thịt cô.
Anh Anthony,
Em muốn báo với anh rằng em sắp cưới chồng.
Anh cảm thấy hơi sốc với ý nghĩ Clarissa cuối cùng cũng có thể tìm thấy hạnh phúc với một người đàn ông khác. Anh đã từng nghĩ cô khó có thể sống chung với một ai đó.
Em đã gặp một người đàn ông tử tế, anh ấy là chủ một chuỗi cửa hàng bán vải và anh ấy vui vẻ chấp nhận cả em và Philip. Anh ấy là một người tốt bụng, anh ấy nói sẽ đối xử với Philip như con đẻ. Đám cưới dự định tổ chức vào tháng 9. Thật không dễ dàng gì khi đề cập tới chuyện này, nhưng chắc anh phải nghĩ xem anh muốn liên lạc với cậu bé ở chừng mực nào. Em muốn anh ấy có một cuộc sống gia đình bình thường, vì thế nếu anh vẫn tiếp tục giữ mối liên hệ thường xuyên với con trai thì có thể sẽ khó để anh ấy hòa nhập hoàn toàn vào cuộc sống của hai mẹ con em.
Hãy suy nghĩ kỹ và cho em biết.
Em sẽ không cần đến sự hỗ trợ tài chính từ anh nữa vì Edgar có thể nuôi gia đình anh ấy. Em gửi kèm theo đây địa chỉ mới của em.
Chào anh,
Clarissa
Anh đọc lại bức thư lần nữa, nhưng phải tới lần thứ ba anh mới hiểu những gì cô đang đề nghị: Philip, con trai anh, sẽ được nuôi dạy bởi một thương gia buôn vải tử tế và sẽ không cần đến người cha lang thang không đáng tin cậy này. Đất trời sụp đổ dưới chân anh. Đột nhiên anh thèm được nốc một ly rượu và thấy trước mặt phía bên kia đường là một quán rượu.
‘Ôi, Lạy Chúa,’ anh nói to, đầu gối khuỵu xuống, đôi tay buông thõng và đầu cúi gập. Anh giữ nguyên tư thế trong vài phút, cố gắng suy nghĩ và cố gắng giữ nhịp tim trở lại bình thường. Rồi với một tiếng thở dài anh đứng thẳng dậy. Cô đứng ngay trước mặt anh. Cô mang một chiếc đầm trắng điểm những bông hồng đỏ to và một đôi kính râm quá khổ. Cô đẩy đôi mắt kính để lên đầu. Anh bất chợt thở ra một tiếng thờ phào nhẹ nhõm ngay trước mặt cô.
‘Tôi không thể ở lại,’ anh thốt lên. ‘Tôi phải bay đi Baghdad ngay bây giờ. Chuyến bay của tôi khởi hành lúc – tôi cũng không nhớ nữa -’
Cô quá đẹp, cô đang tỏa sáng ở độ tuổi thanh xuân rực rỡ nhất, cô hút hồn những người đưa thư, lúc này đã ngừng nói chuyện để ngắm cô.
‘Tôi không…’ anh lắc đầu. ‘Tôi có thể nói hết qua những bức thư. Rồi khi gặp cô tôi -’
‘Anthony,’ cô nói như thể anh là của cô.
‘Tôi sẽ trở về trong vòng một tuần gì đó,’ anh nói. ‘Lúc đó nếu cô đồng ý gặp tôi, tôi sẽ giải thích để cô hiểu. Có quá nhiều -’
Nhưng cô đã bước lên phía trước, đôi tay đeo găng áp lên đầu anh và kéo anh về phía cô. Một thoáng do dự, cô gắn chặt môi vào môi anh, miệng cô ấm áp và mãnh liệt đáng ngạc nhiên. Anthony quên hẳn chuyến bay. Anh quên mình đang đứng ở công viên, quên đứa con trai yêu dấu và cô vợ cũ. Anh quên luôn câu chuyện mà sếp anh tin có thể làm anh thích thú. Anh quên rằng cái cảm xúc anh đang có bây giờ còn nguy hiểm hơn cả súng đạn. Anh tự cho phép mình làm theo khao khát của Jennifer: trao anh cho cô, một cách tự nguyện.
‘Anthony,’ cô đã gọi anh như thế, và chỉ với một từ đó thôi, anh hiểu cô là của anh và anh đã bước vào một cuộc sống mới khác hẳn cuộc sống trước đây của anh.
Chuyện giữa chúng ta đã kết thúc
Tin nhắn của một người đàn bà
gửi cho Jeanette Winterson