Không lâu sau khi giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha vào năm 1821, Mexico xung đột với Texas láng giềng về chủ quyền đất đai. Cuộc xung đột đã dẫn tới chiến tranh.
Vào lúc Mexico giành được độc lập, biên giới của nước này trải rộng hơn nhiều về phía bắc so với hiện nay, bao gồm cả những vùng đất ngày nay thuộc miền Nam nước Mỹ. Nhiều công dân Mỹ định cư ở Texas khi vùng đất này còn thuộc Mexico. Năm 1835, Texas tuyên bố độc lập. Người dân Texas cử Sam Houston làm tư lệnh quân đội. Ông đã chiếm thị trấn San Antonio. Đối thủ của ông là tướng Santa Anna của Mexico đã dẫn đầu một đội quân lớn tới Texas dẹp cuộc nổi dậy. Tướng Santa Anna cho bao vây tòa nhà Alamo, trụ sở của hội truyền giáo Ki-tô ở trung tâm San Antonio và giành lại thị trấn này. Davy Crockett là một trong những người bảo vệ Alamo, trụ sở này đôi khi được sử dụng như một pháo đài. Alamo đã trở thành biểu tượng kháng chiến của Texas trong cuộc chiến tranh chống Mexico.
Tướng Santa Anna sau đó bị quân của Houston đánh bại trong trận San Jacinto năm 1836. Texas trở thành một nước độc lập, gọi là cộng hòa “Một Sao” (Lone Star). Sau vài năm độc lập, người dân ở Texas bỏ phiếu gia nhập Hoa Kỳ. Năm 1845, Texas trở thành bang thứ 28 của Hoa Kỳ. Các cuộc xung đột giữa người Texas và người Mexico vẫn tiếp diễn bởi Texas muốn mở rộng lãnh thổ.
Tổng thống Mỹ James Knox Polk (1795–1849) đưa quân tới Rio Grande, xâm chiếm vùng đất mà Mexico vẫn nhận là của mình. Người Mexico chống lại và cuộc chiến tranh Mỹ-Mexico bùng nổ. Quân Mỹ chiếm thành phố Mexico năm 1847, và quân Mexico phải đầu hàng. Hiệp ước Guadalupe-Hidalgo năm 1848 đã trao cho Mỹ các vùng lãnh thổ mới rộng lớn, gồm các bang ngày nay của Mỹ là California, Nevada, Utah, Arizona và một số vùng đất thuộc New Mexico, cũng như Texas.